Tỉnh thứ hai Trung Quốc , sau Vân Nam, có biên giới chung với Việt Nam ,cần biết rõ hơn:
Tỉnh Quảng Tây hay Vùng Tự Trị Tộc Dân Tráng
G S Tôn Thất Trình
Đôi chút lịch sử Quảng Tây
( phần lớn
chiếu theo Britannica .com , ngọai
trừ phần liên quan đến sử ký Việt Nam)
Từ thuở ban đầu đến khỏang 1900 .
Quảng Tây –
Guangxi được biết thời Tam Quốc (
475- 221 trước CN-BC) là đất Bách Việt – Baiyue các tộc dân địa phương Miền Nam Trung Quốc thuộc triều đại Đông Chu, Châu – Dong Zhou (
770 – 256 trước CN ) . Một nhóm phụ nhỏ của tộc dân Thái – Tai tên là Tráng – Zhuang sinh sống ở vùng này và có nền kinh tế căn cứ trên trồng lúa
nước -wet , irrigated rice cultivation. Miền Đông Quảng Tây bị
dân Hán ( Tàu miền Bắc ) chiếm cứ vào khỏang 214 trước CN vào triều đại Tần – Qin ( 221- 207 trước
CN ) và
Kênh Linh – Ling Canal được đào
ra để nối các sông Tường –
Xiang và sông Quý – Gui thành
một đường sông Bắc Nam Trung Quốc . Một
quốc gia độc lập tên là Nam Việt -
Nan Yue, Tướng Triệu Đà – Zhao
Tuo thiết lập, với sự trợ giúp của
dân Tráng , vào cuối thời Tần và tồn tại mãi cho đến khi bị trào Hán ( 206 trước CN – 220 sau CN ) thôn tính vào các năm 112 – 111 trước Công Nguyên . Các nhà cai trị Hán giảm bớt
quyền hành của dân Tráng bằng cách
cũng cố chiếm đóng các vùng như
các thị trấn Quế ( Qúy )Lâm – Guilin
, Vũ Châu - Wuzhou , và Hửu Lâm- Yulin . Nhắc lại là Triệu
Đà đánh bại vua An Dương ( Vương ) nước
Âu Lạc – Việt Nam ( chuyện cổ tích nỏ thần lãng mạn Mỵ Châu – Trọng Thủy) năm 179 trước CN và
thôn tính từ 179 đến 111
trước CN .
Năm 42 sau CN ,
tướng Mã Viện – Ma Yuan
đánh dẹp khởi nghĩa Hai Bà Trưng .
Mã Viện tổ chức lại chánh quyền Quảng Tây , cải thiện công trình
công cọng, đào nhiều kênh , và khai khẩn đất hoang tăng gia
sản xuất . Đền thờ Mã Viện vẫn còn nhìn thấy nhiều noi ở Quảng Tây .
Trái lại, ở Việt Nam , ngay cả trụ đồng Đông Hán Mã Viện dựng
lên với
dòng chữ “ Đồng Trụ Chiết , Giao
Chỉ Diệt . Mất Đồng Trụ thì Giao Chỉ tên Việt Nam thời bấy giờ bị diệt tan” củng không còn nữa vào cuối
thập niên thứ 19 ( “ …Cột đồng
Đông Hán tìm đâu thấy, chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương …, thơ của Hòang Cao
Khải ).
Từ cuối thời Hán đến bắt đầu đời Đường- Tang dynasty( 618- 907
) các tộc dân Mien ( tên gọi ở Tàu là Yao hay Mán
theo tiếng Việt ) từ Giang Tây
– Jiangxi và Hồ Nam - Hunan cọng thêm vào những căng thẳng tộc dân của Quảng Tây. Khác với tộc dân Tráng, tộc
dân Yao kháng cự lại văn hóa Hán - Tàu .
Vùng núi đồi Qúy Bình- Guiping
, Tân Tú- Jinxiu và Tú Nhân ?- Xiuren ở trung tâm Đông Quảng Tây ( vùng Đại Yao Sơn- Dayaoshan ) nơi dân Yao
định cư trở
thành một trung tâm bất ổn thường
xuyên. Vào các triều đại kế tiếp
, lại có thêm nhiều cuộc di cư tộc dân
Yao từ các tỉnh Hồ Nam và
Quý Châu – Guizhou .
Dưới triều đại
Đường, Quảng Tây trở thành một phần
của một tỉnh lớn có tên là Lăng
Nam – Lingnan . Nhà học giả lừng
danh là Liễu Dũng Nguyên- Liu Zongyuan là chủ
tỉnh ở Liễu Châu - Liuzhou. Tuy nhiên, bức bội về dân Hán Tàu nới rộng, dân Tráng
chuyễn qua hổ trợ vuơng quốc Thái
– Tai Nam Châu - Nanzhao ở Vân Nam. Rồi Quảng
Tây chia hai : một vùng tổ tiên là Tráng
phía Tây từ Quế Lâm – Guilin đến Nam Ninh – Nanning và một vùng tổ tiên là
Hán- Tàu ở phía Đông . Sau khi nhà Đường mất , một quốc gia Tàu độc lập
có tên là Nam Hán – Nan Han thành lập,
nhưng sau đó bị trìều đại Tống
- Song dynasty ( 960 – 1279 ) hủy bỏ năm 971 . Sử Việt ghi là tháng 11 năm 938 , Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng , Lê
Hòan thắng quân Tống xâm lăng tháng
3 năm 981 lần thứ nhất và tướng Lý Thường
Kiệt nhà Lý ( 1075 -
1077 ) kháng chiến chống quân xâm
lược Tống lần thứ hai . Lý Thường Kiệt,
tên thật là Ngô Tuấn người làng An Xá huyện Quảng Đức – Gia lâm Hà Nội là tướng
Việt duy nhất đã đánh Tống ở lảnh thổ
Tàu , chủ động đưa quân Việt sang đánh các châu Ung, châu Khâm và châu Liêm : đạo
quân Tôn Đản phó tuớng của ông hạ thành châu Ung là Nam Ninh- Nanning tỉnh Quảng Tây và đạo quân ông chỉ huy trực
tiếp theo đường biển đổ bộ vào châu Khâm
, châu Liêm tỉnh Quảng Đông , phá tan âm
mưu địch, rồi rút về nước chuẩn bị
sẳn sàng đối phó cuộc tấn công mới
của chúng vào cuối năm 1077 . Lý Thường
Kiệt chiến thắng ở Nam Bắc sông Như Nguyệt ( sông Cầu Hà Bắc-
Việt Nam ngày nay ) , phá tan 10 vạn quân
tác chiến và 20 vạn quân hổ trợ Tống.
Tống cai trị Quảng Tây bằng cách luân
phiên dùng vỏ lực và hòa
giải , một chánh sách không
thỏa mãn nổi các nguyện vọng tốc dân Tráng cũng như không chấm dứt được chiến cuộc dữ dội dã man của tộc dân Yao chống lại Tàu . Năm 1052
lảnh tụ Tráng Nồng( –Nùng) Chí Cao
- Nong Zhigao lảnh đạo cuộc nổi lọan và thiết lập một vương quốc độc lập ở miền
Tây Nam Quảng Tây . Nổi lọan bị
dẹp tan sau một năm , nhưng miền
này tiếp tục sôi sục bất mãn . Triều đại Nguyên ( 1206- 1368 ) thiết lập
cai trị trực tiếp , và lập ra tỉnh Quảng Tây , nhưng liên hệ giữa chánh quyền và dân gian cũng không cải thiện
gì cả. Liên hệ
các tộc dân càng phức tạp thêm
khi một tộc dân địa phương khác
là Miêu , Mèo – Miao ( tự xưng là
dân Hmong ) , di cư đến từ Quý
Châu - Guizhou và nhiều dân Tráng cũng đến từ Giang Tây – Jiangxi và Hồ
Nam – Hunan. Nhà Minh ( 1368-1644 )
đối diện với tình thế phức tạp , đề xướng tích cực thuộc địa quân sự hóa, trong cố gắng phá ngầm
đời sống bộ lạc . Minh trào cai trị dân thiểu số
qua hệ thống Tử tích – tusi
( các lảnh tụ bộ lạc phục vụ như thể
là nhân viên của chánh phủ Tàu ). Điều này đưa tới những trận chiến đẩm máu ơ lịch sử Quảng Tây , đặc biệt là chiến cuộc giữa tộc dân Yao ở Hẻm Song Mây Khổng lồ - Giant Rattan
Gorge gần Qúy Bình - Guiping ,
năm 1467 . Nhà Thanh - Qing ( Mãn
Châu ) ( 1644 – 1911/12 ) đặc các tộc
dân thiểu số dưới quyền cai trị
của hòang đế năm 1726 , nhưng cũng không đem lại hòa bình
. Tiếp theo cuộc nổi lọan của tộc dân
Yao năm 1831, là cuộc Nổi Loạn Thái Bình Thiên quốc –
Taiping Rebellion năm 1850 , cũng gần
Qúy Bình dưới quyền lảnh đạo tộc dân
thiểu số và kéo dài mãi cho đến giữa thập niên 1860. Trong lúc
đó, nhiều sự cố, kể cả việc giết chết một nhà truyền giáo Pháp ở miền
Tây Quảng Tây , đem đến liên hiệp Anh
Pháp năm 1857, chống lại Trung Quốc tên gọi
là Chiến tranh Nha phiến Thứ hai -Second Opium War( hay Arrow ).
Đánh nhau ngắn ngủi kết thúc bằng những hiệp ước nhục nhã Thiên Tân –
Tianjin năm 1858 . Rồi đến cuộc Chiến
tranh Trung Pháp – SinoFrench War từ
năm 1883 đến năm 1885. Thế ưu việt Pháp ở Việt Nam
đã phô bày Quảng Tây
cho ngọai quốc xâm lấn. Long
Châu - Longzhou mở cửa cho thương mãi ngọai quốc năm 1889 , Vũ Châu
–Wuzhou năm 1897 và Nam Ninh năm 1907, trong khi vào năm 1898 Pháp đạt được một vùng ảnh hưởng riêng ,
gồm luôn Quảng Tây .
Quảng Tây kể từ 1900
Cùng với tỉnh Quảng
Đông kế cận , những năm đầu của thế kỷ thứ 20, Quảng Tây trở thành
căn cứ của Cách Mạng Quốc Dân Đảng
do Tôn Dật Tiên- Sun Yat Sen
( hay Tôn Trung Sơn - SunZhongshan ) lảnh đạo. Giữa 1906 ,và 1916 , các lảnh tụ Quảng
Tây hổ trợ thiết lập một Cộng Hòa, và trong thập niên kế tiếp họ đóng một vài tyro tích cực
trong việc tái tổ chức Quốc Dân Đảng
Tàu . Theo sau bừng dậy của Tưởng Giới
Thạch - Chiang Kai –shek ( Jiang Jieshi ) nắm quyền năm 1927,
các lảnh tụ Quảng Tây là Lý Trung Nhân – LiZongren và Lý
Cát Thiểm – Li jishen làm
thành nhóm Quảng Tây chống đối Tưởng .
Nhóm làm nhiều
cận đại hóa Quảng Tây và duy trì
một thái độ coi thường chánh phủ Trung ương .
. Dù rằng Tưởng đáh tan chống đối này năm 1929, Tưởng không đủ khả năng để chấm dứt
tình trạng bán độc lập của vùng này . Phần tộc dân Tráng lại thành lập một lọat
các sô viết cách mạng ( là các
đơn vị tổ chức cộng sản được bầu lên ) giữa các năm
1927 và 1931 , gíúp các lảnh tụ mới
cọng sản nổi lên. Trong thế Chiến Thứ Hai , Quảng Tây là một mục
tiêu chánh của Nhật tấn công . Nhật xâm chiếm
Nam Quảng Tây, năm 1939 và chiếm cứ Nam Ninh và Long Châu . Trong thời gian này , Quý Lâm - Guilin trở thành
căn cứ chánh cho các lực lượng Tàu
và Đồng Minh , cũng như là gia thất của
báo chí yêu nước ,Tin tức Hằng ngày
Cứu Quốc – National Salvation Daily News . Năm 1944,
Nhật quyết định tiến vào Quảng Tây
dù rằng Nhật ngắn ngủi chiếm Guilin , Liu zhou và Wuizhou , nhưng không đủ khả năng chiếm giữ vị trí .
Các lực lượng Tàu sau đó chiếm lại các thị trấn , thành phố lớn . Ở Nội Chiến Quốc Cọng theo sau Thế Chiến thứ Hai,
các lực lượng cọng sản chiếm Guilin tháng 11 năm 1949 và Quảng Tây trở thành một tỉnh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc . Vùng
tự trị được thiết lập năm 1958 trong một
cố gắng thỏa mãn nguyên vọng dân gian địa phương.
Phần I : Tổng quát
Vị trí
Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam |
Chính thức kể từ năm 1958 là Vùng Tự trị
Tráng Quảng Tây – Guangxi Zhuang Autonomous
Region. Diện tích là 236 700 km2 ( 91 400 dặm Anh
vuông ) , đứng hàng thứ 9 về diện tích các tỉnh – vùng Trung Quốc, nghĩa là
nhỏ hơn Việt Nam. Tọa độ là 20054’-
m26024’ Vĩ tuyến Bắc và 104026’ – 112004’ Kinh
tuyến Đông . Bắc
giáp tỉnh Quý ( Quế ) Châu -
Guizhou, Đông Bắc giáp tỉnh
Hồ Nam – Hunan, Tây Nam giáp tỉnh Quảng Đông , và Tây giáp tỉnh Vân Nam .Biên giới tiếp giáp Việt Nam là ở Tây Nam
tỉnh và Vịnh Bắc Bộ về phía Nam. Năm
1952 , một mảnh bờ biển nhỏ Quảng
Đông được đưa cho Quảng Tây là một vùng
đất liền lục địa không bờ biển là Bắc Hải-
Beihai, Quế Châu và Khâm Châu
– Qinzhou ;. Vùng bờ biển này trả lại
cho Quảng Đông năm 1955, rồi lại qui hòan Quảng Tây năm 1965.
Dân số , thành phần các tộc dân
Thủ phủ là Nam
Ninh – Nanning, dân số năm 2010 là
6 6661 600 người . Lớn hơn thành phố Quế Lâm- Guilin nguyên là thủ phủ cũ tỉnh và là trung tâm văn hóa , chánh trị
lịch sử Quảng Tây; nay dân số chỉ
đứng hàng thứ ba của Vùng tự trị, sau cả thành phố đông dân thứ hai
là Du ( Hửu ? ) Châu - Yu zhou . Năm 2010, dân số tòan tỉnh là 46
026 000 ( theo Britannica . com ) .
Năm 2012 là 46 800 000 người , phân nữa
tổng dân số Việt Nam .
Nay tộc dân đông
nhất Vùng là Hán ( Hoa ) –Tàu . Nhóm
Hán chánh Quảng Tây nói tiếng Quan Thọai-Mandarin Tây Nam Tàu và các lọai tiếng
Tàu Việt- Chinese Yue
varieties . Nhóm Tráng – Zhuang
là nhóm đông dân thứ hai ở Quảng
Tây , có đến 14 triệu người . 90% tộc
dân Tráng sinh sống ở Quảng Tây đặc biệt
chiếm 2/3 dân số ở các vùng miền Trung và miền Tây . Và tộc dân Hán chiếm 1/3 còn lại .
Hai ảnh hưởng ngôn ngữ Tàu khác biệt nhau là Quan Thọai Tây Nam , nói nhiều ở
quận huyện Đông Bắc là Quý Lâm -Guilin ở và
tiếng Quảng Đông – Cantonese ở phần Quảng Tây còn lại. Ngòai ra còn một số đáng kể dân Dong –Đông ? và dân Mèo – Miêu – Miao , và một số nhỏ hơn làcác tộc dân Yao , Hui , Yi ( Lô lô ),
Shui và
Gin ( tộc dân Việt Nam – Kinh ) . Như đã biết , tộc dân Tráng một tộc dân Thái – Tai đã sinh sống ở Quảng Tây từ
2500 năm rồi . Dân Tráng sống ở đồng bằng và thung lũng các sông của đồi núi phía Tây . Họ
trồng lúa nước và thực hiện một nền kinh tế rất dễ
nhập vào dân Hoa – Hán Tàu . Họ thường có tên là “dân sống ở nước - water dwellers “ vì các nơi họ định cư là gần nước, xây dựng nhà sàn trên cột , cọc . Dân Tráng đã sống chung cùng dân Hán từ 2000
năm nay . Họ thu nhận văn hóa Tàu , nói luôn cả hai thứ tiếng
, ngôn ngữ Tráng và Quảng Đông
– Cantonese. Ngữ vững La mã hóa tiếng Tráng đã được sáng tạo ra và là một trong 4 hệ thống
viết đã được in ở các tờ
giấy đồng bạc Tàu . Nguồn gốc
Dong không rỏ rệt , nhưng Dong lại thường được xem là một nhánh của
Tráng , vì họ rất giống nhau . Dong sinh sống ỏ các núi cao
phía Bắc gần biên giới tỉnh Quế Châu . Tuy nhiên dân Miêu - Miao và Dao –
Mán , từ lâu như đã nói, kháng cự lại
sự đồng hóa văn hóa Tàu . Ngôn ngữ Miêu
- Mán khác biệt nhau và liên hệ chỉ xa xăm với Hán . Không
một ngôn ngữ Hmong – Miên ( Miao – Yao) nào viết
được cả , mãi cho đến khi ngữ vững thích nghi với cách viết la tinh được du nhập vào thập niên 1950.
Phân Chia Hành Chánh
Quảng Tây chia ra làm 14 Phủ - Huyện ( đối
chiếu ngang hàng tỉnh ở Viêt Nam ) - dijishì :
Số Tên Huyện lỵ Tên hán ngữ Pinyin Dân số diện tích ( km2 )
1 Baise Youjiang Baise Shi 3 466 800 36 203. 85
2 Hechi Jinchengjiang HéchiShì 3 369 200 33 487 . 65
3 Liuzhou Liubei Liuzhou Shì 3 758 700 18 616. 54
4 Guilin Lingui Guilin Shì 4 748 000 27 622 .89
5 Hezhou Babu Hèzhou Shì 1 994 100 11 771 . 54
6 Chongzuo Jiangzhou Chongzuou Shì 1994 300 17 345 . 47
7 Nanning Qingxiu Nánning Shì 6 661 600 22 111. 98
8 Laibin Xingbin Láibìn Shì 2 099 700 13 391 .59
9 Guigang Gangbei Guigang Shùi 4 118800
10 605. 44
10 Wuzhou Changzhou Wuzhou Shì 2 882 200 12 554 .94
11 Fangchenggang Gangkou
Fangchenggang 866 900 6 181. 19
12 Qinzhou Qinnan Qìnzhou Shì 3 079 700 10 820 . 95
13 Beihai HaiCheng Beihai Shì 1 539 300 4 016 . 07
14 Yulin Yuzhou Yùlin Shì 5 487 400 12 828. 11
14 phủ huyện này lại chia ra
làm 37 quận? - shi xiaqu (
Trì hạ khu ? ) , 8 thị trấn cấp huyện - xianjishi ( huyện cát trì ? ) và 53 huyện-
xian và 12 huyện tự trị ( zizhi xian ).
Đôi chút địa lý
Địa hình
Quảng Tây là một cao
nguyên thấp dần từ Bắc và Tây Bắc xuống Nam và Tây Nam. Độ cao từ 900 đến 1800m ( 3000 đến 6000 bộ
Anh ) trên mặt biển, đạt ở mép bìa Cao Nguyên
Vân Nam - Quý Châu ( Yunguei ) ở Tây Bắc , các rặng núi
Liễu? Văn-jiuman và Phong Hòang-
Fenghuang ở Phía Bắc và các núi Việt Thanh –YueCheng ở Đông Bắc
. Đa số vùng này gồm các
đồi núi cao từ 450
đến 900m ( 1500 – 3000 bộ ) . Phía Tây là các núi Đô Dương- Duyang
cao đến 2000m ( 6500 bộ ) . Ở Đông Nam, các đất thấp ở độ cao chừng 90 –
450m ( 300- 1500 bộ ). Đá vôi chủ trì nhiều phần Quảng Tây làm thành những cảnh quan ngọan mục Karst
, trong đó các đỉnh núi nhọn – pinnacles và tháp hình chóp xoắn ốc- spires , và
các hang động lớn nhỏ , các hố đất sụp – sinkholes và các dòng nước ngầm
đầy rẫy . Các đồi núi đá ngọan mục , những tháp xoắn ốc hình thù
quái đản và các hang động hình
dáng lạ lùng có các thạch nhủ đủ lọai
,được tìm thấy nhiều nơi trong vùng , đặc biệt gần Quế, Quý Lâm –
Guilin . Nhưng cảnh quan này song
song với những lọai tương tự tìm ra ở Quý Châu láng giềng và ở Vân Nam
đã đuợc UNESCO xếp chung thành một vị trí Di sản
Thế giới – World Heritage năm
2007 . Núi cao nha6’t Quảngb Tâyb là
Kitten Mountain ở rặng Việt Thanh
cao 2141m ( 7 024 bộ ) .
Đất đai và thủy văn
Các sông
Tân – Jin và Nam Liễu – Nanliu chảy về Vịnh Bắc Bộ . Dòng chánh sông Hương – Xiang chảy về hướng
Đông Bắc vào tỉnh Hồ Nam. Vô số sông còn lại của Quảng Tây gồm Hồng Thủy-Hongshui, Lưu- Liu , Cương ? -Qian , Hửu-You , Tả- Zuo , Xuân ? Xun và Qúy- Gui theo hướng nghiêng lệch Đông Nam
đúng theo đặc điểm địa hình phần lớn Quảng Tây . Chúng
khởi sự từ một lọat nguồn và chảy
vào nhau
theo một kế tiếp đồng quy, mãi
cho đến khi chúng nhập vào một sông chánh
là sông Tây - Xi. Hệ thống sông
mạnh mẽ này bắt nguồn từ Vân
Nam chảy rộng ngang qua tòan vùng Quảng Tây trước khi
đổ vào biển Nam Hải ( Biển Đông )
gần Quảng Châu – Guangzhou ( Canton ) tỉnh Quảng Đông . Vùng đồi
núi gồm đất đỏ , trong khi các đất thấp lại là phù sa
do các sông đưa tới.
Khí hậu
Tòan vùng , khí
hậu ấm áp đủ để bảo đảm trồng trọt suốt năm . Mùa hè kéo dài từ tháng
tư đến tháng 10 , rất là nóng nực điên đầu và ẩm độ cao . Mùa đông dễ chịu và
ít khi tuyết rơi . Nhiệt độ tháng 7 là từ 27 đến 32 độ C ( 80- 90 độ F
). Nhiệt độ trung bình tháng
giêng là từ 4 đến 16 độ C ( 40- 60 độ F
). Vì ảnh hưởng của gió mùa đem mưa tới, thổi từ phía Nam đến Tây
Nam vào cuối tháng tư cho đến cuối tháng 9, nên mưa rất nhiều .
Vùng Tây Bắc khô hạn và vùng ẩm ướt là
phía Nam và phía Đông . Lượng mưa
trung bình là từ 1080 mm ( 43 ngón Anh
) đến 1730mm( 68 ngón ) ở
vùng khô hạn và vùng ẩm ướt nhận tối đa là 2760 mmm ( 109 ngón ). Đa số mưa rơi xuống xảy ra vào tháng 5 và tháng 8 . Ở cực Nam, mưa to do bảo tố gây nên thường xảy ra
giữa tháng 7 và tháng 9 .
Đời sống động vật và thực vật
Rừng bao phủ gần ¼ Quảng Tây. Các rừng
linh sam – fir , thông đỏ , thông tuyết, bá hương –cedar, long
nảo – camphor , gỗ hồng sắc – rosewood tìm thấy ở phía Bắc và phía Tây vùng , cam- quýt mọc nhiều ở phía Nam , trong khi quế muồng – cassia,
cây anít – anise và cây cọ trầu – betel palm phồn thịnh ở nhiều nơi . Hai lòai họ thông
Cathaya mọc nhiều ở các rừng phía
Đông Bắc . Các rừng gỗ
là dự trữ qúi gía và để khai thác gỗ . Phía Trung và Nam Quảng Tây, nay nhiều đồi núi trọc đã bị cỏ hòa bản -grasses cao lớn
chiếm cứ , được dùng làm nhiên liệu
hay đồng cỏ nuôi trâu con . Các động
vật hoang dã nổi bật là bò rừng
–bison, heo(lợn ) rừng – boars,
gấu , vượn –gibbons , nhím – hedgehogs, và vẹt mào – cockatoos.
Tài nguyên khóang chất và làm thủy điện
Vùng tự trị có vài trầm tích than đá
và sắt hổ trợ một phát triễn công nghệ
khiêm tốn . Than đá được khai thác phía Bắc Guilin và phía Nam Liuzhou và quanh Bise ở phía Tây . Sắt
được đào mỏ ở gần biên giới Quảng Đông – Hồ Nam, cũng như ở
Đông Nam Quảng Tây. Tài nguyên
khai thác khóang chất khác là thiếc ( Quảng Tây
sản xuất thiếc chánh ở Trung Quốc ) , tungsten , măng gan và antimony .
Một số ít bismuth , kẻm, hafnium
và chì cũng được khai thác .
Tiềm năng thủy điện Quảng Tây rất to lớn . Trạm thủy điện lớn Longtan trên sông Hồng Thủy phía Đông Bắc Quảng Tây khánh thành năm 2008 . Điện cũng được phát ra từ các nhà máy nhiệt
điện . Khí sinh học – biogas ( nhiên liệu phát sinh từ phế thải con người động vật ) lan tràn khắp nơi, dùng cho tiêu thụ gia thất .
Phần II : Phát triển kinh tế Quảng Tây
Kể từ năm 1949 , Quảng Tây đã tiến bộ lớn về phát triễn Kinh tế . Đập , kênh đào ,và hồ
dự trữ đã được xây dựng lên để tưới tiêu các đất đai khô hạn, các trạm thủy điện được xây cất và các tài nguyên khóang chất được khai thác để
khích lệ công nghệ cận đại và công nghệ
nông thôn cũng được phát triễn để đa lọai hóa nền kinh tế làng xã . Quảng Tây đã trở thành tự túc lúa gạo và thật
tế đã xuất khẩu gạo thặng dư qua Quảng Đông . Vùng
Kinh tế Vịnh Bắc Bộ ( Vịnh Bắc Kỳ
- Golf of Tonkin) được thiết lập năm 2006 , hầu đề xướng Quốc tế tham gia và phát triễn vùng Vịnh Bắc Kỳ .
Quảng Tây có vài trầm tích than đá và quặng sắt để hổ trợ cho
một phát triễn khiêm tốn công
nghệ . Than đá được khai thác ở Quế
Lâm và Nam Liễu Châu và quanh Bise
ở phía Tây . Sắt được khai thác ở
vùng gần biên giới Quảng Đông- Hồ Nam
cũng như ở Đông Nam Quảng Tây .Các tài nguyên khóang chất khác
khai thác là thiếc , tungsten , măng gan
và ăng ti moan – antimony . Cơ sở thủy điện to lớn
Long tân ?-Long tan hòan tất năm 2008 trên sông
Hồng Thủy – Hongshui Ở Tây
Bắc Quảng Tây . Điện cũng được phát xuất từ các nhà máy nhiệt điện . Tiêu thụ điện gia thất lan tràn, nhờ dùng khí nhiên liệu của các phế thải con người hay động vật. Mạng lưới điện Quảng Tây sẽ đầu
tư 4.6 tỉ yuan cải thiện mạng lưới trong thời gian Kế họach Ngũ niên thứ 11 . Đến giữa năm 2007, Quảng Tây đã đầu tư
2.5 tỉ Yuan , trong số này , 2.3 tỉ nhắm
vào dự án xây dựng mạng lưới điện
chánh. Cho đến nay 4 trạm phụ biến điện mới đang ở nhiều giai đọan hòan tất . Trạm phụ Văn Phủ - Wenfu đã họat động ở Thành phố Hà Trì - Hechi tháng giêng năm 2007 và đã trở thành trung tâm
chánh yếu cho hệthống điện quanh 3 phủ huyện. Khi trạm phụ Cảng vũ – Cangwu hòan tất
, nó sẽ tăng gấp đôi khả
năng trạm biến điện địa phương . Tháng 6
năm 2007 , trạm phụ Trùng Tả - Chongzuo đã làm xong thử nghiệm . Tháng đó ,
Kỳ Long – Quilong cũng bắt
đầu sản xuất , sẽ hổ trợ hệ thống điện ở
Thànhphố Kỳ Long cũng như miền Bắc Quảng
Tây và làm dễ dải dự án khắp Trung Quốc chuyễn điện từ Tây
sang Đông .
Nông Lâm Ngư
Chỉ vài vùng nhỏ bé Qủang Tây là trồng trọt được . Nông
nghiệp tập trung ở các thung lũng sông
và các đồng bằng đá vôi . Núi đồi thường làm các ruộng bậc thang những
nơi nào làm được . Kể từ thập niên 1950
, chánh phủ đã mở rộng thêm đất canh tác mới bằng dẫn thủy nhập điền và máy cày . Hoa màu chánh là lúa gạo , bắp ( ngô )
, lúa mì và kjoai lang . Hoa màu thương mãi chánh là mía và đậu phụng ( lạc ) , mè ,
gai sợi-ramie ( cỏ Tàu – china
grass ), thuốc lá , bông vãi và chàm
– indigo . Quảng Tây cũng sản xuất nhiều lọai trái cây ( ăn quả ) . Nuôi gia súc tùy thuộc vào nông trang
. Trâu dùng để kéo xe tại các ruộng lúa
dù cho có sự cố cơ giới hóa. Heo ( lợn ) , gà , vịt được nuôi ở nông trang và dê nuôi trên đồi . Nhiều vùng trồng dâu nuôi tằm .
Lâm nghiệp Qủang Tây ( nếu trùng với phần I, xin hủy bỏ
) sản xuất gỗ kiến trúc và sản phẩm rừng quan trọng . Ỏ miền Bắc
khai thác rất nhiều thông .,linh sam – fir và tre khổng lồ ( lồ ô
? ), thông tuyết ( thông bá hương)- cedar .
Gỗ đàn hương –sandalwood màu đỏ , đen cũng được sản xuất
ở miền Tây. Quan trọng hơn nữa
là sandarac , một lọai nhựa – resin dùng làm vẹc ni – varnish và giang ( thang đèn) – incense, đại hồi anít Tà u – Chinese anis,
vỏ quế bì - quế tàu Cinnamomum cassia ( Chinese Cinnamomum ) có lẽ không tốt bằng quế Thanh ( quế Sài gòn, quế Qùi, cannelier royal) mọc ở Trường Sơn từ Thành Hóa
vào Nam và vú lá – nutgall vết sưng trên cây sồi – oak trees
dùng làm tannin và long nảo- camphor
. Dầu tùng , dầu trà ( chè ) và dầu
thì là –fennel oil cũng được sản xuất ở Quảng Tây . Vài loại
này và các sản phẩm khác là những thành phần
cốt cán cho Đông Y Tàu ( Thuốc Bắc ? ) .
Đánh bắt
thủy sản cũng phổ thông ở Quảng
Tây . Cả đánh bắt trong lục địa và ngòai
khơi ở Vịnh Bắc Kỳ là nơi có nhiều luồng cá đông đảo , giàu có nhất thế giới . Đánh bắt
gồm có cá nạng –
croaker ( vì
tiếng cá kêu ộp ọạp – croak ), cá trích – herring , mực , tôm ,
lươn , cá vượt – perch, cá thu
– mackerel , cá mập và cá tầm –
sturgeon . Đánh bắt cá con ở nhiều dòng sông suối để
nuôi thủy sinh – aquaculture là đặc điểm ngành đánh cá nước ngọt . Nuôi cá
và nuôi tằm bổ sung nhau : kén tằm phế thải dùng nuôi cá
và bùn hồ nuôi cá dùng làm phân bón cho các vườn dâu lá nuôi tằm . Nuôi ngọc
trai quan trọng ở gần Hà Phổ - Hepu,
cạnh bờ biển Vịnh Bắc Kỳ đã nổi tiếng là
“ ngọc trai đẹp miền Nam Trung Quốc “
.
Công nghệ
Công nghệ nhẹ sản xuất
tơ sợi , bột giấy , tơ lụa , da thuộc và diêm quẹt , hóa chất và dược phẩm
cũng như gôm sandarac , đường
mía, thuốc nhuộm , dầu ăn và chất béo . Nhựa thông là một xuất cảng đáng kể của Vũ Châu. Công
nghệ nặng là các ngành sắt và thép ỏ Liễu Châu,
Hà Trì và Lữ Giai – Luzhai,
sản xuất máy móc ở Nam Ninh và Vũ Châu , xi măng ở Liễu Châu. Các tiểu công nghệ vô số kể Quảng Tây gồm
áo quần bông vải và gai sợi , giấy tre ,
giấy rơm rạ lúa và lược tre
. Kể từ thập niên 1980 , nhiều ngành công nghệ phát triễn mau lẹ tỉ
như các nhà máy làm xe hơi – ô tô , các động cơ diesel nặng và phân bón hóa học .
Đầu tư
Lớn nhất là Đài Loan. Riêng năm 2007 , có 71 côngty tư bản hiểm
nguy Đài Loan khởi thủy ở Quảng Tây, đầu tư
149 triệu đô la Mỹ và xuất khẩu ròng – gross exports trên 1
tỉ đô la . Tinh đến cuối năm 2006 , Đài
Loan đã có 1182 công ty tư bản hiểm
nguy ở Quảng Tây , đưa tổng số đầu tư lên đến 4. 25 tỉ $ .
Giữa năm 2007 , 43 dự án trị gía 2.6 tỉ RMB ( 342 triệu $ ) đã ký
kết khế ước giữa Quảng Tây và các nhà đầu
tư Đài Loan . Hợp tác liên hệ chánh yếu giữa các công ty Quảng Tây
và Đài Loan là chế tạo , các công nghệ điện tử cao kỷ , nông nghiệp , tài nguyên
năng lượng và du lịch .
Nam Ninh |
Các Khu công nghệ và thành phố - thị trấn lớn Quảng Tây đáng thăm viếng ngày nay là :
- Khu công nghệ
Trung tâm là Nam Ninh và Liễu Châu
- Khu công nghệ Phía Đông là Vũ Châu và Quế (
Quý ) Lâm, gần biên cương các tỉnh phía
Đông Trung Quốc là Hồ Nam và Quảng Đông
- Khu công nghệ
Phía Nam là Khâm Châu , Bắc Hải, Phương
Thành Cảng
Năm 1999 , Nam Ninh có 2 859 000 người, GDP là 27.6
tỉ RMB , và giá trị công nghệ là 18.7 tỉ
RMB .
Đầu thế kỷ thứ 20, Nam Ninh
là một thị trấn buôn bán tương đối nhỏ , nhưng phát triễn mạnh sau năm 1949 . Nay là một thành phố công nghệ phồn thịnh. Nam Ninh nằm trên sông Dũng –yong, một
phụ lưu của sông Châu ( Pearl river
) hình thành một thung lũng phì nhiêu, phía Bắc các núi dựa trên biên giới Việt Nam. Công nghệ chế tạo
gồm có sắt và thép , aluminium , chế biến
thực phẩm , phân bón hóa học và máy móc cơ học .
Năm 1999 , Liễu Châu dân số là 1804 000 người , GDP là
17.5 tỉ RMB , trị giá công nghệ là 27.1 tỉ
RMB . Liễu Châu cách
Đông Bắc Nam Ninh 200 km trong một khúc sông Liễu – Liu uốn cong ngặt . Nay Liễu Châu là trung tâm công nghệ lớn nhất Quảng Tây , dù rằng như mọi thành phố Vùng tự trị , vẫn
chưa phát triễn gì mấy năm 1949. Liễu
Châu có nhiều xa lộ chánh và đường xe lữa gíúp cho Thành phố thành một trung tâm địa phương quan trọng
. Nổi tiếng về máy móc , thiết bị điện
tử và hóa chất . Liễu Châu cũng vang
danh về các sản phẩm đồ gỗ và giấy. Liễu
Châu là một trung tâm xe hơi motor
chánh yếu . Hảng Hoa Kỳ General
Motors có một căn cứ chế tạo ở đây
, làm một công ty tư bản hiểm nguy chung sức tên là SAIC- GM – Wuling Automobile . Thành phố cũng đã có
một xưởng thép lớn và nhiêu công nghệ liên quan . Chánh quyền vùng tự trị hy vọng sẽ nới rộng thêm khu vực chế tạo và trong khi lập Kế họach Ngũ niên Tàu, năm 2011 đã dành
riêng 2.6 ngàn tỉ - trillion
RMB đầu tư vào Khu Kinh tế Vịnh Bắc Bộ ( Bắc Kỳ ) .
Năm 1999, Vũ Châu đã có 2 707 000 người, nằm dọc theo Sông Châu và chỉ cách biên giới Quảng Đông vài km . GDP năm đó là 11.6 tỉ RMB và trị giá sản xuất
công nghệ là 11.4 tỉ RMB . Từ thế kỷ thứ
18 , đã nổi danh về thuốc lá và thuốc
cây cỏ đông y. Vũ Châu nằm trên đường
nhiệt đới Tropic of Cancer cách Nam Ninh đôi chút về phía Bắc .
Năm 1999 , Quế ( Qúy ) Lâm đã có 4
792 000 người ( để so sánh, dân số Sài
Gòn năm 1999 là 5 0 73 000 người và Hà Nội là
2 672 000 người ); Cũng vào năm
1999 , GDP Quế Lâm là 27.6 tỉ RMB và sản phẩm công nghệ trị gía 22,2 tỉ RMB. Quế
Lâm nằm về phía Đông Bắc Quảng Tây ,
cách biên giới Hồ Nam chừng 80 km. Đây là một
trung tâm chuyên chở và công nghệ quan trọng , nhưng lại nổi tiếng nhiều hơn nữa,
nhờ
là vị trí cảnh quan đẹp đẽ của các đỉnh núi đá vôi phi thường các nhà thơ và họa sĩ Tàu cổ
điễn đặc sắc trình bày . Các họat động kinh tế Quế Lâm gồm đánh cá , chế biến thực phẩm và chế tạo phân bón hóa học , đồ cao su
, tơ sợi, máy móc , thiết bị điện tử
. Và khai thác các mỏ thiếc và tungsten
kế cận.
Năm 1999, dân số Khâm Châu – Qinzhou là 3148 000 người , GDP là 12.8 tỉ RMB và sản
phẩm công nghệ trị giá 6.2 tỉ RMB .
Khâm Châu rất gần bờ biển và cách
Nam Ninh chừng 100km về phía Nam . Năm 1999, dân số Bắc Hải- Beihai chỉ là 139
000 người , nhưng GDP lên đến 10.8 tỉ RMB và sản phẩm vông nghệ trị giá 8.8 tỉ RMB . Bắc Hải nằm
trên một bán đảo phía Đông Nam Quảng Tây ,
cách bán đảo lớn hơn là Leizhou tỉnh Quảng Đông khỏang 70km. Bắc Hải nổi tiếng về ngọc trai đẹp .
Năm 1999 , Phương Thành Cảng – Fangchenggang có 771 000 người , GDP là 5.5 tỉ RMB , sản phẩm
công nghệ trị gía 3.9 tỉ RMB,nằm trên một bán đảo còn nhỏ
hơn nữa phía Tây Bắc Hải , cách
Khâm Châu về phía Tây Nam , khỏang 50 km. Đây là
một hải cảng ưu tú .
Tưỏng cũng không
nên quên vùng kinh tế biên giới với Việt Nam ( qua Nam Quan , Đồng Đăng , Lạng Sơn ….) là Bằng Tường - Pin Xiang, thiết lập năm
1992; diện tích 720 ha ( 7.2 km2,
2.8 dặm Anh vuông ) , tụ điểm vào phát triễn các sản phẩm phần cứng cơ học và điện , chế biến hóa học cần dùng hằng ngày
, dịch vụ, công nghệ tồn trữ và thông tin căn cứ hậu cần- logistics based .
Tuy vậy , những năm gần đây, nền kinh tế
Quảng Tây đã mất nhuệ khí , phải
đứng sau tỉnh Quảng Đông , tỉnh giàu
có láng giềng và anh em sinh đôi . Năm
2011, GDP Quảng Tây là 1171 tỉ đồng
yuan ( 185.9 tỉ $ US ) và chỉ đứng hàng thứ 18 ở Trung Quốc
. GDP mỗi đầu người Quảng Tây năm
đó là 15 800 yuan ( 2300 $US ) . Nên nhớ là năm 1999 GDP mỗi đầu người Quảng Tây chỉ đến 4 148 RMB ( chừng 600 $ , dân đô
thị 5619 RMB ( chừng 800 $ ) và dân nông thôn 2048 RMB (
chừng 300 $ ). Năm 2000, lợi tức mỗi đầu dân Sài Gòn chỉ là 2180 $ và trung bình cả nước là trên
400 $. Năm 2013 , lợi tức mỗi đầu người Sài Gòn leo lên đến 4500 $ .
Ngành du lịch đặc
biệt hướng về thành phố Quý ( Quế) Lâm , tăng nhanh chóng vào thập niên
1980 và trở thành một nguồn lợi tức lớn
cho Quảng Tây. Địa hình karst khác biệt và ngọan mục gần Quế Lâm
là một nơi du lịch phổ thông nhất
của Trung Quốc . Đáng kể thêm là đi chơi biển dọc Sông Lý Giang – Li jiang từ
Quế Lâm đến Dương Thạc – Yangshuo phong cảnh giống hệt các bức tranh vẽ cổ điễn
Tàu . Cảnh quan đá vôi karst các đồi
núi , các núi hình nón và hình trụ đã là nguồn cảm hứng
cho nghệ sĩ và thi sĩ
Trung Quốc từ thời xa xưa và cũng được trình bày trên các tờgiấy
tiền tệ Trung Quốc . Thác Đức
Thiên -Detian hay thác Bản Giốc ? ( Trung Quốc chiếm một
phần của Việt Nam năm 1979 ?) nằm ngang
qua biên giới Trung Quốc và Việt
Nam hình thành từ các dòng sông suối độ cao
và kích thước khác nhau chảy xuống rừng theo 3 tầng bậc.
Được xem là một trong những thác đẹp nhất Trung Quốc . Bản Giốc có cảnh quan hay đổi 4 mùa.
Chùa Tháp ban đêm ở Quế Lâm |
Chuyên chở
Hệ thống đường
sông phức tạp Quảng Tây cống hiến
chuyên chở thuận tiệ n gần khắp
Vùng Tự Trị. phần lớn giao thông là
thuyền , dù rằng nhiều phần sông
đi lại được bằng tàu có động cơ và các
tàu chạy hơi nước . Khi các dự án cải
thiện vài đường sông hòan tất , các tàu
chạy hơi nước 1000 tấn có thể đi từ Nam Ninh đến Quảng Châu ,thuộc tỉnh láng giềng Quảng Đông
vào thập niên 2000.
Đường xe lữa Hồ
Nam – Quảng Tây (còn có tên là đường Tường-
Quế, Qúy – Xianggui Line ) cắt xéo (chéo ) góc suốt Vùng , từ Đông Bắc đến Tây Nam . Đây là mạch sống lục địa khẩn thiết
nối đường xe lữa Bắc Bình – Quảng Châu và ở phía Nam Bằng Tường – Pingxiang
với hệ thống xe lữa Việt Nam .
Đương chạy ngang qua 3 Thành phố lớn Quảng
Tây là Nam Ninh , Liễu châu và Quế Lâm.
Đa số đường xe lữa Quảng Tây khác đều nố
vào đường Xianggui. Một
nhánh chạy từ Lý Đường – litang đến thành phố hải cảng
Trường Giang – Zhanjiang ở tỉnh Quảng Đông . Đường xe lữa
Quảng Tây – Quế Châu nối Liễu Châu
với Quý, Quế Dương ( tỉnh Quế Châu ) song song với
đường Liễu Châu - Chí Thanh (Zhicheng) khai trương năm 1978 đã là
một động lực thúc đẩy phát triễn miền Bắc
Quảng Tây . Một đường xe lữa mới, hoàn tất
năm 1997, nối Côn Minh ( Vân Nam ) với Nam Ninh
và Bắc Hải - Beihai trên bờ biển Vịnh Bắc Kỳ , giúp cho các tỉnh
Tây Nam một con đường trực tiếp đến cảng biển này.
Hệ thống xa lộ cũng đã được nới rộng đáng kể , từ năm
1949. Mạng xa lộ làm ra một hình chữ nhật trung tâm , có Nam Đàn- Nandan ( Tây
Bắc ) ,Liễu Châu , Nam Ninh và Baise (
Tây ) ở 4 góc , từ đó tỏa ra các đường khác . Cao tốc Quế Lâm - Bắc Hải , cắt đôi Quảng Tây từ Bắc
chí Nam , được khánh thành năm 2000 . Các
cao tốc từ Đông Bắc Nam Ninh đến Liễu
Châu , phía Nam đến Phương Thành Cảng- Fangchenggang và phía Tây Nam đến Hữu Nghị Quan – youyiguan sát cạnh
biên giới Việt Nam , cũng được khánh
thành đầu thế kỷ thứ 21 . Đường hàng không , trọng tâm
là Nam Ninh , Liễu Châu và Quế Lâm, phần lớn là bay đến
các thành phố Trung Quốc khác , với vài chuyến bay đi ra ngoại quốc quanh Vùng .
…
( Irvine , Nam Ca Li, ngày 11 tháng 10 năm 2015 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét