Cố gắng biết rõ hơn một tỉnh miền Trung “ hay co” :
Công nghệ, Dịch Vụ tỉnh Quảng Ngãi có tiến như Đồng Nai – Biên Hòa, Bà Rịa- Vũng Tàu không ?
G S Tôn thất Trình
“Quảng Nam hay cải, Quảng Ngãi hay co,
Phần I :
Tổng quát
Vị trí :
Quảng Ngãi ( Nghĩa ) là một tỉnh duyên hải biển Đông miền Trung Việt Nam cách phía Nam Hà Nội 883 km và cách phía Bắc Thành phố Sài Gòn ( HCM ) 838 km; vĩ tuyến 1500’ Bắc và kinh tuyến 1080 40’ Đông . Quảng Ngãi là tỉnh then chốt cho Vùng Trọng Điểm Kinh tế miền Trung, qui họach sau năm 1975 và Hành Lang Kinh tế Đông Tây – East- West Economic Corridor. Quảng Ngãi là trung tâm quan trọng cho hệ thống giao thông quốc lộ Nam Bắc số 1A , đường xe lữa ngang qua tỉnh nhà và quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên đến Lào, Căm Bốt, Thái Lan và Miến Điện – Myanmar. Quảng Ngãi có cảng sâu là Dung Quất, cách hai sân bay quốc tế Chu Lai 35 km và Đà Nẳng 120 km. Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, Nam giáp tỉnh Bình Định, Tây giáp tỉnh Kontum và Đông là Biển Đông – Thái Bình Dương.
Diện tích tỉnh là 5137km2 ( 1983.6 dặm Anh vuông ). Dân số tháng 4 năm 2009 là 1217 150 người . Mức gia tăng dân số từ năm 2001- 2007 là 1 % mỗi năm, nhỏ bé hơn mức gia tăng dân đô thị ước lượng là 3. 9% mỗi năm, một trong tỉ xuất cao nhất các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ. Tuy rằng Quảng Ngãi nay vẫn còn là tỉnh đô thị hóa kém nhất vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ, chỉ 14.4% sĩ số dân sống ở đô thị. Cũng như các đồng bằng duyên hải miền Trung, thành phần tộc (sắc ) dân rất thuần nhất, hầu như tòan thể dân chúng ( trên 90% ) nay là tộc dân Kinh( Việt ). Cộng đồng Hrê chỉ khá nhiều ở Tây Nam tỉnh. Họ là đa số cư dân ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà ( trước đây gồm luôn cả huyện Sơn Tây ) . Một số nhỏ tộc dân Co ( ? ) sinh sống ở huyện Trà Bồng ( trước đây gồm luôn huyện Tây Trà . Ngòai ra còn một nhóm nhỏ tộc dân Xê Đăng ở huyện Sơn Hà. Nhắc lại theo Mặc Đăng, Xê ( Xơ ) Đăng có chừng 73 100 người, nhiều nhất ở hai tỉnh Gia Lai, Kontum khỏang 45 330 người, H’Rê ( chừng 66 884 người, đông nhất ở Quảng Ngãi và Bình Định 65 797 người ), Co ( chừng 16 828 người, tập trung phía nam Đà Nẳng, và ở hai tỉnh Nghĩa Bình ), thuộc họ ngôn ngữ Nam Á, nhóm Môn –Khmer. Còn tộc dân Kinh hay Việt, ngôn ngữ khác hẳn, cũng thuộc họ Nam Á, nhóm Việt – Mường .
Về hành chánh, nay Quảng Ngãi chia ra 13 huyện và thị trấn duy nhất là tỉnh lỵ Quảng Ngãi . Đó là các huyện Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Tây Trà, Trà Bồng, Tư Nghĩa, Lý Sơn ( huyện đảo Cù lao Ré ở Biển Đông ). Quảng Ngãi có 10 thị trấn huyện lỵ, 161 xã và 10 phường (theo thống kê năm 2002).
Suôi dòng thời gian và lịch sử
Thời kỳ văn minh Sa Huỳnh, đồng niên đại văn minh Đông Sơn ( sông Hồng ), Văn Minh Đồng Nai và văn minh Ốc Eo- Ba Thê ( sông Hậu ).
Ở phía Nam quận Đức Phổ giáp giới tỉnh Bình Định là làng đánh cá, ruộng muối biển… Sa Hùynh và các địa danh lân cận, nơi các nhà khảo cỗ Pháp đã phát hiện đầu tiên di tích một nền “văn hóa- văn minh Sa Huỳnh” từ đầu thiên niên kỷ thứ hai đến 1-2 thế kỷ trước Công Nguyên ( BC ), thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau, đạt đỉnh cao thời đại sắt. Đó là những bát gốm, mâm đồng hình con tiện được tô màu đỏ, chì, những hoa tai có mấu, những đồ trang sức hai đầu thú và tục chôn người chết trong mộ chum v.v… Các di tích này cũng được khai quật thêm tháng 7 năm 2011 ở hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Ít nhất là đã đào được một ngàn chum – jars, từ năm 1975. Chum đặt thẳng đứng, chứa các đồ vật cúng dâng như đồ gốm đất nung - earthenware ceramics, các vật dụng đồng thau và sắt, châu báu trang sức; vài đồ trang sức bị phá hủy khi làm tang lễ chôn cất. Chum cỗ và bông tai hai đầu thú cũng được khai quật ở nhiều xứ khác như Đài Loan, Phi Luật Tân và Thái Lan, ngòai Việt Nam. Khiến nhiều nhà khảo cỗ cho rằng văn hóa Sa Huỳnh nhập vào Việt Nam từ Nam Á và là tiền thân của văn hóa Champa cũng đến Việt Nam từ Nam Á ( ? ) sau đó . Đôi khi bông tai hai đầu thú chế tạo bằng gương- glass , đeo hai bên tai, ít nhất là một bông tai di tích này vẫn còn lũng lẳng ở một sọ người khai quật. Những đầu thú hai đầu ở cuối bông tai giống như sừng bò lòai Pseudoryx nghetinhensis, tìm thấy ở tỉnh Nghệ An. Dù sao đi nữa, Sa Huỳnh là một trung tâm văn minh văn hóa Việt Nam sơ khai, cùng niên đại với các văn minh Đông Sơn – Sông Hồng, văn hóa lưu vực Đồng Nai, văn hóa Ốc Eo - Ba Thê và vùng bìa rừng U Minh ( di tích Trăm Phố ), chiếu theo Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn , Hòang Xuân Chinh ( 1989 – 1995).
Mộ chum Sa Huỳnh được nghệ nhân Lâm Dũ Xênh phối hợp với ông Tô Quang Dũng, chuyên viên phục dựng thuộc Hiệp hội UNESCCO Việt Nam, phục hồi nguyên dạng từ hàng nghìn mảnh gốm vỡ mộ chum Sa Huỳnh |
Ít nhất là đã đào được một ngàn chum – jars, từ năm 1975. Chum đặt thẳng đứng, chứa các đồ vật cúng dâng như đồ gốm đất nung - earthenware ceramics, các vật dụng đồng thau và sắt, châu báu trang sức; vài đồ trang sức bị phá hủy khi làm tang lễ chôn cất. Chum cỗ và bông tai hai đầu thú cũng được khai quật ở nhiều xứ khác như Đài Loan, Phi Luật Tân và Thái Lan, ngòai Việt Nam. Khiến nhiều nhà khảo cỗ cho rằng văn hóa Sa Huỳnh nhập vào Việt Nam từ Nam Á và là tiền thân của văn hóa Champa cũng đến Việt Nam từ Nam Á ( ? ) sau đó . Đôi khi bông tai hai đầu thú chế tạo bằng gương- glass , đeo hai bên tai, ít nhất là một bông tai di tích này vẫn còn lũng lẳng ở một sọ người khai quật. Những đầu thú hai đầu ở cuối bông tai giống như sừng bò lòai Pseudoryx nghetinhensis, tìm thấy ở tỉnh Nghệ An. Dù sao đi nữa, Sa Huỳnh là một trung tâm văn minh văn hóa Việt Nam sơ khai, cùng niên đại với các văn minh Đông Sơn – Sông Hồng, văn hóa lưu vực Đồng Nai, văn hóa Ốc Eo - Ba Thê và vùng bìa rừng U Minh ( di tích Trăm Phố ), chiếu theo Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn , Hòang Xuân Chinh ( 1989 – 1995).
Đồ trang sức tìm thấy trong mộ táng tại Cần Giờ, TPHCM, niên đại 2100 năm cách ngày nay. |
Nhà Hồ ngắn ngủi ( 1400 – 1407 )chiếm Cỗ Lũy Động, nhưng chiến tranh Chiêm Việt liên miên ( Chiêm Thành lúc này đựợc Trung Quốc nhà Minh ủng hộ triệt để),đến đời Hồng Đức Lê Thánh Tông mới đặt được phủ Tư Nghĩa, phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay, thuộc Thừa Tuyên thứ 13 là Quảng Nam. Nhưng thành trì, thủ phủ Thừa Tuyên Quảng Nam lại thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay .
Theo Phan Khoang ( Việt sử xứ Đàng Trong, Quyễn Thượng- 1967 ), sau khi lên ngôi Hồ Hán Thương tháng 7 năm 1402, đem đại quân đi đánh Chiêm Thành, cho Đỗ Mãn làm Đô Tướng. Vua Chiêm là Ba Địch Lại - Jaya Simhavarman V, thua trận ở gần đất Chiêm sai cậu là Bố Điền dâng một con voi trắng, một con voi đen, phương vật và đất Chiêm Động, để yêu cầu vua nhà Hồ rút quân. Chiêm Động là phần phía Nam tỉnh Quảng Nam ngày nay, chia ra làm hai châu Thăng, Hoa. Hồ Qúi Ly, cha của Hồ Hán Thương, ép Bố Điền đổi tờ biểu, phải nạp luôn cả Cổ Lũy Động nữa. Cổ Lũy Động là phần phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay,chia làm hai châu Tư, Nghĩa. Nhà Hồ hạ lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn. Còn Chiêm Thành thu lấy dân vùng này đem về nước, dân ở lại dùng làm quân đóng ở biên giới. Dân Việt vào khai khẩn phải thích ( tục xâm mình lần đầu tiên ) hai chữ tên châu mình trên cánh tay. Người Chiêm Thành không có họ, ai có họ là dân Việt mới đến sau. Năm 1403, Minh Thành Tổ lên ngôi ở Tàu, chiếu theo tờ biểu bằng vàng lá Ba Đích Lại xin triều cống và tố cáo “An Nam” xâm lược, xuống chiếu răn giới nhà Hồ. Cũng năm 1403, Hồ Hán Thương đóng thuyền nhỏ đánh Chiêm Thành, dự tính chia các đất từ Tư Nghĩa trở vào Nam đến biên giới Tiêm La ( Chân Lạp ? ) làm châu huyện Việt, phong Phạm Nguyên Khôi làm Đại Tướng Quân, Đỗ Mãn là bộ quan đô tướng, vây thành Trà Bàn, nhưng Trà Ban được phòng thủ vững vàng, sau 9 tháng hết lương, phải rút quân về. Năm Minh Vĩnh Lạc thứ hai ( 1404 ), Chiêm Thành sợ không tồn tại được xin lệ thuộc bản đồ Minh Triều và xin Tàu sai quan sang cai trị. Minh Thành Tổ gửi 9 chiến thuyền sang cứu Chiêm Thành, trách Hồ Hán Thương và gửi phẩm vật tặng Ba Đích Lại. Năm 1406 ( ? ) quân Minh đánh quân nhà Hồ thua chạy, Chiêm Thành nhân cơ hội đem quân sang lấy lại Chiêm Động và Cổ Lũy Động. Quân Chiêm sau đó cũng lấy lại Thăng Hoa, rồi lại đánh Hóa Châu. Lấy được Chiêm Động và Cỗ lũy Động, năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), vua Chiêm sai đem mấy người tài giỏi Việt bị bắt, nạp cho nhà Minh. Không rỏ trong số này có kiến trúc sư Việt là Nguyễn An ( hay là bị bắt những năm sau ) bị đưa sang Bắc Kinh làm nô lệ, nhưng lại giúp Vua Minh Thành Tổ- Vĩnh Lạc vẽ và xây cất kinh đô thứ hai, nay là Tử Cấm Thành (hoàng thành đồ sộ Trung Quốc ngày nay ) Bắc Kinh. Nhà Minh bắt được cha con họ Hồ rồi, cử Đặng Tất làm Đại Tri Châu Hóa châu.
Năm 1407, Đặng Tất nghe tin Giản Định Đế nhà Hậu Trần dấy lên, bèn giết hết quân Minh, ra Nghệ An theo vua Hậu Trần. Nhưng năm 1409, vua Giản Định nghe lời dèm pha giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung, con Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị, con Nguyễn Cảnh Chân đem quân Thuận Hóa ra Thanh Hóa, tôn Trần Quí Khóach lên ngôi vua, hiệu là Trùng Quang. Năm 1423, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân Minh đánh châu Thuận Hóa, bắt được Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị. Vua Trùng Quang chạy sang Lão Qua ( Lào ) cũng bị bắt, chấm dứt nhà Hậu Trần. Tuy Trương Phụ có đặt quan cai trị phủ Thăng Hoa, nhưng Chiêm Thành vẫn có đặt Trưởng lộ chiếm quản, nhà Minh chỉ ghi tên mà thôi. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, sai trọng thần vào trấn thủ Hóa châu. Năm đầu Thiệu Bình ( 1434 ), thấy vua Thái Tông còn nhỏ, Chiêm Thành cướp Hóa Châu, nhưng phải rút về, khi Tư Mã Lê Liệt đốc quân đánh đuổi. Vua Chiêm Ba Địch Lại mất năm 1441. Từ đó Chiêm Thành bị nội lọan, ngọai xâm, lần lần suy yếu. Năm 1446, Đô đốc Lê Thọ điều khiển quân nhà Lê, đánh tan quân Chiêm chiếm Cỗ Lũy, Ly Giang (? ), Đa Gia ( ? ) và thừa thế đánh Trà Bàn, thắng lớn. Các vua Chiêm từ Ma Ha Qui Lai ( cháu Ba Đích Lai ? ) đến Ma Ha Qui Do ( giết anh lên ngôi 1449 - 1458 ), Bàn La Trà Duyệt ( Duyệt giết Quí Do năm 1458), đều cống nhà Minh và được nhà Minh phong vương. Riêng Trà Duyệt không cống vua Lê. Năm 1460, Trà Duyệt nhường ngôi cho em là Bàn La Trà Tòan. Trà Tòan sai sứ sang cống vua nhà Minh mới lên ngôi là Hiến Tông ( 1465 ), để khôi phục lại đất đai nhà Trần lấn được ở Chiêm Thành, nhưng vua nhà Minh khuyên vua Chiêm không nên khinh xuất, gây chiến tranh với Đại Việt. Thấy không được nhà Minh giúp, Trà Tòan sai sứ sang cống vua Lê Thánh Tông. Nhưng vua Thánh Tông muốn Chiêm Thành đối với Đại Việt như đối với Trung Quốc, buộc phải cống thêm. Chiêm Thành không chịu. Năm 1469, Trà Tòan sai sứ sang cống nhà Minh và sai quân đánh Hóa Châu. Năm 1470, sau khi sai sứ sang nhà Minh kể tội người Chiêm quấy nhiễu, vua Lê Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm Thành. Ngày mồng một tháng 3 năm 1971, sau khi chiến thuyền quân Lê đến cửa biển Tân Áp ( phủ Tam Kỳ, Quảng Nam ) và cửa biển Cựu Tọa cách Tân Áp độ 7 dặm, chặn đường về 5000 quân Trà Tòan đánh lén ở cửa Sa Kỳ( ở tỉnh Quảng Ngãi ngày nay ), thừa thắng xuất quân đánh Thị Nại ( tỉnh Bình Định) ngày nay, tiến đến hạ thành Trà Bàn, bắt Trà Tòan và hơn 30 000 người. Hôm sau, ban sư về kinh đô. Em Trà Tòan là Trà Tọai ( sử Minh gọi lầm là Trà Duyệt ) trước khi bị bắt, có sai sứ sang nhà Minh cáo nạn. Năm 14 72, sợ “An Nam” cường ngạnh” Minh Hiến Tông ( Thành Hóa thứ 8 ) sai sứ sang phong vương cho Trà Tọai, nhưng khi sứ Minh cầm cờ tiết đến cảng Tân Châu ( cửa Thị Nại ) bị cảng cự, mới biết rằng Chiêm đã bị “An Nam” chiếm cứ rồi. Vua Lê Thánh Tông lại sai tướng tá đánh tới, mở đất đến biên giới hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, dựng bia ở núi Thạch Bi, phân chia địa giới hai nước. Uy quyền vua Đại Việt nay đến phủ Hòai Nhơn ( Nhân ), tỉnh Bình Định ngày nay. Hồng Đức năm thứ 2, tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm đặt làm đạo Thừa Tuyên Quảng Nam là đạo Thừa Tuyên thứ 13 của Đại Việt . Thống lãnh 3 phủ, 9 huyện, phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa, phủ Hòai Nhơn. Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện là Bình Sơn, Mộ Hoa và Nghĩa Hành. Chúa Nguyễn Hòang đổi phủ Tư Nghĩa làm phủ Quảng Nghĩa. Thời Tây Sơn đổi làm Hòa Nghĩa ; Hòa Nghĩa trở về Nam thuộc Trung Ương Hòang đế Nguyễn Nhạc , Thăng Điện trở ra Bắc thuộc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ . Còn Mộ Hoa thời Thiệu Trị đổi là Mộ Đức vì kỵ húy chữ Hoa. Năm 1490 , vua Lê Thánh Tông đổi tên đạo Thừa Tuyên thành Xứ . Đời vua Hồng Thuận Lê Tương Dực đổi tên Xứ làm Trấn . Khi Đoan quận Công Nguyễn Hòang vào trấn thủ Thuận Hóa thì Trấn quốc công Bùi Tá Hán làm tổng trấn Quảng Nam. Năm 1568, Tá Hán mất. Năm 1570, Thái sư Trịnh Kiểm cho Nguyễn Hòang từ Tây Đô trở về trấn Thuận Hóa và cho kiêm nhiệm luôn trấn Quảng Nam. Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh thay Tá Hán làm Tổng Binh cai trị trấn Quảng Nam, trao lại trấn này cho Nguyễn Hòang kiêm lảnh, và đổi về trấn thủ Nghệ An. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi tên Xứ thành Dinh , nhập huyện Điện Bàn, thuộc phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa vào Dinh Quảng Nam. Xứ Quảng Nam, năm 1602, chỉ mới đến phủ Hòai Nhơn và biên giới cực nam là huyện Tuy Viễn( nay là Tuy Phước ; bên kia Tuy Phước là đất Chiêm Thành. Cũng vào năm 1602, Nguyễn Hòang cho xây dinh trấn thủ Quảng Nam tại xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên. Trước khi có dinh Cần Húc, tất cả các vị trấn thủ sau Bùi Tá Hán đều đóng tại dinh Chánh Lộ, xã Cẩm Thành, huyện Chương Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Như vậy vua Lê Thánh Tông đã chọn Chánh Mông ( hay Chánh Lộ ) thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay làm tâm điểm cho Đạo ( Xứ )Thừa Tuyên Quảng Nam, trên chiều dài Điện Bàn – Đá Bia. Một chi tiết khá hy hữu về kiến trúc thành trì dinh Chánh Lộ là dinh trấn thủ Quảng Nam này chỉ trổ có 3 cửa Đông , Tây và Bắc , không có cửa Nam ( đề phòng quân Chiêm tấn công đến từ phía Nam chăng ? ). Sách Đại Nam Nhất Thống Chí về tỉnh Quảng Ngãi, mục thành trì, cũng ghi nhận là không có cửa Nam.
Năm 1611, Chiêm Thành đem quân sang xâm lấn, Đoan Quận công sai chủ sự là Văn Phong đem quân đi đánh lấy đất Phú Yên phía Nam Tuy Viễn, đặt làm Phủ Phú Yên, chia ra hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa. Dinh Quảng Nam lúc bấy giờ mới thật sự đến Đèo Cả , biên giới tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay. Đời chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat, xưng Vương, chia lảnh thổ Đàng Trong ra làm 12 dinh. Phủ Quảng Ngãi thuộc dinh Quảng Nam tục gọi là dinh Chiêm ở xã Cần Húc, cũng như phủ Qui Nhơn ( đổi tên từ Qui Ninh ). Tuy nhiên phủ Quảng Ngãi và phủ Qui Nhơn lại đặt riêng chức Tuần vũ và chức Khám lý để cai trị. Lúc này, các đất đai sông Đồng Nai và sông Cữu Long gồm dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn, dinh Long Hồ, và trấn Hà Tiên ( vì Hà Tiên không do một trấn thủ mà do một đô đốc cai trị ). Đời vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh và phủ Quảng Ngãi thành tỉnh Quảng Ngãi và phủ Qui Nhơn thành tỉnh Bình Định ( có nghĩa là vua Gia Long đã bình định lấy lại được phủ từ nhà Tây Sơn ). Thời Pháp thuộc cũng giữ nguyên danh tánh này.
Ngay sau khi Nhật lật đổ chánh quyền thuộc địa Pháp, ngày 11 tháng 3 năm 1945, đảng Cọng Sản đã tổ chức khởi nghĩa cướp chánh quyền ở Ba Tơ. Toán du kích quân Ba Tơ gồm hàng chục ngàn dân quân đa số là tộc dân Hrê các huyện Ba Tơ, Sơn Hà, Minh Long ( thời gian này gồm luôn huyện Sơn Tây) họat động cho Việt Minh, đã nổi tiếng từ đó và tiếp tục kháng chiến chống ngọai xâm ở Quảng Ngãi, cũng như ở nhiều tỉnh khác ( theo Lockhard, A Nation in Arm- The origin of the People ‘s Army of Viet Nam, Sydney, Australia -1989). Trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam, Quảng Ngãi vẫn là tỉnh Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – hay “ Việt Cọng” họat động mạnh mẽ, với những chiến dịch khốc liệt như Malheur I , Malheur II, Quyết Thắng 202 và những cuộc tàn sát dân chúng vô tội ở Bình Hòa, Diên Niên - Phước Bình năm 1966 , Mỹ Lai năm 1968 … Cả đôi bên đối thủ đã mô tả tình cảnh này : đặc biệt là Nhật ký của Đặng Thùy Trâm ( không kém bi thảm của nhật ký Anne Frank, Hòa Lan thời Thế Chiến Thứ Hai), một nữ bác sĩ miền Bắc xâm nhập đánh miền Nam ở huyện Mộ Đức và của sách Tim O’ Brien “The Things They Carried”. Năm 1975, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi sáp nhập nhau thành tỉnh Nam Nghĩa. Sau đó lại tách ra thành hai tỉnh riêng biệt.
Ngòai các danh nhân lịch sử kể trên, có lẽ nên nói qua về hai nhân vật tỉnh nhà khác ít ai nói tới . Trước tiên là Nguyễn cư Trinh tuy không sinh ở Quảng Ngãi, nhưng công trình tại Quảng Ngãi cũng như mở mang xứ sở đến Hà Tiên-Cà Mau lại to lớn. Nguyễn Cư Trinh dòng dõi họ Trịnh ở huyện Thiên lộc – Hà Tĩnh, tổ tiên xưa là Trịnh Cam , Binh Bộ Thượng Thơ dưới triều Lê. Đến đời thứ bảy con cháu Trịnh Cam, chúa Minh Nguyễn Phước Chu, chúa thương tài Trịnh Đệ cho đổi họ tên thành Nguyễn Đăng Đệ . Con út Đăng Đệ là Nguyễn Cư Trinh sinh năm 1716, đậu hương cống năm 1740, và được bổ làm Tri phủ Triệu Phong. Năm 1750, thời chúa Vỏ Nguyễn Phước Khoát ông được cử giữ chức Tuần phủ ( Vũ ? ) Quảng Ngãi. Nơi đây thường có tộc dân Đá Vách Hrê ( ? ) khuấy phá, ông phải đem quân đánh dẹp. Để khuyến khích quân sĩ trong cuộc bình định này, ông có đặt ra tuồng Sải Vãi, tư tưởng Tống Nho như Hàn Dũ ở Trung Quốc và Trương Hán Siêu ở Việt Nam, để động viên tinh thần các giới cứu nước. Công lao lớn nhất là năm 1773, ông được phái đi đánh Thủy Chân Lạp, góp công lớn vào cuộc mở mang đất miền Tây ( theo Nguyễn văn Sâm - Dòng Việt số 22 năm 2008 ).
Nhân vật lịch sử thứ hai Phạm văn Đồng, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1906 ( mất ngày 29 tháng tư năm 2000), tại làng Đức Tân, huyện Mộ Đức. tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1925, ông tham gia biểu tình sinh viên để tưởng niệm nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1926 đi Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc tham dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc ( sau này đổi tên là Hồ Chí Minh ) tổ chức, rồi gia nhập hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam, tiền thân của đảng Cọng sản Việt Nam. Năm 1929, ông bị chánh quyền Pháp thuộc địa bắt giam và kết án 10 năm tù đày ra Côn Đảo. Năm 1936, được chánh quyền Mặt trận Bình Dân Pháp tổng ân xá và thả ra khỏi tù. Năm 1940 chánh thức gia nhập đảng Cọng Sản Đông Dương, họat động theo đường lối Hồ Chí Minh lảnh đạo. Sau Cách Mạng tháng 8 năm 1945, được bổ nhiệm làm bộ Trưởng Tài chánh ở Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa, Việt Minh mới thành lập. Năm 1946 là trưởng phái đòan Việt Nam tại Hiệp Định Sơ bộ Fontainebleau. Tháng 5 năm 1954 cũng làm trưởng phái đòan chánh phủ Hồ Chí Minh ký kết hiệp định Giơ Neo - Geneva với thủ tướng Pháp Mendès France, trên tư cách là Phó thủ tướng kiêm nhiệm BộTài Chánh. Năm 1955 được bổ nhiệm làm thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa. Ông cũng là một lảnh tụ chống Mỹ ở Chiến Tranh Việt Nam. Ông liên lạc mật thiết với Chánh Phủ Trung Cọng để nhận viện trợ Tàu đánh Mỹ. Ông cũng là một nhân việc chánh yếu đàm phán hòa bình dưới các chánh quyền Mỹ Lyndon Johnson và Richard Nixon. Ở đảng Cọng sản, ông là một nhà chánh trị khôn khéo, cố duy trì một tư thế trung lập trong những cuộc đụng chạm nội bộ đảng, đặc biệt khi thống nhất Việt Nam, sau năm 1975. Chánh trị thực dụng này giúp ông giữ vị trí thủ tướng trong 32 năm trời,mãi đến khi ông được Đại hội Đảng thứ 6 cho phép nghĩ hưu năm 1987. ( theo tài liệu của James Logan Courier - Wikipedia ngày 01 tháng 3 năm 2011 ). Tuy nhiên, trong bang giao với Trung Quốc ông đã “sơ hở” gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Châu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958 nói rằng miền Bắc ( nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa) “công nhận và ủng hộ” tuyên bố ngày 4 tháng chín năm 1958 của Chánh phủ Trung Quốc là các quần đảo Hòang Sa ( Tàu gọi là Tây Sa, tên ngọai quốc là Paracels) và Trường Sa ( Tàu gọi là Nam Sa, tên ngọai quốc là Spratleys ), cũng như Đài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu, quần đảo Dongsha và quần đảo Zhongsha là lảnh thổ Trung Quốc ở biển Nam Hải - South China Sea ( Việt Nam và hình như mới đây Úc Châu ? gọi là Biển Đông – East Sea).
Năm đó, miền Bắc đã nhận viện trợ Trung Quốc đánh miền Nam, cho nên Hà Nội xem thái độ không phản đối tuyên ngôn Tàu là thực tiễn. Nhắc lại, Hòang Sa cách đảo Hải Nam chừng 150 dặm Anh và Trường Sa chừng 550 dặm Anh về phía Nam . Tổng cộng có khỏang 150 đảo, phần lớn không dân cư, gồm nghiều rặng san hô và bải cát. Tháng giêng năm 1974, Quân đội Tàu tấn công và chiếm giữ nhiều đảo Hòang Sa mà nhiều năm qua đã được chánh quyền Cọng Hòa miền Nam đóng giữ, khai thác phân chim và đánh cá quanh vùng. Hà Nội phản ứng đơn giản nói rằng mọi tranh chấp về lảnh thổ là phức tạp và và cần duyệt xét kỷ lưởng, giải quyết bằng đàm phán theo “tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và tình nghĩa thân thiện lân bang”; không phản đối mạnh mẽ hành động xâm lược của Trung Quốc, vì lúc đó đang nhận nhiều viện trợ kinh tế và quân sự Tàu. Tuy nhiên, Mai văn Bộ, đại sứ Việt Nam ở Pháp, đã nói chiến tranh năm 1974 ở Hòang Sa “ là hành động quân sự xâm lăng đầu tiên Trung Quốc chống Việt Nam” ( Theo Qiang Zhai, China &The Viêt Nam Wars, 1950 – 1975, The University of North Carolina Press- 2000 )
Nhân vật lịch sử thứ hai Phạm văn Đồng, sinh ngày 1 tháng 3 năm 1906 ( mất ngày 29 tháng tư năm 2000), tại làng Đức Tân, huyện Mộ Đức. tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1925, ông tham gia biểu tình sinh viên để tưởng niệm nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh. Năm 1926 đi Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc tham dự lớp huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc ( sau này đổi tên là Hồ Chí Minh ) tổ chức, rồi gia nhập hội Thanh Niên Cách Mạng Việt Nam, tiền thân của đảng Cọng sản Việt Nam. Năm 1929, ông bị chánh quyền Pháp thuộc địa bắt giam và kết án 10 năm tù đày ra Côn Đảo. Năm 1936, được chánh quyền Mặt trận Bình Dân Pháp tổng ân xá và thả ra khỏi tù. Năm 1940 chánh thức gia nhập đảng Cọng Sản Đông Dương, họat động theo đường lối Hồ Chí Minh lảnh đạo. Sau Cách Mạng tháng 8 năm 1945, được bổ nhiệm làm bộ Trưởng Tài chánh ở Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa, Việt Minh mới thành lập. Năm 1946 là trưởng phái đòan Việt Nam tại Hiệp Định Sơ bộ Fontainebleau. Tháng 5 năm 1954 cũng làm trưởng phái đòan chánh phủ Hồ Chí Minh ký kết hiệp định Giơ Neo - Geneva với thủ tướng Pháp Mendès France, trên tư cách là Phó thủ tướng kiêm nhiệm BộTài Chánh. Năm 1955 được bổ nhiệm làm thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa. Ông cũng là một lảnh tụ chống Mỹ ở Chiến Tranh Việt Nam. Ông liên lạc mật thiết với Chánh Phủ Trung Cọng để nhận viện trợ Tàu đánh Mỹ. Ông cũng là một nhân việc chánh yếu đàm phán hòa bình dưới các chánh quyền Mỹ Lyndon Johnson và Richard Nixon. Ở đảng Cọng sản, ông là một nhà chánh trị khôn khéo, cố duy trì một tư thế trung lập trong những cuộc đụng chạm nội bộ đảng, đặc biệt khi thống nhất Việt Nam, sau năm 1975. Chánh trị thực dụng này giúp ông giữ vị trí thủ tướng trong 32 năm trời,mãi đến khi ông được Đại hội Đảng thứ 6 cho phép nghĩ hưu năm 1987. ( theo tài liệu của James Logan Courier - Wikipedia ngày 01 tháng 3 năm 2011 ). Tuy nhiên, trong bang giao với Trung Quốc ông đã “sơ hở” gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc Châu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958 nói rằng miền Bắc ( nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa) “công nhận và ủng hộ” tuyên bố ngày 4 tháng chín năm 1958 của Chánh phủ Trung Quốc là các quần đảo Hòang Sa ( Tàu gọi là Tây Sa, tên ngọai quốc là Paracels) và Trường Sa ( Tàu gọi là Nam Sa, tên ngọai quốc là Spratleys ), cũng như Đài Loan và các đảo lân cận, quần đảo Penghu, quần đảo Dongsha và quần đảo Zhongsha là lảnh thổ Trung Quốc ở biển Nam Hải - South China Sea ( Việt Nam và hình như mới đây Úc Châu ? gọi là Biển Đông – East Sea).
Năm đó, miền Bắc đã nhận viện trợ Trung Quốc đánh miền Nam, cho nên Hà Nội xem thái độ không phản đối tuyên ngôn Tàu là thực tiễn. Nhắc lại, Hòang Sa cách đảo Hải Nam chừng 150 dặm Anh và Trường Sa chừng 550 dặm Anh về phía Nam . Tổng cộng có khỏang 150 đảo, phần lớn không dân cư, gồm nghiều rặng san hô và bải cát. Tháng giêng năm 1974, Quân đội Tàu tấn công và chiếm giữ nhiều đảo Hòang Sa mà nhiều năm qua đã được chánh quyền Cọng Hòa miền Nam đóng giữ, khai thác phân chim và đánh cá quanh vùng. Hà Nội phản ứng đơn giản nói rằng mọi tranh chấp về lảnh thổ là phức tạp và và cần duyệt xét kỷ lưởng, giải quyết bằng đàm phán theo “tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và tình nghĩa thân thiện lân bang”; không phản đối mạnh mẽ hành động xâm lược của Trung Quốc, vì lúc đó đang nhận nhiều viện trợ kinh tế và quân sự Tàu. Tuy nhiên, Mai văn Bộ, đại sứ Việt Nam ở Pháp, đã nói chiến tranh năm 1974 ở Hòang Sa “ là hành động quân sự xâm lăng đầu tiên Trung Quốc chống Việt Nam” ( Theo Qiang Zhai, China &The Viêt Nam Wars, 1950 – 1975, The University of North Carolina Press- 2000 )
Địa hình , đất đai
Địa hình tỉnh Quảng Ngãi là một đồng bằng khá lớn dọc theo bờ biển và trung tâm tỉnh, đồi núi phía tây và dọc theo ranh giới tỉnh Quảng Nam và tỉnh Bình Định. Đất thấp còn nới rộng thêm dọc sông Trà Khúc. Theo Thái Công Tụng ( Vietnamologica số 6, năm 2005 ), diện tích đồng bằng này là 1450 km2 , nếu kể luôn cả các vùng hơi mấp mô phía Bắc tỉnh này như Mũi Bà Làng An phía Bắc quận Sơn Tịnh tên ba làng Vân An, An Chuẩn và Hải An ( tiếng Pháp là Cap Batangan ). Nhỏ hơn tổng diện tích các đồng bằng Quảng Nam ( 2950 km2 ) vì có nhiều đồi núi thấp rải rác và đầm ven biển như đầm Nước Mặn ở thị trấn Sa Huỳnh, đầm Lâm Bình thông ra biển ở cửa Trà Cầu, huyện Đức Phổ. Bờ biển tương đối thẳng hàng ở phần lớn phía nam và trung tâm tỉnh, một bất thường cho các tỉnh Nam Duyên Hải miền Trung nhưng cũng có nhiều mũi, vũng… phía Bắc tỉnh lỵ Quảng Ngãi. Núi cao nhất tỉnh là núi Chùa ( Ngọc Chùa ) 1362 m, phía Bắc tỉnh ở ranh giới Quảng Nam và Quảng Ngãi, núi Đá Vách ( có tên này vì vách núi dựng thẳng đứng ? ) 1089m, phía Tây huyện Nghĩa Hành( Chợ Chùa ), núi Làng Râm 1070 m phía Nam huyện Ba Tơ ở gần ranh giới tỉnh Bình Định, núi Cao Muôn 851m…
Chùa cổ Thiên Ân Quảng Ngãi |
Đất đai Quảng Ngãi gồm : đất cát biễn – haplic arenosol gặp ở địa hình bằng, hình thành nhờ bồi lắng phù sa trong quá trinh lấn biển, đất còn vỏ sò-hến. Đất nghèo dinh dưỡng. Đôi khi nội đồng gặp một một lọai podzol nước ngầm – ground water gần mặt đất. Đất phù sa Quảng Ngãi thường là đất phù sa chua – acid - dystric fluvisols. Ở miền đồi núi là đất feralit -ferrallic acrisol vàng đỏ trên thềm cổ, lượn sóng nhiều vì xói mòn gọt rữa. Ven chân Trường Sơn có nhiều trảng ,truông. ( phần đất đai là chiếu theo Thái Công Tụng ).
Sông Ngòi
Sông lớn nhất của Quảng Ngãi là sông Trà Khúc ( còn gọi là Thạch Nham ), dài 120km, hai nhánh, nguồn Tây Bắc ở trên Măng Xin,Trà Tây trong phạm vi tỉnh Quảng Ngải, nguồn Tây Nam trên Cao Nguyên Kontum giữa thị trấn Măng Bút và núi Ngọc Tem. Sau huyện lỵ Sơn Hà một nhánh lớn là sông Ré nhập vào; sông Ré cũng chia ra hai nhánh phát nguyên ở Cao nguyên Kontum. Sông Trà Khúc chảy qua thị xã Quảng Ngãi rồi đổ ra biển ở của Cỗ Lủy. Sông Trà Bồng chảy trong huyện Trà Bồng ( tên cũ là Trà Xuân ) rồi đến huyện Bình Sơn ( Châu Ổ ), ra cửa Sa Kỳ tại vũng Dung Quất. Ngòai khơi là đảo Cù lao Ré ( nay là huyện Đảo Lý Sơn ) và phía Bắc Lý Sơn là Cù Lao Bờ Bãi, nhỏ bé hơn nhiều. Lý Sơn cai quản luôn các đảo Hoàng Sa( ? ). Sông Vệ bắt nguồn từ phía Tây Nam huyện lỵ Ba Tơ, chảy theo hướng Tây Nam Đông Bắc, qua các huyện Minh Long, Nghĩa Hành ( Chợ Chùa ), Tư Nghĩa ( La Hà ) rồi đổ ra cửa Cổ Lủy, phía Đông Nam thị xã Quảng Ngãi.
Rừng
Năm 2001, đất lâm nghiệp rừng Quảng Ngãi chỉ còn 146 000 ha , chưa đến 30% tổng diện tích tỉnh. Đa số là kiểu lọai rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới - tropical evergreen broad leaves forest. Rừng luôn luôn xanh có nhiều tầng, tầng cao là những lòai cây gỗ cẫm lai ( trắc ) Dalbergia cochinchinenis, giáng hương Pterocarpus pedatus , gụ Sindora cochinchinensis, lim Erythrophhloeum fordii ... Mưa nhiều, nhiệt độ nóng cao ( 24- 250 ) nên cây cối rậm rạp, giây leo chằng chịt nhiều lòai phụ sinh trên cây, lá xanh quanh năm, chứa trên 100 loài thực vật mỗi một ha rừng. Dưới gốc cây là những bạnh to lớn như gốc vài lòai bằng lăng đại mộc Lagerstroema sp., trên thân có phong lan , tầm gửi, dây mây chằng chịt. Động vật phong phú với vượn, sóc, chim, voi, trâu rừng, thỏ… ( Thái Công Tụng 2005 ). Tuy nhiên rừng Quảng Ngãi cũng như Duyên Hải Nam Trung Bộ, trong thập niên 1990, đã bị khai thác quá mức và số lượng gỗ khai thác được giảm đi nhiều. Sản lượng gỗ khai thác vùng này đã giảm đi từ 280 000 m3 năm 1995 xuống 254 000 m3 năm 1999. Diện tích rừng còn bị giảm thêm vì nạn cháy rừng và chặt phá làm rẫy, củi, than hoa… Năm 2002, rừng bị chặt phá ở Quảng Ngãi lên đến 21000 ha, trong khi diện tích trồng lại rừng ở Quảng Ngãi ít khi lên quá 5- 6 000 ha một năm ( năm 1999 trồng lại được 4600 ha, năm 2000 chỉ trồng được 2400 ha, năm 2002 chỉ được 3300 ha ) …
Phần II :
Lạm
bàn Phát triển tỉnh Quảng Ngãi
Ai về Quảng Ngãi quê tôi,
Nghe con gái Quảng mày tao thật thà.
Về nghe câu hát mượt mà,
Câu hò chiều đến bên bờ Tam Thương…
Về thăm biển muối Sa Hùynh,
Tình người trong muối,
tình quê đậm đà.
Về ăn cá bống
Sông Trà,
Nghe kênh nước hát rì rào Thạch Nham.
Đất Quảng- con người đảm đang,
Đất
nghèo, nhưng đậm tình người tình quê .
( Ai
về Quảng Ngãi quê tôi- Vô Danh, đầu thập niên 1960 ?)
Nếu năm 1999, thu nhập bình quân mỗi đầu người cho cả nước, chỉ mới đến 3
640 000 đồng VN, trung bình bình quân cho 6 tỉnh ( kể luôn TP Đà Nẳng) Duyên
Hải Nam Trung Bộ ( lúc đó Quảng Ngãi là tỉnh nghèo nhất ) còn thấp hơn, chỉ có
3 036 000 đồng VN. Năm 2007, GDP mỗi đầu người dân Quảng Ngãi cũng chỉ lên đến
7 820 000 đồng VN, vì mọi lảnh vực công nghệ xây cất, dịch vụ và nông lâm ngư
nghiệp đều yếu kém. Nhưng từ đó kinh tế Quảng Ngãi phồn thịnh hẳn lên, nhờ
GDP công nghệ tỉnh nhà tăng trưởng ngọan mục ở khu Kinh tế Dung Quất, đặc biệt
nhờ quyết định thiết lập nhà máy lọc dầu Dung Quất năm 1998 của Chánh Phủ, và sự cương quyết thực hiện dự án đơn phương
đầu năm 2003 của PetroVietnam, sau khi mọi công ty ngoại quốc liên hệ đều rút
lui, viện cớ tính cách “phi kinh tế” của dự án này. Hai năm
sau, năm 2009, GDP mỗi đầu người Quảng Ngãi
tăng gần gấp đôi 15.2 triệu đồng VN, đã cao hơn hai tỉnh lân cận là
Quảng Nam và Bình Định. Đuổi gần kịp GDP mỗi đầu người Bà Rịa-Vũng Tàu năm đó. Quảng Ngãi dự tính mức tăng trưởng kinh tế
là 12- 13 % trong thời gian 2016- 2020
và GDP mỗi đầu người Quảng Ngãi sẽ là
2000- 2200 đô la Mỹ; hy vọng năm 2020 sẽ đạt 4300 -4500 đô la Mỹ, vượt Bà Rịa-
Vũng Tàu, đuổi kịp Đồng Nai – Biên Hòa.( ?)
Từ năm 2003, Việt Nam đã thiết lập 15 khu kinh tế - economic zones (
EZ ) phát triễn Bờ Biễn miền Trung. Diện
tích ở đất liền và biển Đông các khu kinh tế này chiếm 662 000 ha, bao phủ 2 % tổng diện tích nước nhà, nhưng tính đến
cuối năm 2011, trung bình phần diện tích họat động chỉ đạt 40%. Tuy diện tích 15
khu EZ này 10 lần lớn hơn các khu (
công viên ) công nghệ -Industrial Park ( IP ) cả nước, phần đóng góp vào
ngân sách quốc gia lại ít hơn nhiều. Chánh phủ Việt Nam dự liệu làm thêm 3 EZ nữa
đến năm 2020 cho bờ Biển miền Trung, nâng tổng số lên 18 EZ. Ngòai lý do chưa
giải quyết xong việc đền bù đất đai, chưa huấn nghệ đầy đủ nhân công, chuyên
môn thích nghi, quốc gia giới hạn tài
trợ, nhất là sửa sọan cẩu thả, tỉ như EZ Vũng Áng hiện vẫn còn thiếu nưóc ngọt,
EZ Văn Phong thiếu các công nghệ hổ trợ…, đáng lý chỉ nên tập trung làm 3- 4 EZ thay vì 15 EZ, trên căn bản yêu
cầu và lợi ích thật sự ( Vũ Đại Thắng, Cục Trưởng Cục EZ, bộ Kế Họach và Đầu Tư, tháng 9 năm 2011 ).
Các EZ bờ biển khắp nước đã thu hút đến
năm 2011, 130 dự án đầu tư ngọai quốc trị giá 25 tỉ đô la và 65 dự án địa
phương trị giá tương đương, theo bộ Kế Họach và Đầu Tư. EZ Chu Lai là EZ Bờ Biển đầu tiên ở miền Trung, năm 2011, đã có 66 dự án, tư
bản đăng ký trị giá 1.7 tỉ đô la. Nhưng chỉ mới có 45 dự án
tư bản đầu tư 600 triệu đô la thực sự hoạt động, phần lớn là các công ty
địa phương. Theo qui họach của chánh
phủ, cho các EZ Bờ biển, xây dựng EZ phải song song cùng lúc với phát triễn cảng biển, các khu đô
thị, các sở dịch vụ và các tài nguyên nhân sự . Thế nhưng các công
việc này không xảy ra ở EZ Chu Lai ( Trần Bá Dương - 2011 ).
Từ năm 2000 đến năm 2007, GDP công nghệ tỉnh Quảng Ngãi tăng trung bình mỗi năm 18.64 %.
Đây là mức tăng trưởng cao nhất Duyên Hải miền Trung, chỉ sau Bình Thuận
( nay Bình Thuận thuộc miền Đông Nam Bộ ). Mức tăng trưởng công nghệ lại
mau lẹ hơn nữa nhờ EZ Dung Quất,
đặc biệt nhờ nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu họat động tháng 2 năm 2009. Năm 2009, sản lượng công nghệ tỉnh nhà tăng thêm 144.7 % và GDP công nghệ tỉnh
thăng tiến nhảy vọt từ 36.2% năm 2008
đến 46.3% năm 2009 ,
cao hơn hẳn mọi tỉnh miền Trung,
có phần cao hơn cả thành phố Đà Nẳng! Năm 2015, tỉnh nhà dự tính công nghệ và
dịch vụ sẽ chiếm 85-90% GDP và trên 90 %
năm 2020. Nông Lâm Ngư nghiệp Quảng Ngãi sẽ rớt xuống dưới 10 % năm 2020.
Khó khăn, thăng trầm quyết định và thực hiện nhà máy lọc dầu Dung Quất .
Chiếu
theo Wikipedia, câu chuyện nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu trong thập niên
1980. Nhà máy lọc đầu thứ nhất của Việt Nam được dự tính xây dựng gần cảng Vũng
Tàu , chỉ cách các mỏ dầu ngòai Việt Nam
chừng 100 km ( 60 dặm Anh). Năm 1988 khởi sự
xây cất tại một vị trí đã được
làm sạch vỏ khí đạn dược không nổ, sót lại thời chiến tranh. Tuy nhiên năm 1990,
dự án lọc dầu bị cho vào lại ngăn tủ. Đầu thập niên 1990, công ty Pháp Total
SA tỏ ý muốn làm dự án này. Cùng lúc,
chánh phủ Việt Nam gợi ý chuyễn vị trí nhà máy đến Vịnh Văn Phong, phía Bắc Nha
Trang và sau đó xa hơn nữa ở phía Bắc,
tại Dung Quất. Lý do chánh phủ Việt Nam
muốn làm ở Dung Quất nêu ra là để đem công ăn việc làm và phát triễn cho các vùng miền Trung nghèo đói nhất nước. Đìều này có nghĩa là nhà máy lọc dầu sẽ cách
mỏ dầu Bạch Hổ, ngòai khơi bờ biển miền Nam 1000 km, tăng thêm phí tổn chuyên
chở đầu thô và các sản phẩm lọc dầu và có thể phải xây thêm một ống dẫn dầu. Dung
Quất cũng xa hai vùng trung tâm kinh tế nước nhà là Sài Gòn – TP HCM và Hà Nội. Năm
1995, Total SA rút lui, tuyên bố rằng vị trí mới ở Dung Quất là vô nghĩa trên
phương diện kinh tế. Một quần hợp – consortium các công ty ngọai
quốc gồm LG Group, Petronas, Conoco, Stone
and Webster và PRC – Chinese
Petroleum Company and China Development
thay thế và cũng rút lui sau đó hai năm cũng trên lý do kinh tế. Thế nhưng giá dầu thô đạt cao đỉnh năm 2008
đã giúp dự án cũng có nghĩa lý kinh tế nữa.
Năm 1998, thủ tướng Phan Văn Khải tiến bước mau lẹ gia tốc xây dựng nhà
máy Dung Quất. Dự án nhen lữa lại là một liên doanh giữa Vietsovpetro ( liên
doanh Việt Nam –Nga Sô có trách nhiệm xuất khẩu phần lớn dầu thô
Việt Nam) và Hiệp Hội Kinh tế Hải Ngoại Nga- Zarubeznheft. Liên Doanh này cũng bị Nga giải tán tháng 12 năm 2002, cũng trên lý do là nhà máy Dung Quất không
vững bền được trên phương diện kinh tế. Tháng 2 năm 2003, Việt Nam quyết
định tự mình thực hiện dự án và tiếp tục xây cất Dung Quất. Giai đoạn I đã họat động tháng hai năm 2009 như đã nói trên.
Đấu thầu và xây cất
Phí tổn ước lượng năm 2003 là 3 tỉ đô la Mỹ cho xây cất và
thiết bị. Nhà thầu nguyên thủy kỷ thuật công
nghệ ngọai vi và họa kiểu – original front-end
engineering and design contractor( FEED ) cho dự
án là công ty Foster Wheeler
Energy của Anh Quốc-UK ( thay thế bằng
thỏa hiệp FEED ký với Technip Pháp năm 2004) . Nhà máy lọc dầu xây cất trên một
vị trí của Vùng Phát triễn Kinh tế - Economic zone Dung Quất, bao gồm 338 ha đất và 573 ha biển. Việt Nam đã chấp thuận các khế ước cho
một nhóm xây cất gồm có Technip – Coflexip
của Pháp, JGC Corp của Nhật và
Technicas Reunidas của Tây Ban Nha về phần cung cấp kỷ thuật và thiết bị. Công ty Stone and
Webster cung cấp dịch vụ cố vấn xử ( quản ) lý dự án, theo khế ước ký kết
tháng 10 năm 2003. Một hảng của Quần hợp Phức Tạp TPC Complex, gồm Technip, Technip
GeoProduction ( mã lai Á )và Technicas Reunidas, được chấp nhận cung cấp kỷ
thuật công nghệ, thiết bị và xây cất, theo các khế ước trao chìa khóa mở máy
– turnkey ( nghĩa là đã hòan tất ) contracts số 1 và số 4 tháng 5 năm 2005. Tháng 6 năm 2006, nhà máy lọc dầu Dung
Quất lựa chọn Doanh Nghiệp SmartPlant làm phần mềm tiêu chuẩn – standard software cho việc
xử lý họa kiểu, duy trì tu bổ và họat động nhà máy. Ngòai các công
ty vừa kể trên, còn có thêm sự đóng góp của hơn 40 công ty
Việt Nam và các nhà thầu phụ ngọai quốc như Van Oord( Hòa Lan ), Toyo ( Nhật ),
Tổ hợp Dịch vụ kỷ thuật Dầu lữa Việt Nam-PTSC, Liên Doanh Tổ Hợp xây cất Xăng Việt Nam –PVC, Tổ hợp kỷ thuật
xây cất Công Chánh số 1 – CIENCO1, Tổ hợp Bốc Dở Máy Móc Việt Nam- LILAMA, Tổ
hợp Xây Dựng Máy Móc Việt Nam – COMA, Tổ Hợp Xây Dựng và Xuất Nhập Cảng
–VINACONEX, Tổ hợp Sông Hồng v.v…
Xây cất nhà máy khởi công ngày 28
tháng 11 năm 2005 và giai đọan I hòan
tất ngày 22 tháng 2 năm 2009. Tổng phí nhà máy lọc dầu Dung Quất lên đến 3 tỉ
đô la Mỹ, cao hơn tái ước lượng trước đây là 2.5 tỉ và ước lượng nguyên thủy là
1.4 tỉ năm 1994. Có thể còn cần thêm 1 tỉ đô la nữa để xây cất một đơn vị
làm sạch sulfua ( lưu hùynh )- desulphurising unit năm 2013.
Phức tạp vùng nhà máy lọc dầu gồm những thành phần sau đây:
- Các cơ sở chế biến lọc
dầu, tiện nghi và ngọai vi ( 110 ha )
- Nông trang các bồn dầu thô và vùng hơi khí cháy lữa thóat ra (
42 ha )
- Nông trang bồn sản phẩm chế lọc ( 36 ha )
- Đầu vào nước biển, ống thóat nước thải chế biến và dầu thô( 4ha
)
- Những nơi đường ống nối nhau và đường xá vào nhà máy (40 ha )
- Vùng cảng xuất khẩu sản phẩm lọc dầu ( 135 ha )
Dung tích Dung Quất được họa kiểu để lọc 6.5 triệu tấn đầu thô mỗi năm hay 140
000 thùng dầu mỗi ngày. Dung tích sẽ nới
rộng đến 10 triệu tấn vào các năm 2013-
2014 ( hòan tất năm 2016 ? ). Phí tổn nới rộng dự tính là 1 tỉ đô la Mỹ ( 770 triệu Euro). Sản phẩm lọc dầu Dung Quất
là 300 000 tấn LPG ( Liquefied Gas ),1.9 triệu tấn xăng đủ lọai xăng không chì – unleaded , 3- 5000 tấn nhiên
liệu không khí- air fuel A90 một ngày, 2700 tấn A90 và A95 một ngày, 400 000 tấn kerosene và nhiên liệu cho phản
lực( 650-1250 tấn/ngày ),3 triệu tấn/ năm diesel, 300 000 tấn/ năm mazout- fuel oil và lưu hùynh- sulfur. Thêm vào đó nhà máy lọc dầu cũng sẽ sản xuất vài sản phẩm hóa học dầu lữa. Cuối tháng 8 năm 2008, chi nhánh Hóa chất
dầu lữa- Bình Sơn Petrochemical Refinery đã bắt đầu thương mãi hóa, bán
ra sản phẩm hạ dòng nguyên liệu polypropylene- 260 000 tấn cho nhà máy dung tích là 150 000
tấn propylene- PP một năm. Nhà máy propylene, trang bị máy móc cao kỷ và cận
đại với kỷ
thuật Hypol II, hảng Mitsui Nhật Bổn cung
cấp sẽ hòan tất và họat động năm 2010 ( ? ). PP là vật liệu cần thiết cho công
nghệ nội địa plastic và sản xuất xe hơi.
Tài trợ dự án
Quốc hội chấp thuận xây cất nhà máy lọc
dầu số 1 ( Dung Quất ) năm 1997; tổng số đầu tư là 1.3 tỉ đô la Mỹ ( tuy nhiên
sau đó gia tăng đến 2. 5 tỉ ), từ lợi
lộc thu được trong việc khai thác dầu thô, tín dụng và tiền
bán cổ phần công phiếu. Ngân Hàng Ngọai Thương Việt Nam- Vietcombank đã xoay sở vay được 250 triệu đô la. Quần hợp
các nhà thầu, đấu thầu Gói – Package số 1 cũng thu xếp vay được 500 triệu đô la với
điệu kiện hoãn trả tiền vay.
PetroVietnam là chủ nhân và chạy nhà máy
lọc dầu. PetroVietnam cũng đã thương
thảo với các công ty dầu lữa ngọai quốc,
gồm cả Royal Dutch Shell, nhóm Esso và
SK Energy, để nâng cấp và bán một phần
nhà máy lọc dầu. Ngày 16 tháng 8 năm
2009, các họat động nhà máy đã phải ngưng lại, để “sửa chửa kỷ thuật
–technical repair” ở đơn vị cracking xúc tác chất lỏng cặn – residue fluid catalytic
cracking unit và đến ngày 9- 10 tháng 9 năm 2009 thì đã sửa xong.
Xuất khẩu và nguồn cung cấp dầu thô
Việt Nam xuất khẩu dầu thô nhiều nhất cho
Trung Quốc, Singapore, Nhật Bổn, Anh Quốc và Hoa Kỳ. Năm 2008, mức sản xuất dầu
thô của Việt Nam giảm đi mất 5.7 % ,
xuống chỉ còn 305 000 thùng một ngày. Nhưng sau đó đã tăng lên lại. Bộ Kế Họach và Đầu Tư đề nghị
lên Chánh phủ Việt Nam giảm bớt xuất
khẩu dầu thô giữa năm 2006 đến năm 2010,
để bảo đảm đủ dầu thô cung cấp cho các công nghệ trong nước. Chiếu theo đề nghị
này, Việt Nam sẽ giảm xuất khẩu xuống chỉ còn 15.6 triệu tấn năm 2010, để giảm
bớt tùy thuộc vào nhập khẩu các xăng
nhớt. Việt Nam đang cố gắng hòan tòan tự túc về dầu và khí dầu càng sớm càng
hay. ( nếu Trung Quốc không cản trở khảo
sát tìm kiếm thêm dầu lữa và khí dầu ở
Vịnh Bắc Bộ, Hòang Sa và Trường Sa Trung Quốc xâm chiếm ! )
Dung Quất lọc dầu của giếng mỏ Bạch Hổ.
Giếng này dự trù sẽ cạn kiệt dầu
thô trước năm 2020. PetroViệt Nam đã có
thỏa thuận sơ khởi với BP để cung cấp nguyên liệu phẩm chất tương tự cho đến năm 2011( ? ).
Khả
năng cảng Dung Quất
Hiện
còn nhiều vấn đề quan trọng cho cảng
nước sâu Dung Quất, vì cảng chưa đủ
lớn hay trang bị tốt đẹp hầu dễ dàng việc chuyên chở và bốc dỡ hàng các
thiết bị nặng cần thiết xây dựng nhà máy lọc dầu. Đường xá từ cảng đến vị trí
nhà máy cũng rất yếu kém. Tổ hợp Các đường chuyên chở Tàu thủy Quốc Gia Việt Nam – Vinalines và hảng Liên
doanh vận tải – Gemadept đã được phép Bộ Giao thông đầu tư xây cất 2 bến
tàu mới ở cảng Dung Quất để giải quyết vấn đề. Công ty Công Ty Công nghệ Bốc
Dở Hàng Bất Thường- Abnormal Loading Engineering( ABL ), một công ty chuyên chở nặng và bốc dở hàng hóa nổi tiếng
quốc tế căn cứ tại Anh Quốc, đã đến cảng
và vị trí nhà máy làm một lọat nghiên cứu, xem thử kỷ thuật chuyên môn hảng có giúp ích gì cho Dung Quất chuyễn vận thiết bị nặng không ? ABL nêu lên một số vấn
đề, Dung Quất phải giải quyết, ABL mới chịu họat động cho dự án. Cảng là khẩn
thiết vì đây là nơi dầu thô được chở đến
nhà máy lọc dầu ( khi không có ống dẫn dầu vững bền từ các mỏ đến ) và cũng là
nơi chuyên chở các sản phẩm lọc dầu đến thị trường.
Những
dự án nhà máy lọc dầu tương lai
Việt Nam đã qui họach xây cất thêm 2 nhà máy
lọc dầu khác tương đương Dung Quất . Nhà máy thứ hai được
dự tính ở Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách các mỏ dầu 1200km, nghĩa là
cũng có vấn đề chuyên chở hậu cần – logistical transport cung cấp nguyên liệu và các sản phẩm đã lọc.
PetroVietNam, Kuwait và các chung sức Nhật đã ký kết một thỏa thuận tháng 3 năm
2007 về nhà máy lọc dầu Nghi Sơn và
xây cất dự án đã khởi công năm 2010. Nhà
máy Nghi Sơn sẽ họat động năm 2013, dung lượng lọc dầu mỗi năm 10 triệu tấn.
Tháng 2 năm 2010, Foster Wheeler thắng khế ước đấu thầu cung cấp các dịch vụ kỷ thuật và thương mãi
cho nhà máy Nghi Sơn. Nhà máy lọc dầu dự tính thứ 3 ở miền Nam là Long Sơn, Vũng Tàu, gần các mỏ dầu hơn và cơ
hội bền vững kinh tế cũng tốt hơn.
Dự tính nhà máy Long Sơn sẽ bắt đầu họat động năm 2015.
Ảnh hưởng trên công nghệ Quảng Ngãi năm 2009, sau khi nhà máy Dung Quất họat
động
Như đã nói trên, năm 2009, tỉ xuất công nghệ
tăng 144.7 % so với 2008 và tỉ lệ công nghệ tỉnh nhà đã chiếm 46, 3 % GDP tỉnh nhà, tăng từ 36.2% năm 2008.
Nhà máy Dung Quất huyện Bình Sơn Quảng
Ngãi dự tính năm 2011 sẽ có lợi tức 77 000 tỉ đồng VN, lời 550 tỉ đồng, góp cho
ngân sách Quốc gia 15 ngàn tỉ đồng. Tuy nhiên ảnh hưởng của nhà máy lọc dầu
Dung Quất trên đời sống, lợi tức dân chúng tỉnh Quảng Ngãi không lớn cho
lắm. Đời
sống nông thôn Quảng Ngãi không mấy thay đổi kể từ 15 năm qua. Điều này có nghĩa là nhà máy lọc dầu không gia tốc đô thị hóa-
urbanization vùng. Cư dân địa
phương đã chịu rời bỏ đất đai để phát
triễn công nghệ, nhưng lợi lộc phát
triễn cho họ rất thấp kém, theo nhận xét của Lê văn Dũng, phó giám đốc xử lý EZ
Dung Quất, tháng 11 năm 2011.
Những
công nghệ đáng kể khác của EZ Dung Quất
Đây là nhà máy chế tạo các tiện nghi máy điện duy nhất nước nhà của liên doanh Doosan Heavy Industry- Công nghệ Nặng
Inc. Doosan là một công ty Hàn Quốc – Nam Hàn và Mecca Tech, thành lập tháng 2
năm 2007. Vị trí nhà máy chiếm khỏang 1 triệu
m2 đất đai. Cho đến nay, liên doanh đã đầu tư 300 triệu đô la Mỹ gồm những ban như
Boiler – Nồi hơi, Desalination -Khử muối, HRSG, MHE và
CPE. Doosan Vina mỗi ngày mỗi tăng trưởng và phồn thịnh.
Nhà
máy thép
Nhà máy thép của công ty Tycoons Worldwide Steel Việt Nam Co.
Ltd và Tổ hợp
Taiwanese E- United Corporation chiếm 455 ha. Giai đọan I được họa kiểu để sản
xuất mỗi năm 3 triệu tấn thanh thép nhỏ - billets và cuộn sắt tròn nóng
- hot roll coil, ngân khỏan đầu tư lên đến 556 triệu đô la, hình như đã
họat động giữa năm 2010, xử dụng 5000 công nhân địa phương. Toàn thể nhà máy với
dự tính sản xuất 5 triệu tấn gang – pig iron , trù liệu hòan thành năm
2012. Các nhà đầu tư của liên doanh đề
nghị tăng thêm vốn nguyên thủy là 1.066 tỉ đô la lên 3.3 tỉ( 4.5 tỉ đô la Mỹ ? ). Căn cứ trên thay
đổi này, các chủ nhân nhà máy sẽ đầu tư 1. 8 tỉ
cho giai đọan I, thay vì 556
triệu.
Dự án nhà máy giấy và bột giấy Tân Mai –
Quảng Ngãi
Công ty liên doanh giấy -
Tan Mai Paper Joint-Stock ở
khu kỷ nghệ Biên Hòa ( tỉnh Đồng Nai ) đã
được cấp môn bài xây dựng nhà máy Giấy và Bột Giấy Quảng Ngãi ở EZ Dung Quất.
Diện tích công ty chiếm 44ha ở xã Bình
Long, huyện Bình Sơn với tổng số tư bản
đầu tư là 200 triệu đô la, họa kiểu để
sản xuất 200 000 tấn giấy và 130 000 tấn bột giất một năm. Đây là một nhà máy kỷ thuật và trang bị cập
nhật tân tiến trên thế giới của nhà cung
cấp Metso, và sẽ sản xuất các sản phẩm tốt đúng Tiêu chuẩn Bắc Mỹ - North American Standards . Xây
cất nhà máy này sẽ có ưu điểm là sử dụng nguyên liệu tỉnh nhà làm giấy, thay vì
xuất khẩu dưới hình thức mảnh gỗ bào- wood chip, trị giá kém cõi.
Các
công nghệ khác dự trù cho 2015 – 2020
Các nhà máy liên hệ đến
hóa học và lọc dầu dự liệu cho thời gian
2011- 2015 là LPG 250 000 t/năm, N-
paraffin 65 000 t / năm, plastic
polystylene 60 000 t/năm, carbon black
50 000 t/năm, chất tẩy sạch –
detergents công nghệ 80 000 t/năm. Tổng số đầu tư lên đến 250 triệu đô la.
Cũng như hòan tất các dự án LAB- linear alkyl benzene, carbon black,
lốp cao su xe hơi xuyên tâm-
radial rubber tire , plastic PVC và
PE . Thời gian 2016- 2020 sẽ cố gắng
thiết lập một phức tạp lọc dầu hóa chất dầu lữa mới, hầu tăng gia
giá trị các hóa chất dầu lữa lên
1.5- 2 lần hơn 2015 và giá trị thêm lảnh vực này 3 lần hơn con số
năm 2015. Tưởng cũng nên nhắc qua đến công
nghệ vật liệu, đồ sành sứ, đồ gốm và
gương lên đến 6.2 % GDP công nghệ tỉnh , khai thác các mỏ
đá ở Đốc Sỏi huyện Bình Sơn, Phổ Phong ở huyện Đức Phổ, Ba Động ( ? ) ở huyện Ba Tơ, dọc theo quốc lộ
24 và vùng phía Nam Đức Phổ . Đầu tư
khai thác và chế biến các kim lọai giá
trị của tỉnh như sắt, titanium, kẻm và đất hiếm. Đầu tư làm nhà máy nước khóang ở Bình Đông,
xã Trà Bình huyện Trà Bồng, khai
thác nguồn nước khóang Nghĩa Thuận, Thạch
Trụ và Thạch Bích. Có lẽ không nên quên công nghệ may mặc, dày dép sản xuất 3-
3.5 triệu quần áo và 1 triệu đôi dày
dép/ năm và nhà máy sợi
PE 200 000 t/năm.
Nhà
máy ethanol sinh học
Do Tập đòan Dầu và khí dầu Việt Nam-Petro Vietnam
đầu tư thiết lập ở EZ Dung Quất , trên 24 ha đất đai, dung lượng dự tính là 100
triệu lít alcohol- rượu
cồn một năm, thõa mãn 25 % yêu cầu vật liệu làm E-5 nhiên liệu sinh học
nước nhà Tổng số vốn đầu tư là 1.5 ngàn tỉ - trillion đồng VN. Vật liệu chánh
là khoai mì – sắn , khỏang 240 000 tấn một năm .
Do
một đơn vị của Tập Đòan Công Nghệ Đóng Tàu Thủy- VietNam Ship Building
Industry Group (VINASHIN) tên gọi là Xưởng Đóng Tàu Thủy- Dung Quất
Shipyard thiết lập . Xưởng Dung Quất
do Vinashin đã xây dựng lên từ năm 2003. Cho nên nay đã có
nhiều kỷ sư khéo léo và công nhân lành nghề, hạ tầng cơ sở vùng cơ
xưởng – workshop chiếm 130 250m2. Bến cảng bơm nước ra sửa chửa bộ phận tàu
duới nước - Dry dock số 1, chiều dài 80m, chiều rộng 86m, sâu 14 m có thể đóng tàu trọng tải 300 000 tấn DWT. Bến Dry
-dock số 2 đã làm xong mau lẹ. Xưởng Đóng Tàu Dung Quất là xưởng cận đại nhất ở Việt Nam và cũng là
một xưởng đóng tàu thủy lớn nhất vùng
Đông Nam Á- ASEAN để đóng tàu trọng tải lên đến
400 000 DWT. Chiến lược của
Xưởng Dung Quất : “Đóng tàu cở
lớn, giao tàu mau lẹ, phẩm giá tốt, mức an toàn cao, giá rẽ ” cho thị trường trong nước và
ngọai quốc có bị ngưng trệ phần
nào vì không rỏ nay tổ hợp chánh
Vinashin đã giải quyết xong những khó khăn : nợ nần, tài chánh, quản
trị, đầu tư …( ? ) chưa ?
Tổng số công ăn việc làm tỉnh Quảng Ngãi đã gia tăng từ 571
400 người năm 2000 đến 704 700 người năm 2008. Công nghệ đã tạo ra 63 200 công ăn việc làm, dù có giảm bớt nhiều ở lảnh vực Nông Lâm Ngư
trong thời gian đó. Năm 2007 đã sử dụng 99200 người . Chánh quyền dự trù tạo ra mỗi
năm 35 -38 000 công việc mỗi năm từ 2011
đến 2015 và 38-42 000 mỗi năm từ 2016 đến 2020. Tuy đứng xa phía sau
công nghệ, tính theo giá trị thêm, Dịch vụ
cũng dùng 180 000 người năm 2007
so với 57 000 năm 2000 .
Hạ tầng cơ
sở : sơ lược hiện tại tương lai đường bộ
, đường sắt, đường thủy, cảng biển , cảng sông , nước sạch, hệ thống điện thọai
dịch vụ Internet v.v..
Tiến bộ công nghệ -xây cất và dịch vụ du lịch- thương mãi… mau lẹ
hay không tùy thuộc vào hạ tầng cơ sở tốt, xấu. Tháng 11 năm 2010, tỉnh Quảng
Ngãi đã dự trù đầu tư nâng cấp 7 đường bộ ngang theo kinh tuyến và 3 đường bộ dọc theo vĩ tuyến lên các tiêu chuẩn ít nhất là hạng III hay hạng
IV ở các vùng núi non. Mọi đường thị trấn đều phải trải nhựa- asphalted
hay đúc bê tông- concrete . Các đường huyện sẽ đạt hạng IV hay V. Các đường đến trung tâm xã
sẽ phải đạt các tiêu chuẩn hạng A hay
hạng B. Vài tỉnh lộ phải nâng cấp
lên các tiêu chuẩn hạng IV. Đặc biệt các tỉnh lộ
623 và 625 ( khúc đọan km 4 đến
km 26+800) phải đạt các tiêu chuẩn hạng III
trong thời gian 2011-2020. Tỉnh dự
tính nâng cấp con đường chạy từ Dung Quất
ngang qua Trà Bông, Trà Thanh, Trà My và Tắc Pó ( ? ) đến đường Trường Sơn công nghiệp ( đường số 14 cũ ) thành một quốc lộ. Sau năm 2010, 90%
đường huyện, 70% đường liên xã, liên thôn sẽ được trải nhựa hay đúc bê tông. Nâng
cấp con
đường từ huyện lỵ Ba Tơ, ngang
qua Ba Trang ( ? ) và Phổ Ninh đến
quốc lộ số 1A thành tỉnh lộ, cũng
sau năm 2010. Nâng cấp các đường thị trấn lên hạng III lọai đường thị trấn
sau 2010 và hạng IV sau 2020. Cố gắng hòan
thành một mạng lưới xe búyt -xe đò ( di
chuyễn quần chúng- mass transit ) bằng cách xây một trạm
xe ( đò , buýt - coach station),
tiêu chuẩn I ở thị xã Quảng Ngãi , trạm xe Sơn Tịnh ( phía Bắc trạm xe thị xã Quảng Ngãi) lên hạng III, 12 trạm xe ở các huyện lỵ và trạm cho xe
búyt ngừng – bus stop ở các
trung tâm liên xã các huyện núi non. Đáng kể nhất là tháng giêng 2012, Ngân Hàng Quốc Tế lần đầu tiên đã cho vay 613 triệu đô la Mỹ (trong tổng số 972 triệu gồm luôn 2 mục tiêu khác, ở tỉnh
khác ) để xây dựng Xa Lộ Cao Tốc
- Express Way Đà Nẳng- Quảng Ngãi . Xa lộ cao tốc này dài 131 Km,
rộng 26m , xây 126 cầu và một đường hầm sáu lằn. Ngân khỏan tài trợ chia ra
2 phần: một phần để bồi hòan đất đai truất hửu, tái định cư các gia đình phải
di dời…, phần kia cho Tổ hợp Xa Lộ
Cao Tốc Việt Nam - VN Express Way
Corporation ( VEC ) thực hiện, huấn luyện kỷ thuật tân tiến làm xa lộ cao
tốc cho nhân viên , chuyên viên VN…. Sẽ
khởi sự quý thứ 3 năm 2012 và hòan tất năm 2017. Đây là một dự án, tổng phí 1.4
tỉ đô la, do Cơ Quan Hợp tác Quốc tế Nhật bổn-Japan International Cooperation Agency( JICA ) đài thọ để giải quyết những thách đố đang trỗi dậy của một nước lợi tức hạng
trung còn thấp- lower middle country.
Sẽ xây
một đường rầy xe lữa ( đưòng sắt ) cở 1435mm, từ trạm Tri Bình nối đường xe lữa Bắc -Nam đến đường xe lữa đến cảng
Dung Quất. Nâng cấp và nới rộng các trạm Bình Sơn và Đức Phổ thành 4 sân ga
và trạm Quảng Ngãi thành một trạm cho cả vùng với 6 sân ga.
Sẽ nâng cấp
phi trường quân sự Quảng Ngãi thành một phi trường hai mục đích quân -dân sự và
dùng cho các chuyến bay – tắc xi , phụng sự các họat động phát triễn kinh tế xã hội tỉnh nhà. Đầu tư phục hồi phi trường Lý Sơn ( Cù lao Ré ) ,có thể thích
nghi cho máy bay trực thăng ( lên thẳng ),
góp phần phát triễn kinh tế xã hội
cũng như quốc phòng và an ninh
nước nhà.
Về đường sông, nâng cấp và phục hồi các đường từ Châu Ổ- Sa Cần đến
nhà máy thủy điện Cà Đu ( trên sông Trà Bồng) và từ Cửa Đại đến đập tưới ruộng đất Thạch Nham ( trên sông Trà Khúc ) . Khai thác
mạnh mẽ hơn nữa các đường sông dọc theo
Linh Giang, sông Vệ, sông Trà Câu,
và đường biển Sa Kỳ- Lý Sơn.
Tiếp tục
thực hiện biến cảng Dung Quất
thành một cảng công dụng đặc biệt
cho miền địa phương và kho
chứa công ten nơ- container depot. Cùng
lúc, nghiên cứu và qui họach xây cất cảng sâu
Dung Quất II có thể nhận tàu trọng tải đến 26 000 DWT , dung lượng 30 triệu tấn một năm vào năm 2020 và cảng Sa
Kỳ ( xã Tịnh Kỳ ) nhận được tàu trọng tải 2000 DWT, dung lượng 3- 400
000 tẩn năm vào năm 2020. Dự
tính làm các bến cảng nhỏ đa mục đích
như Cỗ lũy, Mỹ A, các cảng cá Lý Sơn, Sa Huỳnh, bến tàu đậu
quân sự Lý Sơn và thực hiện các tiện
nghi cần thiết giai đọan II cho Lý Sơn
thành nơi tàu bè tránh bảo tố.
Về điện, trước tiên là duy trì tu bổ để bảo đảm phẩm giá các mạng lưới điện tỉnh, hầu
cung cấp đủ điện tỉnh dùng. Lợi dụng các ưu điểm thiên nhiên
xây dựng 15 nhà máy thủy điện cở trung và cở nhỏ ( tổng công xuất các
nhà máy sông Trà Khúc 40 000 kw, Nước Trong
16 000 kw và Dakring 170 000 kw…) , sử
dụng điện gió, điện mặt trời tại những vùng xa xôi hẻo lánh, các hải đảo hiện chưa được mạng lưới điện quốc gia bao phủ, và làm một nhà máy
nhiệt điện 8000 KW ở đảo Lý Sơn. Có lẽ
đáng nêu thêm ở đây là ngày 12 tháng giêng năm 2012, Tổ hợp Sembcorp- Singapore đã ký kết với Ủy Ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, một
thỏa hiệp MOU khảo sát khả thi một nhà máy nhiệt điện than đá 1200
000 kw ở EZ Dung Quất .
Về cung cấp nước sạch, thị xã Quảng Ngãi
dự trù tăng dung tích nhà máy nước Quảng Ngãi lên đến 45 000 m3 /
ngày và nhà máy Dung Quất đến 100 000 m3
/ngày và xây cất một nhà máy nước 33 000 m3 /ngày
để chế biến quặng sắt. Làm một hồ chứa nước lớn hơn để hòan tất hệ thống tưới tiêu và bớt lũ lụt Thạch Nham và hồ Nước Trong, hổ trợ hệ thống Thạch Nham. Xây dựng hồ tưới tiêu Chóp Vung ( ? ), cũng
như làm
phần đê – đường chuyên chở dọc bờ biển
Dung Quất – Sa Huỳnh bờ biển của dự án
đê - đường ven biển “ngự hàn, chống nước biển
bảo lụt, sóng thần dâng cao bất ngờ” từ Quảng Ngãi miền Trung đến Kiên Giang
miền Nam( cũng cố hệ thống quốc phòng, bảo vệ an ninh bờ biển xứ sở chống cự
lại các cuộc tấn công ngọai xâm từ Biển Đông,
có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Đầu tư thêm xây cất và họat động các
hệ thống làm sạch nước thải ở các công
viên công nghệ, các cơ sở công nghệ, các
trung tâm đô thị hay vùng đông dân cư. Bảo đảm đến các năm 2015- 2020, 65- 75 % nước thải công nghệ phải được trị
liệu theo căn bản những tiêu chuẩn đã khuyến
cáo.
Trên phương diện thông tin và truyền
thông, nới rộng bao phủ điện thọai di
động đến mọi xã cũng như các dịch vụ
điện thọai và Internet phổ thông. Tỉ
trọng điện thọai phải đạt 114 máy/100
người năm 2015 và 130 máy /100 người năm 2020.
Trong thời gian 2011- 2015 đặt
250km dây cáp quang học và thiết lập thêm 159
trạm tiếp nhận căn bản. Thời gian 2016- 2020, phải hòan tất một mạng
lưới cáp ngầm thay thế cáp giăng trên
trời ở mọi vùng dân gian cư ngụ, các cụm và công viên công nghệ trong khi
đó mọi xã thảy đều phải có cáp
quang học. Mọi trường trung học và các
cơ sở y tế tỉnh sẽ có đường vào những dịch vụ Internet. 25 -30% dân gian tỉnh
sẽ dùng Internet và các dịch vụ
công quyền điện tử - e- government services, G2B, G2C, G2G, B2B, B2C
.
2
phát triễn dịch vụ Quảng Ngãi đáng lưu ý: du lịch và đô thị hóa
Năm 2010 ngành du lịch Quảng Ngãi đã có nhiều thành công, nhờ nắm được cơ hội
sự cố chánh tỉnh nhà như 65 năm khởi nghĩa Ba Tơ, 35 năm “ giải phóng” Quảng Ngãi, hội nghị Văn Hóa Thể Thao các học
sinh mọi tộc dân tỉnh ở ký túc xá , Thảo
luận Hợp tác Kinh tế các EZ then chốt
miền Trung. Tiền thu về dịch tỉnh nhà
đạt 215 tỉ đồng VN, tăng 26 % so với năm 2009. Tổng số du khách đến
tỉnh là 330 000 người, tăng 12 % so với
năm 2009 . Năm 2011, du lịch Quảng Ngãi nhắm thu hút 360 000 du khách và thu
nhập 250 tỉ đồng VN. Dự trù năm 2015
sẽ đón chào 600 000 du khách, thu nhập
700 tỉ đồng VN , 3.3 lần hơn năm 2010 . Nhờ thực hiện đường Mỹ Khê – Trà Khúc,
khúc đọan Dung Quất – Sa Huỳnh của đê- đường
ven biển dự án quốc gia Quảng Ngãi – Kiên Giang và khởi sự đập Sông
Trà Khúc. Ngòai Khách sạn 3 sao Petro Sông Trà Hotel , khánh thành tháng
3 năm 2010 ở trung tâm thị xã tỉnh: có 87 phòng , câu lạc bộ tạo sung sức –
fitness club, hồ tắm, sân quần vợt, nhà tắm hơi, phòng hát karaoke, và trung tâm đấm bóp spa. Phòng ăn dọn các món
ăn Việt,
Mỹ và Âu Châu… và các danh lam
thắng cảnh văn hóa lịch sử , các cơ
sở công nghệ , thủ công, hai cơ
sở đáng nêu lên là khu Nghĩ mát - Mỹ Khê Resort và Phim
trường Vina ( wood ) Universal Paradise
- Thiên Đường ( Vọng, kiểu Hồ ly Vọng- Hollywood ? bang Ca Li, Hoa
Kỳ hay Cinecitta Roma, Ý ) Phổ cập Thế Giới Vina .
Khu du lịch phim trường Vina Universal ở huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi). |
Công ty Hợp tác Tài Chánh - PetroVietnam
Finance Coopreation ( PVEF ) đang
xây cất một Khu Nghỉ mát 4 sao ở Bải Biển Mỹ Khê Beach, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh
, tỉnh Quãng Ngãi. Khu Nghỉ mát đa chức năng này chiếm 24 ha, tổng số
đầu tư là 400 tỉ đồng VN ( 120 triệu đô la Mỹ ), có thể
nhận 500- 700 khách trọ. Đây là nơi nghỉ
tỉnh dưỡng bờ biển lớn nhất tỉnh, gồm nhiều biệt thự - villa sang trọng, một khách sạn 100 phòng 4 sao, có
khu thể thao, công viên xanh …. , dự trù hòan tất năm nay 2012 . Khu
Vina Universal Paradise là
một phim trường kích thước lớn, cận đại , đa chức năng đầu tiên nước nhà, được
cấp môn bài thiết lập ở huyện Đức Phổ, phía Nam tỉnh. Thiên Đường chiếm 12569
ha được Biển Đông bao phủ phía Tây, Dãy núi
Trường Sơn phía Đông, cửa biển Sa
Hùynh phía Nam và xã Phổ Khánh phía Bắc. Dự án lên đến 50 triệu đô la Mỹ, do công
ty liên doanh cổ phần Tân Tạo Joint
Stock Company ở Sài Gòn ( TP HCM ) đầu tư, gồm các vùng du lịch, thương mãi,
dịch vụ ban biệt thự cao phẩm, biệt
thự trên đồi, vùng thể thao và lực sĩ,
khu nghĩ mát bunga lô- nhà gỗ một tầng v.v… Dự án
hy vọng kích động đột khởi phát triễn kinh tế xã hội phía Nam tỉnh nhà. Quảng Ngãi cũng hy vọng là
GDP dịch vụ, năm 2015,sẽ đạt 30.8 %
và 32,4 % năm 2020. Quảng Ngãi dự tính phát triễn 5 vùng du lịch chánh: vùng du lịch
trung tâm là thị xã Quảng Ngãi và
lân cận, vùng Đông Bắc tỉnh là thị trấn Vạn Tường và lân cận, vùng Nam là bờ
Biển Sa Hùynh và lân cận,vùng Tây Nam là Ba Tơ và lân cận, vùng Tây Bắc là Trà
Bồng và lân cận, có các hút dẫn du khách
chánh là Thiên Đàng ( Khê Hải ), Vạn
Tường, Ba Làng An, Mỹ Khê, Sa Huỳnh,Nước Trong - Cà Đầm( ? ). Tỉnh còn muốn
phát triễn những chuyến du lịch hướng dẫn liên tỉnh, phối hợp các khu nghĩ mát
du lịch môi sinh với các làng thủ công các huyện đồi núi. Lợi tức hàng hóa và
dịch vụ năm 2020 sẽ cố gắng đạt 400 – 410 triệu đô la Mỹ năm 2020.
Bãi biển Mỹ Khê thuộc thôn Cổ Lũy, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi |
Trên phương diện đô thị hóa, trước tiên là
mở rộng thị xã Quảng Ngãi về phía huyện
Sơn Tịnh, gồm 6 xã và thị trấn huyện lỵ Sơn Tịnh và 2 xã
Nghĩa Hà và Nghĩa Phú , huyện Tư Nghĩa. Thị xã sẽ có ranh giới phía Đông là Biển Đông và xa lộ cao tốc Đà Nẳng – Quảng Ngãi về phía Tây.
Năm 2015, thị xã sẽ phải đạt hạng
tiêu chuẩn đô thị II và đến năm 2020, các hạ tầng cơ sở thị xã phải hòan tất, cảnh quanh phải làm đẹp thành một đô thị cận đại Bờ biển miền
Trung. Thị trấn Vạn Tường phải thành một trung tâm thị trấn bờ biển ba chức năng công nghệ dịch vụ và du
lịch cảnh quan đẹp đẽ , kiến trúc tân
thời nhưngđầy đặc điểm quốc gia xen hạ
tầng cơ sở tân tiến. Huyện lỵ Đức Phổ
phải trở thành một thị trấn tỉnh vào năm 2015 cho vùng phía Nam tỉnh, một trọng
tâm kinh tế, văn hóa và du lịch của
tỉnh. Thị trấn Đốc Sỏi sẽ trở thành một
đô thị hạng IV năm 2015 và Châu Ổ sẽ đạt vài tiêu chuẩn đô thị IV năm 2020.
Thiết lập và phát triễn các thị trấn huyện lỵ mới ở Sơn Tịnh, Trà Câu, Thạch
Trụ, Sa Hùynh. Năm 2020, thiết lập thị
trấn Nam SôngVệ và Phổ Phong.
Đừng quên phát triễn nông lâm ngư
Theo Lương Nông Quốc tế, Việt Nam đã nêu
gương cho các nước đang mở mang nhờ tiến bộ nông nghiệp, trong khi chú trọng
Công Nghệ -Dịch vụ hóa mau lẹ nước nhà sau chiến tranh tàn khốc. Tuy nhiên, dù
Quảng Ngãi có diện tích nông nghiệp tương đối lớn, GDP nông nghiệp Quảng Ngãi
lại thấp kém so với các tỉnh trong vùng . Lúa gạo chiếm diện tích lớn nhất, tập
trung quanh thị xã Quảng Ngãi. Năm 2007 chỉ thu họach được 381 000 tấn lúa trên diện tích trồng lúa chừng 80- 90 000 ha, nghĩa là năng
xuất khỏang 4.2-4.8 tấn/ha, trong khi trung
bình năng xuất lúa nước nhà đã là 5- 5.5 tấn/ ha. Phải cố gắng thêm nhiều nữa
hầu mau lẹ đạt mức quân bình tự túc thực phẩm cho mỗi đầu người
là trên 500 kg thực phẩm, vì nay đã có
giống cao năng, cao phẩm và kỷ thuật sản xuất cận đại thích nghi và đã có
thể nới rộng thêm mùa vụ, diện tích tưới tiêu nhờ các hồ đập thủy điện địa phương.
Cả ba nông
phẩm chánh tỉnh nhà là mía 7300 ha- 390
000 tấn, đậu phụng 5700 ha – 11 000 tấn,
dừa 2700 ha - 13 726 tấn đều có năng xuất kém so với các năng xuất trung bình
thế giới, nay Việt Nam đã biết được. Đô
thị hóa nhanh chóng thì phải chuyễn nông nghiệp lúa cỗ truyền qua các
ngành trồng rau đậu, như trồng tỏi ở đảo Lý Sơn, hoa kiểng, ngành công nghiệp
thượng tầng cao ốc hay dọc các bồn đường xá, khu trống làm xanh công viên, cụm
công nghệ v.v… Tây Bắc và Tây Nam Quảng Ngãi là những nơi chăn nuôi nhiều súc vật, 287 000 con năm 2007. Trọng lượng trâu bò đang
sống, dự trù năm 2015 sẽ đạt 81 000 tấn và năm 2020 sẽ đến130 000 tấn. Tỉ lệ sản lượng thủy sản Quảng Ngãi trên tổng
số sản lượng quốc gia cao hơn tỉ số sĩ số dân trên tổng số dân nước nhà.
Nhờ lợi lộc hải sản đảo Lý Sơn . Tuy
nhiên, khác các tỉnh miền Trung khác, không có các đàn cá phong phú ngòai khơi
tỉnh nhà, nên phải đánh cá xa bờ Hòang Sa, Trường Sa, Biển Tây (? ). Tỉnh dự
trù xây đắp một hệ thống nuôi trồng hải sản – aquaculture system, trước tiên
ở các cảng cá Sa Huỳnh và Sa Cần,
trung tâm hậu cần ngư sản Sa Kỳ, vét Cửa
Đại ( Nghĩa Phú ) và thiết lập các cảng
cá Mỹ A, Cửa Đại – Cỗ Lũy. Về phát triễn lâm nghiệp, Quảng Ngãi phải chú tâm
đến các lòai cây cung cấp dược phẩm, hương thơm.. như quế, trầm hương- kỳ nam…,
trong chương trình lại rừng bị tàn phá mục đích tăng tỉ lệ diện tích
rừng bao phủ lên 47-48 % năm 2015 và trên
50% năm 2020 …
Ngư dân xã Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh,Quảng Ngãi) được mùa cá cơm đầu năm |
( Irvine , Ca Li ngày 21 tháng 3
năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét