Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

Tỉnh Yên Bái

Lạm bàn về một tỉnh Đông Bắc, nằm sâu trong nội địa và là một trong những cửa ngõ đi vào Tây Bắc, dân miền Nam và con cháu dân Bắc di cư 1954- 56 ít khi biết đến :

Tỉnh Yên Bái: nơi tộc dân Kinh  đông nhất đã lâu ngày cư trú  cùng 30 tộc dân anh em khác
                      G S Tôn Thất Trình


  ...Người đi Châu Mộc  chiều sương ấy,
     Có thấy hồn lau nẻo bến bờ ?
      Có nhớ dáng người đò độc mộc,
     Trên dòng  nước lũ hoa đong đưa …
    ( bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng 1918 - 1988 )


      Tây Bắc ư ? có riêng gì Tây Bắc,
       Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
       Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng  hát,
      Tâm hồn ta là Tây  Bắc chớ còn đâu !
…    Nhựa nóng 10 năm  nhân dân máu đổ
      Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
       Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lữa,
      Nay trở về,  ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những cơn mơ!  Ai bảo con tàu không mộng tưởng ?
     Mỗi  đêm khuya  không uống  một vần trăng ?
      Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
      Mặt hồng em trong suối lớn mùa  xuân.
( bài thơ Tiếng Hát  Con Tàu, 1960; Chế Lan Viên 1920 -2003 ?)  


Vị trí địa lý, phạm vi lảnh thổ , phân chia hành chánh


Lảnh thổ  của tiỉnh nằm trong tọa độ  21º 24’ 40’’ - 22º 16’ 32’’  vĩ tuyến Bắc và từ 103º 56’ 26’’ - 105º 03 07”’ kinh Tuyến Đông . Phía Bắc Yên Bái giáp  tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp  Phú Thọ, phía Đông giáp Tuyên Quang và Hà Giang, phía Tây giáp Sơn La. Diện tích  tự nhiên cả tỉnh là  6882. 92 km2( có khi dùng con số 6899.5 km2 ), đứng hàng thứ 15( chiếm 2.08 % tổng diện tích VN) và  thứ 50 về số dân ( chiếm 0.89 % ) cả nước .Yên Bái nằm ở khỏang  giữa  quốc lộ 2 nối Hà Nội  và các  tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng với cửa khẩu  Lào Cai  và từ đấy qua Hà Khẩu  sang thành phố Côn Minh  thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nhưng việc nằm sâu nội dịa cùng với địa hình núi non ít nhiều, cũng gây ra  một số khó khăn cho việc thiết lập các mối liên hệ kinh tế trong và ngòai tỉnh.
    Phân chia hành chánh
      Đời Nhà Trần,  Yên Bái có  thể thuộc  Tuyên Quang   là một châu thuộc lộ Quốc Oai .  Năm 1469 , đổi là thừa tuyên  Tuyên Quang.  Đời Mạc đổi là trấn Tuyên Quang  . Trước 1888 , tỉnh Tuyên Quang gồm 2 phủ  là Yên Bình và Tương Yên . Một phần Yên Bình nay là huyện Yên Bình( có 2 thị trấn là huyện lỵ Yên Bình và Thác Bà ), nay thuộc tỉnh Yên Bái. Tương Yên có  có 3 huyện và hai châu là Chiêm Hóa và  Lục Yên. Châu Lục Yên nay thành huyện Lục Yên,  nay thuộc tỉnh Yên Bái huyện lỵ là Yên Thế.  Yên Bái được thành lập năm 1900. Địa Bàn khi đó chỉ  gồm  huyện Trấn Yên. Tỉnh  lỵ đặt tại Yên Bái . Năm 1975 , Yên Bái cùng với Lào Cai và Nghĩa Lộ  sáp nhập thành tỉnh Hòang Liên Sơn.  Ngày 12 tháng 8 năm 1991,  theo nghị quyết  Quốc hội khóa VII, tỉnh Hòang Liên Sơn tách ra thành 2 tỉnh : Yên Bái và Lào Cai.  Lúc này , Yên Bái nhận thêm  3 huyện :  Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Căng Chải  của Nghĩa Lộ cũ và chuyển 2 huyện : Văn Bàn và  Bảo Yên sang Lào Cai. Trên phương diện hành chánh  Yên Bái hiện có 2 thị xã  là Yên Bái và Nghĩa Lộ, 7 huyện ( Lục Yên  huyện lỵ là Yên Thế , Mù Căng Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên huyện lỵ  là Cổ Phúc, Văn Chấn huyện lỵ là Sơn Thịnh, Văn Yên huyện lỵ là  Mậu A, Yên Bình ( huyện lỵ là Yên Bình và thị trấn Thác Bà );  với 159 xã , 11 phường và 10 thị trấn ( 6 thị trấn huyện , 3 thị trấn nông trường là NT Liên Sơn, NT Nghĩa Lộ và NT trần Phú , 1 thị trấn công nghiệp ). Hai huyện diện tích lớn nhất là Văn Yên ( 1388.8 km2 ) và Văn Chấn (  1223.9 km2 ); hai huyện  nhỏ nhất là Trấn Yên ( 690.7 km2 ) và  Trạm Tấu ( 742.0 km 2 ) . Dân số năm 1999  là 682 171 người , so  với năm 1991 lúc mới tái   lập tỉnh tăng thêm được 86 059 người. Năm 2008  là 750 200;  372 000 năm và 378 200 nữ. Như vây cuối năm 2013, dân số Yên Bái có lẽ đã đến gần  800 000 .
      Thành phần, quy mô các tộc dân Yên Bái


      Yên Bái là địa bàn  cư trú từ lâu đời của 31 tộc dân anh em,  trong số 54 tộc dân  cả nước  Mặc Đăng kể ra năm 2000 ,theo tài liệu của Viện Dân tôc học V N . Về quy mô dân số, năm 2000, có 7 tộc dân  với số dân mỗi tộc dân trên  10 000 người : Kinh, Tày,  Dao - Mán, H’Mong - Mèo, Thái, Mường, Nùng. 2 tộc dân có từ 2000 - 5000; 3 tộc dân có từ 500 - 2000 người.   Tổng số dân của 19  tộc dân còn lại không quá 1000 nguời. Đông nhất là người Kinh, chiếm năm đó 53% dân số cả tỉnh . Tập trung chủ yếu  ở thị xã Yên Bái ( 96.3 % tởng số dân thị xã), Nghĩa Lộ ,Trấn Yên( 77.5 % ), Yên Bình ( 62.2 % ), Văn Yên ( 60% ), Văn Chấn ( 42 % ) và  một số tương đối nhỏ ở Lục Yên ( 21 % ), Trạm Tấu ( 7.5 % ,Mù Căng Chải ( 4 % ).
        Người Tày , thời Pháp thuộc cũng gọi là Thổ( từ đọan này  đến đọan người Nùng … Lục Yên - Yên Bình phần lớn là  chiếu theo Lê Thành Khôi,  Việt Nam Văn hóa và Môi trường - Lê Hửu Mục và Thái Công Tụng, Việt Học xuất bản  ở Ca Li , Hoa kỳ năm 2012 )  nay  chiếm 17.6 % dân số tỉnh,  cư trú nhiều  ở Lục Yên ( chiếm 53 % dân số tòan huyện ), một ít ở các huyện Trấn Yên, Yên Bình, Văn Yên và Văn Chấn.  Tuy răng năm 2009 , Mặc Đăng l.ai xếp người thỏ vào nhóm  Thanh Hóa - Nghệ Tỉnh vào nhóm Việt - Mường  và  người Tày đông nhất ở Cao Băng , thuộc nhóm Tày - Thái  Tộc dân Tày  và Thổ ( ? )  tràn qua VN ở vùng  Đông Bắc vào cư trú  ở các tỉnh  Cao Băng Lạng Sơn  và Bắc Kạn. Năm 1999, tổng số tộc  dân Tày ở VN   đã lên đến 1 478 000 người , còn đông hơn cả tộc dân Thái năm đó  chỉ là  1 329 000 .  Ảnh hưởng Kinh  trên tộc dân Tày  không những khiến cho  người Tày thay đổi hòan tòan y phục địa phương mà ngay cả sửa đổi chế độ xã hội  kẻ  từ thời đại nhà Mạc  gần 100 năm ( 1752 - 1677  )  ở Cao Bằng.   Áo  quần tộc dân Tày,  tuy  phỏng theo cắt xén kiểu Việt- Kinh, nhưng luôn luôn màu xanh đậm, thay vì màu nâu ( màu củ nâu ? ). Phụ nữ Tày còn trang sức nhiều kiềng xuyến ... bạc  làm dáng , có mục đích yêu thuật- cám dỗ  hay tích trữ làm giàu ? .  
         Nguời Dao , trước đây gọi là Mán , chiếm 9.3 % dân số tỉnh,  trong đo 35% sinh sống ở Văn Yên, một ít ở  Lục Yên , Yên Bình, Văn Chấn, Trấn Yên.Trong thực tế,  người Dao ( tên Tàu gọi là Yao, còn  sinh sống nhiều ở các tỉnh Trung Quốc Vân Nam, Quảng Tây, Quế Châu và Quảng Đông  ) Yên Bái,   trong tổng số  ở VN nay là 621 000 , đã tràn xuống Bắc Bộ VN  từ thế kỷ thứ 16, chia ra làm 4 nhóm theo  màu áo y phục  hay mủ đội phụ nữ là  Dao Đỏ  ( Dao Sừng hay Dao Đại Bản ) , Dao Quần Chẹt  ( Dao Nga Hòang , Dao Sơn Đầu ), Dao Quần Trắng  và Dao Tiền,  Làn Tuyển ( Dao Tuyển ?) .
         Người H’ Mông- Mèo  chiếm 8.1 % dân số tỉnh, tập trung ở vùng cao phía Tây ( 91% dân số Mù Căng Chải , 75 % dân số Trạm Tấu). Người H’ Mông có tên là Mèo- Miêu theo Hán tự, vì leo cao rất giỏi .  Nguyên quán là các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam (  Miaozi- Miêu tộc ), người Mèo di cư xuống Bắc Bộ  từ đầu thế kỷ thứ 19 , đuổi người  Thái và người Mán,  để   lên cao quá cao độ 900m . Tưởng cũng nên nhắc  qua lài tỉnh Quế ( Quí )  Châu ,  một tỉnh các tộc dân  Miêu -Mèo bị   nhà  Thanh thời  vua Càn Long  tàn phá  và họ phải tràn qua Bắc Việt sinh  sông ?  Du mục sau đó, chuyễn họ đến  các giải núi Trường Sơn,  không xa mấy đèo Lao Bảo - Quảng Trị.   Tộc dân Mèo nay đến 788 000 người ở   các tỉnh  Lai Châu , Hà Giang , Sơn La , Lào Cai , Yên Bái.  Họ cũng không có chữ viết riêng biệt .  Các bộ tộc Mèo khác biệt nhau,chia  thành Mèo trắng, đen, đỏ, cắm hoa, sừng...   vì cách trang điểm phụ nữ Mèo, lạ nhất là đội mũ khăn  vòng lớn hào quang , áo - váy  xếp  theo lối in hoa văn ( bôi sáp vào nơi không nhuộm )  theo những hình vẽ  hình học có  đồ thêu sặc sở .  Người Thái chiếm 6.1% dân số, trong đó 89 % cư trú ở Văn Chấn.  Đây là Thái Đen Nghĩa Lộ và Sơn La,  khác với Thái Trắng Lai Châu. Vạt thân trên áo phụ nữ Thái Đen  màu đen hay xanh thẩm,   một  thắt lưng và  và một  khăn đầu  cùng màu ; thắt lưng Thái Đen không đóng bằng các đĩa bạc hình vuông như Thái Trắng.  
    Người Mường chiếm 1.9 % dân số,  phân bố ở các huyện phía tây của tỉnh.Tộc dân Mường ở Việt Nam nay đến 1 138 000, sinh sống  ỏ phía Nam sông Hồng  từ Nghĩa Lộ đến sông Gianh ( Quảng Bình, miền Bắc Trung Bộ ), dọc theo bờ biên các châu thổ đến cao độ 300m . Người Mường là tộc dân gần gủi nhất với tộc dân  Việt - Kinh về ngôn ngữ, nhân chủng ,tộc dân  và sơ sử - protohistory .Nhưng trong khi tộc dân Kinh  đã có xã htôn tự trị từ lâu , tộc dân Mường vẫn duy trì chế độ lảnh chúa - seigneur,  tương tự như các tộc dân Thái , chủ đất đai nhưng phải phân chia  cho các dân làng bản. Các lảnh chúa Mường có tên là quan lang, thổ lang hay thổ ti . Cải cách điền địa ở miền Bắc  đã hủy bỏ quyền  đất đai các quan lang  cũng như các đặc quyền quan làng , lảnh chúa.  
       Ngườì Nùng chiếm 1.9% dân số,  chủ yếu ở Lục Yên, Yên Bình. Sau năm 1954 , ngườii Nùng di cư vào Tây Nguyên như ở Tùng Nghĩa Lâm Đồng - Tuyên Đức , ở Phan Rí - Bình Thuận và ở Cà Mâu - Cái Nước , Đầm Dơi … Y phục phụ nữ Nùng còn giữ nhiều đặc điểm người Hoa hơn là nguời Việt ?  
      Theo độ cao,  vùng thấp người Kinh,Tày, Nùng, Mường, Thái cư trú cộng đồng thành các làng bản  dân cư trù mật. Ngược lại  các sườn núi hay núi cao là địa bàn sinh sống của người Dao, người H’ Mông  dân cư thưa thớt. Về mức đô thị hóa năm 1999, dân thành thị Yên Bái chiếm 19.8% dân số cả  tỉnh.  Hai thị  xã là nơi có  tỉ lệ  dân thành thị cao nhất  ( Nghĩa Lộ 100% , Yên Bái 84.1 % ).  Hai huyện có tỉ lệ dân thành thị thấp nhất là Trạm Tấu ( 9.6% ) và Mù Căng Chải ( 5.1% ).


     Lần các trang  sử cũ
     
     Từ các mùa khai quật năm 1963- 64 , các nhà khảo cổ  Việt Nam  và Đông Đức đã phát hiện   trong lớp trầm tích  màu vàng ở Hang Hùm  4 răng người  hóa thạch,   gồm 2 răng hàm dưới , 2 răng Hàm trên.  Hang Hùm năm  ở chân dãy núi đá vôi  huyện  Lục Yên  nay thuộc tỉnh Yên Bái ( trước đây là tỉnh Hoàng Liên Sơn ) . Những chiếc răng này tương đối lớn  hơn răng nguời Thẩm Ồm   huyện Qùy Châu , Nghệ An .  Đáng chú ý là  những chiếc răng Hang Hùm cùng thời với người Neanderthal, nhưng lại  không mang những đặc điểm của   của người Neanderthal  mà có nhiều yếu tố  của người  không ngoan Homo sapiens. Niên đại người cổ Hang Hùm có thể vào  hậu kỳ  Pleistocene, cách đây từ  8 vạn  năm  đến  14 vạn năm.  Sau đó lại đào quật được một  chum lớn bằng đồng thau chứa xương một cô gái chừng sáu tuổi , cũng ở Hang Hùm Lục Yên   Chứng tỏ Yên Bái đã có người cư trú  cách đây 8000 năm. Văn minh sông Hồng này   đạt đỉnh cao  ở giai đọan Đông Sơn , khi  vắng mặt các công cụ  đá  và sự xuất hiện   công cụ  võ khí và đồ dùng  bằng đồng kích thước lớn, hoa văn độc đáo , tiêu biểu là các trống đồng, thạp đồng, rìu xéo v.v…   Thạp đồng Đào Thịnh ( huyện Trấn Yên ) chạm khắc hoa văn độc đáo và thạp đồng  Hợp Minh người Việt Cỗ  là những  di vật vô giá  trong kho tàng văn hóa tỉnh Yên Bái nói riêng  và cả nước  nói chung .Phương pháp phóng xạ C14  xác nhận  quá trình phát triễn  này diễn ra  từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên  đến buổi đầu  công nguyên, hình thành nhà nước đầu tiên  là nước Văn Lang  của các vua Hùng. Di tích  từ sơ kỳ thời đại đồng thau  cũng được phát hiện  ở nền văn mình , văn hóa Sa Hùynh  ở vùng đồi gò trung du và cồn cát ven biển miền Trung. Niên đại C14 ở Long Thạnh , Phú Hòa cho thấy là  văn minh Sa  Hùynh phát triễn  từ đầu thiên niên 2 đến  1, 2 thế kỷ trước  công nguyên .
      Thời nhà Lý, Lý Thường Kiệt (  1019- 1105) , huy động quân binh các tộc dân  do Phó tướng Tôn Đản và Thân Cảnh Phúc ... dẫn đầu  đánh thẳng vào quân Tống , chiếm thành Ung Châu . ( Nam Ninh nhgày nay ) . Năm  1285, Trần Nhật Duật, con thứ sáu của  vua Trần Thái Tông,  trấn thủ bộ Tuyên Quang rút lui chiến lược khỏi trại Thu Vật (  hồ Thác Bà , tỉnh Yên Bái ngày nay ) khi quân Nguyên tiến đánh trại này  và sau đó lập công lớn, đánh tan giặc Nguyên  ở trận Hàm Tử .  Việt Nam dần dần  bị Pháp đô hộ từ năm 1859 đến năm 1883,  sau khi đô đốc Rigault de Genouilly năm 1958 đem hạm đội liên quân Pháp - Y Pha Nho tấn công Đà Nẳng và năm 1959 chiếm Gia Định Thành và  năm 1861 buộc triều đình Việt Nam ( tên nước nhà 3 Kỳ thống nhất vua Gia Long đặt ra năm 1802)   phải ký hòa ước nhượng cho Pháp  ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và năm  1867 Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây  và gọi Nam Kỳ là thuộc địa- colonie  Pháp . Ở miền Bắc,  năm 1882 ,  đại tá Henri Rivìère  chiếm thành Hà Nội khiến vua Từ Đức phải  cầu cứu Tàu giải nguy . Thật tế thì  Puginier  giám mục Tây Đàng Ngoài  đã gửi mật báo về Paris là vua Tự. Đức  đang có ý định  nhờ Trung Hoa can thiệp  vào Đại Nam (  Theo  Đại Nam Thực  lục Chính biên,  Đề Đốc  nhà Thanh,  tổng đốc Quảng Tây   Phùng Tứ Tài   đã xâm nhập  lảnh thổ Đại Nam từ tháng giêng 1870 để  đánh bọn phỉ  Lương thiên Tích và Hòang Sùng Anh , tàn dư   của Ngô Côn  dư dảng Thái Bình Thiên Quốc - Thiên Địa Hội và tháng 2 năm 1870  sứ đòan sang Thanh Trung Hoa do  Lê Tuấn , Nguyễn Tư Giản và Hòang Tịnh   đã trở về Huế )  và Trung Hoa đã mật ước đưa 10 000 quân qua giúp . Sử Việt chép là Giặc cờ Vàng   của Hòang Sùng Anh hùng cứ  ở vùng Tuyên Quang ( khi đó Yên Bái thuộc Tuyên Quang)  - Thái Nguyên.   Các năm 1882 -1885,  là chiến tranh  Pháp- Hoa ( Tàu )  và chiến dịch Pháp chiếm trọn Bắc Kỳ.  Sau khi vua Tự Đức mất năm 1883 , triều Đình Huế hổn loạn, thay đổi ngôi vua nhiều lần, chia ra ba phe chủ Hòa, chủ Chiến hay là thân Pháp .  Các năm 1883 -1885,  Pháp  buộc chánh phủ Đại Nam ( tên Việt Nam lúc nước nhà mở rộng nhất thời vua Minh Mạng )  ký các hòa ước chấp nhận Pháo bảo hộ - protectorats  Bắc kỳ và Trung Kỳ .
     Các năm 1885 - 1897, Yên Bái và nhiều tỉnh miền Bắc ủng hộ phong trào Cần Vương   do Tôn Thất Thuyết lảnh đạo, cố đưa vua Hàm Nghi lên ngôi một nước độc lập. Năm 1883, vua Hàm Nghi bị bắt và  bị đày sang Algerie, một thuộc địa Pháp ở Bắc Phi Châu,  nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục,  cho đến khi Phan đình Phùng mất, năm  1895. Từ các năm  1897 đến năm  1902,  tòan quyền Pháp  Paul Doumer ép buộc thi hành bảo hộ trực tiếp ở miền Bắc  và đặt ra nhiều thuế nặng nề,  như thuế muối, thuế rượu và thuốc phiện …. Phong trào du kích chống Pháp  của Hòang Hoa Thám ( Đề Thám)  khởi nghĩa và lảnh đạo  năm 1892 ở  Yên Thế - Cầu Gỏ, tỉnh Bắc Giang , kế cận tỉnh Bắc Ninh , không phái là Yên Thế ? -  Lục  Yên, Yên Bái ( ? 0 đã bị Pháp , dùng đủ thủ đọan,  tập trung lực lượng đàn áp nặng nề  các năm 1893- 1895,   nhưng đã đề cập nhiều ở bài khảo luận tỉnh Bắc Giang,  nên không nói thêm nữa . Đầu thế kỷ thứ 20, ở Bắc Kỳ  cuộc kháng cự của  các  Văn Thân , nhà Nho Cần Vương chấm dứt,  nhưng nhiều  hình thức mới  tinh thần quốc gia khỏi nghĩa chống Pháp bừng dậy.  Tỉ như  Quang Phục Hội thành lập năm 1903 , Phong trào Đông Du ( Phan Bội Châu )  năm 1905, Phong trào Duy Tân ( Phan Châu Trinh ) và Đông Kinh Nghĩa Thục. . Năm  1907 là vua Duy Tân nổi dậy, bị Pháp  truất phế và đày sang Phi Châu . Các năm  1920  - 1940, các đảng  chánh trị cách mạng  xuất hiện. Đáng kể ra nhất  vào thời điểm này là việc thành lập  Việt Nam Quốc Dân Đảng thập niên 1920, họat động ngầm ở nhiều tỉnh, có ý định lật đổ ,chánh quyền  bảo hộ và thuộc địa  và đòi Pháp trả lại độc lập cho nước nhà . Ở Yên Bái  ngày 9  tháng 2 năm  1930, một phần  trung đòan số 4  lính tập  Bắc Kỳ nổi lọan,  giết chết nhiều sĩ quan chỉ huy Pháp,  nhưng lại bị các lính tập  trung thành với Pháp  dẹp tan  ngay.  Pháp dùng máy bay thả bom, kể cả bom napalm, dẹp lọan .  Sau đó Pháp  đưa lên đọan đầu đài hay đày biệt xứ ( đày sang tận Guyane - Nam Mỹ châu Pháp ? ) nhiều lính tập và dân sự Việt Nam tham gia  nổi loạn và chém đầu  16 lảnh tụ Quốc Dân Đảng, đứng đầu là  Nguyễn Thái Học.  Hiện nay  di tích mộ Nguyễn Thái Học  đã được bộ Văn Hóa xếp hạng là di tích lịch sử  ngay tại thị xã Yên Bái . Thời kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lăng ở khu vực Nghĩa Lộ có di tích  Căng  là nơi thực dân  giam giữ tù chánh trị  và đồn Nghĩa Lộ ghi dấu chiến thắng lớn  ngày 18 tháng 19  năm  1952, góp phần vào việc giải phóng Tây Bắc. Khu vực này  có suối nước nóng bản Hon và từ đây có thể thấy Suối Giàng,  cao độ 1371m,  với những cây chè Tuyết Sơn ( San ) cỗ thụ .                 
       …


    Địa hình,  khí hậu, thủy văn


   Địa hình

      Yên Bái như đã nói là vùng chuyễn tiếp từ Trung du ( Phú Thọ ) lên khu vực núi cao ( Lào Cai) .  Địa hình thấp dần  từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Nơi thấp nhất là  ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên ( 20m )  và nơi cao nhất là đỉnh Pu Luông( 2985m ). Địa hình chủ yếu là núi non trùng điệp trên địa bàn tỉnh có 3 dãy núi lớn chạy theo  hướng Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây là dãy Hòang Liên Sơn - Pu Luông, kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, một dãy núi trẻ, đỉnh nhọn, độ cao trung bình 1700 - 2800m, độ dốc 40o - 70 o, sườn bị cắt xẻ mạnh.  Dãy núi cỗ Con Voi nằm giữa Sông Chảy và sông Hồng, cao độ trung bình 400- 1400 m, đỉnh tròn, sườn thỏai. Phía Đông là hệ thống núi đá vôi  nằm giữa sông Chảy và sông Lô, độ cao trung bình 400 - 800m . Xen kẻ  với núi đồi là thung lũng, bồn địa, đồng bằng giữa núi : bổn địa Mường Lò ( Văn Chấn ), Đại Phú An ( Văn Yên ), Mường Lai (  Lục Yên ) … Về mặt địa hình,  Yên Bái có thể chia ra làm 2 tiểu vùng: -tiểu vùng cao, trung bình  cao độ trên 600m gồm  70 xã , chiếm  67.5 % tộng diện tích tỉnh, dân cư thưa thớt, chủ yếu là các tộc dân ít người như  H’mong - Mèo , Dao - Mán , Khơ Mú...  Nền kinh tế tiểu vùng này  chậm phát triễn, trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác là phát nương làm rẫy, một bộ phận  du canh du cư, đời sống vật chất và tinh thần gặp nhiều khó khó khăn  - tiểu vùng thấp  cao độ trung bình dưới  600m , chiếm 32.5% diện tích cả tỉnh; dân cư  tương đối trù mật đa phần là Kinh, Tày, Nùng, Thái. Trên phương diện địa hình, Yên Bái có nhiều thuận lợi  cho việc giao thông kinh tế  theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dọc thung lũng các con sông. Các mối liên hệ theo hướng Bắc Nam ( 107 km thuộc phạm vi tỉnh ) và Đông Tây ( 1 25km  )  hết sức khó khăn, vì núi cao, đèo dốc.


      Khí hậu


    Trên cao độ 1500m, hầu như không có mùa hạ, nhiệt độ trung bình  là 200C  ( 680 F )   và có khi hạ xuống 00 C  ( 32 0 F ),  vài nơi có đông giá, sương muối và tuyết rơi.  Tháng chạp và tháng giêng Tây Lịch  là các tháng mùa Đông . Đầu mùa Đông thường xảy ra hạn hán và cuối mùa lại dầm dề mưa phùn. Yên Bái đã được mệnh danh  là trung tâm mưa  phùn đất nước.  Mùa hạ kéo dài từ tháng tư đến tháng 10 . Đây là thời kỳ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình  trên 250 C . Tháng nóng nhất  là 370  - 380 C . Mưa  nhiều, thường kèm gió xóay, gây lũ quét, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Phân bố mưa và lượng mưa chịu tác động địa hình  rỏ rệt. Lượng mưa giảm từ Đông sang Tây. Dọc theo thung lũng sông Hồng , mưa giảm dần từ Đông Nam  lên Tây Bắc.  Do ảnh hưởng gió và địa hình dãy Hòang Liên Sơn, nên vào mùa hạ  sườn Tây mưa ít hơn sườn Đông và phía Tây có gió Lào. Tiểu  vùng khí  hậu phía Đông , ranh giới là dãy Hòang Liên Sơn.  Đặc trưng là vùng chịụ ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mưa nhiều 1800mm  -2000 mm một năm. Lượng mưa khu vực Nam Trấn Yên, Văn Yên, thị xã Yên Bái, Ba Khe thuộc thung lũng sông Hồng là  1800- 2200mm ( nơi mưa phùn nhiều nhất tỉnh ). Khu vực Lục Yên - Yên Bình cao độ dưới 300m, thuộc thung lũng sông Chảy, ranh giới  là  dãy Con Voi, có hồ Thác Bà nên khí hậu điều hòa hơn. Tiểu vùng khí hậu phía Tây, gồm các huyện thị Mù Căng Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ,  độ cao trung bình trên 700-  800m, nhưng lại có  gió Tây Nam nóng và khô thổi tới, nên nét tiêu biểu là nắng nhiều, mưa tương đối ít và khí hậu có tính chất cận nhiệt: khu vực Mù Căng Chải, cao độ trung bình 900m, có lượng mưa 1800 - 2000mm ; khu vực Tây Nam Văn Chấn cao độ trung bình 800m , lượng mưa trung bình là 1800mm, phía Bắc mưa nhiều, phía Nam lại mưa ít nhất tỉnh; khu vực Văn Chấn-Tú Lệ  cao độ trung bình 250- 400m, lượng mưa it hơn .


          Thủy   Văn


      1- Mạng lưới  sông ngòi Yên Bái,tương đối phong phú, chảy trên lảnh thổ tỉnh nhà  là hai hệ thống sông lớn: sông Hồng (  có đọan còn gọi là sông Thao ) và sông Chảy  và hàng trăm ngòi, suối lớn nhỏ khác nhau. Mật độ trung bình là 1.15 km/ km2 .  Sông Hồng bắt nguồn từ Ngụy Sơn -Trung Quốc ở độ cao 1766m, chảy qua  Lào Cai, Yên Bái, thủ đô Hà Nội …. và đổ vào Biển Đông ở cửa Ba Lạt. Ở Trung Quốc sông Hồng,  có tên là  Yuan Jiang   hay YuanKiang,  theo  Hán Nôm là Nguyên Giang hay Nhị Hà. Chiều dài tổng cọng là 1160 km, trong  đó phần chảy  trên đất Việt Nam dài  556 km. Đọan chảy qua Yên Bái dài khỏang 100km  với độ dốc  là 0.23m/1 km. Nhắc lại,  theo Thái Công Tụng ( Vietnamologica, 2005 ), sông Hồng chỉ có  chưa đến phân nữa lưu  vực trong nước ( 61 300 km2  ở trong nước so với tòan thể lưu vực là  140 000 km2 ) và lưu luợng cũng chỉ chiếm 68 % tổng số. Lưu vực sông Mê Kông- Cửu Long còn ít hơn nữa, chỉ chiếm 71 000 km2  trong tổng số 795 000 km2 , chiều dài chảy trong nước cũng chỉ  230 km, 5% tổng chiều dài Mê Kông. Sông dài nhất chảy  trong nước nhà là sông Đồng Nai  635 km , không phải sông Hồng hay sông Mê Kông!  Ở Trung Quốc, sông  Mê kông - Cửu Long có tên là Langcangjiang, Lants’ang kiang- Lạn Thương Giang.             
       Sông Chảy khởi nguồn  từ dãy núi Tây Côn Lĩnh , giữa các thành phố  Ôn Sơn - Wen SanMã Quan - Maguan tỉnh Vân Nam  cao 2419m,  chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, song song với sông Hồng , qua các tỉnh Lào Cai, \Yên Bái và Phú Thọ.  Dòng sông nhỏ, sâu chảy  xiết . Môđun dòng chảy bình quân là 30.5 lít/giây /km2 . Bên trái sông Chảy là hai nhánh phụ lưu sông Lô và sông Gầm, nhập nhau ở gần thị xã Tuyên Quang và gặp sông Chảy ở gần Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Hạ lưu sông Chảy có hồ và nhà máy thủy điện Thác Bà. Yên Bái còn nhiều ngòi, suối. Tiêu biểu nhất là Ngòi Thia, bắt nguồn  từ núi Pusa Phìn ( 2874m )   thuộc huyện Trạm Tấu, chảy qua  qua Văn Chấn, Văn Yên  rồi đổ vào sông Hồng. Sản phẩm bồi đắp  là hai cánh đồng tương đối rộng  Mường Lò ( Văn Chấn ) và Đại Phú An ( Văn Yên).  Ngòi Bút bắt nguồn từ núi Khao Kim cao 2007m, chảy qua Tú Lệ ( Văn Yên ). Ngòi Lâu từ núi Bo Co  cao 1639m, qua Hồng Ca, Trấn Yên. Còn phải kể ra  Ngòi Đôn, Ngòi Lũng Co ( Lục Yên) …. Nhìn chung các ngòi,suối  ở Yên Bái đều bắt nguồn  từ núi,  chứa nguồn thủy năng phong phú..
   
    2- Bên cạnh hệ thống sông suối, Yên Bái có 20 913 ha mặt nước hồ, ao . Đáng kể nhất là hồ thủy điện Thác Bà , nằm trong lưu vực sông Chảy ,thuộc huyện Yên Bình và một phần huyện Lục Yên .Hồ khởi công năm 1962 , hoàn thành năm 1970 . Mục đích chánh là  phục vụ nhà máy  thủy điện  với công xuất 108 000 kw .  Chiều dài hồ là 80km, rộng 8- 12 km  có chỗ sâu tới  42m , dung tích là 2.9 tỉ mét khối .  Ở mức nước thiết kế cao nhất, hồ có diện tích 23 400 ha , trong đó 19 050 ha mặt nước và 4 350 ha là diện tích của 1331 đảo trong hồ.  Điểm đáng nêu thêm là hồ Thác Bà đã  thay đổi  khi hậu quanh vùng,  từ nóng bức chuyễn qua  điều  hòa,  mát mẽ.  Ngoài ra còn có Đầm Ván Hội ( Trấn Yên )  và một số  hồ chứa nước khác.  


      3-  Yên Bái còn có  nguồn nước dưới đất phong phú, phân bố đều, ở độ sâu 20 - 200m  trong các nham trầm tích  bở rời Đệ Tứ. Nhưng tài nguyên này chưa được nghiên cứu cặn kẻ . Tỉnh nhà  có nguồn  nước khóang nóng, phân bố ở phía Tây, thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu ( đới Tú Lệ ). Tổng khóang hóa là 1-5g/lít , nhiệt độ  trên 400 C, có thể khai thác làm nước suối  uống và chữa bệnh.


    Tài nyuyên đất đai , rừng , động vật, khóang sản
   
 - Đất dai  

                
 Yên Bái gồm  8 nhóm đất chánh:
      - nhóm đất phù sa - eutric và dystric Fluvisols, diện tích 9171.16 ha ( 1, 3% diện tích tỉnh ), phân bố ở các khu vực có sông suối lớn (Sông Hồng, sông Chảy …) , có nơi thành những bồn địa lớn như Mường Lò ( Văn Chấn ) , Lục Yên.  Nhóm đất này  thích hợp cho trồng cây lương thực lúa - bắp ( ngô ) hay cây công nghiệp ngắn ngày ( mía, đậu phụng - lạc , đậu nành - đổ tương …) .
      - nhóm  đất  glây ( gley )- gleyic Acrisols,   diện tích 4227.97 ha ( 0.61 % )  tập trung ở  các  vùng trũng, thấp, thích hợp cho canh tác lúa nước, nhưng cần bón thêm lân và vôi .
     - nhóm đất đen-  calcic Luvisol ,  diện tích 902.51 ha, hình thành trên các thung lũng và  ven núi đá vôi, có khả năng trồng sắn - khoai mì , cây công nghiệp ngắn ngày và  lúa nước ở nơi trũng      
     -  nhóm đất xám- - haplic Acrisols  chiếm ưu thế tuyệt đối, diện tich 566 953.69 ha ( 82.37 % )   ở độ cao  dưới 1800m, tập trung chủ yếu ở Văn Chấn, Văn Yên, Mù Căng Chải. Thích hợp trồng  cây công nghiệp dài ngày  chè - trà và cây ăn trái - ăn quả,  nếu độ dốc dưới 25 %
      - nhóm  đất đỏ - ferralic Acrisols ? ,  diện tích 12 104.19 ha, phân bố ở các  vùng đá vôi, mác ma ba dờ, thuộc các huyện Lục Yên , Trạm Tấu , Văn Chấn , thích hợp trồng  một số cây công nghiệp dài ngày, cây ăn trái.
       -   nhóm  đất mùn alit-  humic Alisols, ở độ cao hơn 1800m, diện tích 55 078 .28 ha (8.0 % ) , tập trung ở các huyện vùng cao ( Văn Chấn, Mù Căng Chải ,Trạm Tấu ), chủ yếu  là trồng rừng phòng hộ.
       -    nhóm đất alit vàng hay đỏ vàng-  ferralic Arrisols  tầng đất mỏng, diện tích 1824 .674 ha  ( 0. 2%) thuộc các huyện Lục Yên, Văn Yên và Văn Chấn .
       - Các nhóm đất khác còn lại , diện tích là 38 080.61 ha ( 5.54 % )  
     
Vì Yên  Bái là  một tỉnh  núi non, diện tích có độ đốc  vượt quá 25 0  chiếm 55.6 % tổng diện tích nên đất nông nghiệp ít. Năm 2000, số đất đai chưa sử dụng còn rất lớn, khỏang hơn 330 000 ha , chiếm 48 % tổng diện tích, trong số này  305 620 ha có khả năng lâm nghiệp và  chỉ 1972 ha có khả năng nông nghiệp.


     Rừng  ; các lòai cây cỏ và  động vật


Rừng là tài nguyên gắn bó  trực tiếp với cuộc  sống  đồng bào đông đảo các tộc dân Yên Bái từ bao đời nay . Trước kia, Yên Bái là tỉnh tiềm năng rất lớn  về rừng.  Nhưng nay rừng đã suy giảm nghiêm trọng . Chỉ tính từ năm 1978 đến năm 1994 , diện tích rừng tự nhiên giảm  tới 60% ( 183 956 ha )  . Trung bình mỗi năm giảm đi 13 139 ha, khỏang 1.5 lần diện tích trồng lại rừng mới. Trong  những năm sau đó , tình hình có vẽ khả quan hơn. Tính đến tháng 12 năm 1999, tòan tỉnh có  258 900 ha rừng , gồm 180 400 ha rừng tự nhiên và  78 500 ha rừng trồng , độ che phủ đạt 37.6 %  . Nhắc lại là thời Pháp thuộc, Việt Nam  năm 1943 có  20 triệu ha rừng,   bao phủ 60 %  đất đai  tòan quốc, nhưng năm 1993  độ che phủ chỉ còn  20 % diện tích rừng, khỏang 6.4 triệu ha hay ít hơn.  Koninck  chuyên viên lâm học cho Chương trình phát triễn Liên Hiệp Quốc-  UNDP, năm 2002, báo cáo con số tệ hại hơn nhiều, cho rằng độ bao phủ   đã xuống dưới 10 % , con số thấp nhất  các nước Đông Nam Á  ( theo Trần Đăng Hồng , Việt Nam Văn hóa và môi trường -2012 ) .
  Đối với các lọai rừng trử lượng gỗ  là  156 m3  cho rừng trung bình, 81m 3 cho rừng  nghèo, 34 m3 cho rừng tái sinh  và 67 m3 cho rừng hổn giao. Trử lượng  rừng nứa thuần là 5143 cây/ha  và  rừng vầu thuần là   29876 cây/ha. Rừng của Yên Bái còn nhiều loại gỗ  quý ( đinh, lim , sến , táu , lát , pơ mu …). Trử lượng gỗ  của rừng tự nhiên chủ yếu tập trung ở  các huyện Lục Yên , Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn, Trạm Tấu. Rừng gỗ trồng phần lớn  các vùng giấy sợi, rừng phòng hộ đầu nguồn. Trong rừng,giới động vật cũng khá phong phú  và đa dạng.  Tuy nhiên, động vật dưới tán rừng bị suy giảm  do việc săn bắn bừa bải.
      Trên phương diện đa dạng sinh học , Yên Bái thuộc  vùng  rừng núi Hòang Liên Sơn , một trong 4 vùng  chánh đặc hửu địa phương Việt Nam . Ba  vùng kia  là vùng rừng ẩm uớt  Bắc Trung Bộ( vùng Ba Vì - núi Tản Viên  từ Hòa Bình đến Nghệ An, vùng núi đá vôi Pu Luông - Cúc Phương.. ) , vùng núi Ngọc Linh ở Tây Nguyên và  Cao nguyên Lâm viên  miền Nam Trung Bộ. Nhắc lại là vùng Hòang Liên Sơn   chứa dỉnh núi cao nhất nước nhà là đỉnh Phăng Xi Păng- FansiPan  cao 3143m  ở biên giới hai tỉnh Lào Cai ( gần  thị trấn Sa Pa ) và  Lai Châu ngày nay và các đỉnh núi cao khác là Pu Ta Leng 3096m cũng ở biên giới hai tỉnh này nhưng gần thị trấn Phong Thỏ - Lai Châu hơn , đỉnh Lang Cung cao 2913m ở biên giới hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai,  phía Bắc Tú Lệ, thuộc huyện Mù Căng Chải. Đặc điểm  vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn  là ở các chân núi  tìm thấy nhiều lòai cây cỏ nhiệt đới, sườn núi trung tâm  là những lòai bán ôn đới và  trên cao  là các lòai  cây cỏ ôn đới.  Đã kiểm kê ở Hòang Liên Sơn  2000 lòai  cây cỏ,  trong đó 25 % là đặc hửu địa phương, 68 lòai động vật có vú, 61 lòai bò sát, 553 lòai côn trùng - sâu bọ và 347 lòai chim. Đa dạng này đã kể ra ở bài về tỉnh Bắc Kạn  và một phần nào các bài  tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang …rồi,  cho nên không nói thêm ở đây nữa .


     Khoáng sản


     Yên Bái có nhiều đới nham tướng, giới hạn  bởi các  đứt gãy sâu sông Hồng, sông Đà, sông Chảy, trải qua  các chu kỳ tạo sơn lớn , kèm theo họat động mác ma xâm nhập và phún xuất mạnh. Nhờ vậy, tài nguyên khóang sản  có nhiều mỏ nội sinh và ngọai sinh. Tuy nhiên các mỏ thuộc lọai nhỏ, không có khả năng khai thác quy mô lớn. Năm 2000 phát hiên  153 điểm mỏ   thộc các nhóm khỏang sản sau đây :  
  -  18 điểm  mỏ nhóm năng lượng  than  có trữ lượng 78 0 000  tấn , than nâu -than lữa dài phân bố ven sông Hồng , sông Chảy, than anthraxít  ở Văn Chấn …
  - 42  điểm mỏ nhóm vật liệu xây dựng : đà vôi , đá ốp lát , sét , cát,  sỏi….
  - 39  điểm mỏ  khóang chất công nghiệp,  từ nguyên liệu làm  phân bón đến  nguyên liệu kỷ thuật . Đáng chú ý là đá qúy và bán đá quý,  chủ yếu ở Lục Yên
   - 41  điểm mỏ kim lọai  lòai đen ( sắt  , lọai màu ( đồng, chì,  kẻm  đến vàng), nhưng trữ lượng nhỏ , chỉ có ý nghĩa địa phương    
   - 13 điểm  nước khóang, chủ yếu  ở địa bàn các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu


               Phát triễn kinh tế qua hai thị xã,  Nghĩa lộ và Yên Bái đặc biệt là thị xả tinh lỵ Yên Bái.


         Trong giai đọan 1991-1995,  mức tăng trưởng trung bình  của Yên Bái là 7.5 % một năm. Đứng đầu là khu vực III - dịch vụ có mức tăng trưởng  là 9. 35 % , rồi đến  khu vực II - công nghiệp và xây dựng  là 8.67 %. Cuối cùng là khu vực I - nông lâm ngư nghiệp  5.25 % . Vào giai đọan  1996- 2000, một số ngành kinh tế  vẫn giữ được mức  tăng trưởng khá , nhưng ngành công nghiệp - xây dựng  có xu hướng giảm. Khu vực III  tăng 13,56 % , khu vực II chỉ còn 8.4 % và khu vực I đạt 5.34 % .  Đời sống dân gian  có phần được cải thiện . Thu nhập bình quân  theo đầu người theo giá 2000  đạt 2 .398 triệu  ĐVN,  gấp 4 lần năm 1990. Cơ cấu kinh tế thập kỷ vừa qua  có một sự  chuyễn dịch theo  xu hướng giảm tỉ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỉ trọng  dịch vụ và công nghiệp. Nhưng chuyễn dịch chậm và không đều . Năm 1999. theo thống kê , khu vực I vẫn  giữ vai trò chủ đạo chiếm 48.7 % GDP  tỉnh nhà .  Công nghiệp và xây dựng  còn nhỏ bé , chỉ chiếm  19.4 % ,  nhưng  khu vực dịch vụ  đã chiếm 31.9 % GDP Yên Bái. Tốc độ chuyễn dịch  làm nổi bật vai trò trung tâm  của hai thị   xã Yên Bái và Nghĩa Lộ, hạt nhân thúc đẩy phát triễn kinh tế xã hội . Năm 1999, dân số thị xã Yên Bái là  73 626 ,trong đó  61 912 là dân thành thị và  11 714 là dân nông thôn. Năm 2003, dân số thị xã Yên Bái là 78 016 nguời. Theo tỉ lệ gia tăng này năm 2012 , thị xã Yên Bái đã có gần 90 000 người. Thị xã Nghĩa Lộ, năm  1999,  có 18 414 người, tăng lên đến 25 256 người năm 2003, và có lẽ gần đến 40 000 người năm 2012- 13. Nền kinh tế Yên Bái có điểm xuất phát thấp,  sức thu hút vốn đầu tư trong và ngòai nước  còn hạn chế , số lao động thiếu việc làm  còn nhiều ( năm 1999,   số người chưa có việclàm  và thiếu việc làm thường xuyên.  Yên Bái chiếm 11.49 % nguồn lao động tỉnh  trong tổng số người trong độ tuổi và tham gia họat động năm đó ước lượng là 301 938 người )  , trang bị cũ và lạc hậu, đời sống nhân dân  vùng sâu, vùng xa còn quá  nhiều khó khăn ( tỉ  lệ hộ đói nghèo năm 1999  là 14 % ).
         Những năm gần đây,  thị xã Yên Bái được xem như là   một lực lượng  lảnh đạo phát triễn  Yên Bái.  Thị xã tỉnh lỵ  đã duy trì  một mức tăng trưởng  cao, hàng năm lên đến 14.96 %.  Đặc biệt năm 2012,  thị xã đạt mức  tăng trưởng  kỷ lục là  16.8 % . Cơ cấu kinh tế đã chuyễn dịch dương tính, với tỉ   trọng khu vực II  là 47%,  khu vực  III là 49 % và khu vực I,  Nông lâm ngư chỉ còn 3.3 % . Lợi tức ngân sách  tăng 20-25 % một năm và  xuất khẩu   lên đến 20 triệu đô la Mỹ . Lợi tức mỗi đầu người của dân thị xã là  40 triệu đồng ĐVN ( gần 2000 đô la Mỷ ? )  Tổng số tư bản đầu tư  thời gian 2006- 2010  đạt  trên  5 000 tỉ  ĐVN .  Tuy Yên Bái được xem là một trong số trung tâm phụ vùng của 14 tỉnh núi non miền Bắc, nhưng Yên Bái  còn phải đối đầu  với nhiều thách thức khó khăn   thu hút đầu tư   phát triễn kinh tế xã hội.   Nhưng nhờ  xa lộ   Cao Tốc Xuyên Á -  Trans Asia Ex;press   nối Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam Trung Quốc, dự trù hòan tất năm 2014? ( xem chi tiết về Cao Tốc này ,vay 1069 triệu đô la Mỹ của ADB  và đường xe lửa Việt Trung - Quốc ở bài biên khảo về  Lào Cai ngày) , sẽ nối liền  Yên Bái   với các trung tâm chánh phát trien kinh tế Bắc Việt  đóng vai trò cử ngõ  đề xướng buôn bán  với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á - ASEAN, rút ngắn   khỏang cách  từ Yên Bái  đến Hà Nội ,  chỉ còn  125 km , nghĩa là 1.5 giờ xe ô tô. Đầu tháng 3 năm 2014, thị xã Yên Bái  đón mời  các nhà đầu tư nội địa và ngọai quốc vào 17 dự án  các ngành tơ sợi,  da , và giày dép , cơ khí , điện tử  hóa học , ráp xe hơi  , chế biến   các sản phẩm lâm , nông và xây dựng  những phức tạp  hạ tầng cơ sở công nghệ và du lịch. Ngòai việc làm dễ dàng , mau lẹ hơn các thủ tục hành chánh đầu tư ,  Thị xã Yên Bái  cố tâm   phát triễn  những công viên công nghệ  thiết lập một qủy đất sạch - clean land fund?  qaủyqw và những hệ thống hạ tầng cơ sở thích nghi như  điện , nước   đuờng phố, bảo vệ môi sinh .      


               Các công viên công nghệ Yên Bái


              Đầu năm 2014,  tỉnh Yên Bái  đ ã thiết lập  5 vùng  công nghệ,diện tích hơn  1000 ha  và 19 cụm- clusters  công nghệ  và thủ công diện tích gần 1500 ha.  Đáng lưu ý là   vùng công nghệ phía Nam tỉnh,  một vùng công nghệ quốc gia  và vùng công nghệ then chốt  tỉnh nhà . Vùng công nghệ này có ưu điểm là gần sông Hồng và hồ Thác Bà ( vùng vật liệu đá vôi trắng ) , đường xe lữa  quốc gia,  quốc lộ 70, quốc lộ 32C và cũng gần xa lộ cao tốc Xuyên Á.  Diện tích công viên  công nghệ Nam  là 207.8 ha.  Hiện đã có 18 dự án  tổng số  tư bản đầu tư đăng ký  là 2 000 tỉ  ĐVN ( 95.2 triệu đô la ), đã  được chiếm hửu  trên 30 %  các dự án đầu tư, tụ điểm vào sản xuất vật liệu xây dựng , chế biến khóang sản , sản phẩm  nông lâm  và sản xuất hàng hóa tiêu thụ.   Tổng số  Đầu tư Trực  tiếp Ngọai quốc- FDI  là 21 dự án;  số vốn lên đến 109.6 triệu đô la . Năm 2013, tỉnh Yên Bái  đã cấp môn bài cho 2 dự án FDI  lập các xưởng xuất khẩu áo quần, tổng số  lợi tức hai hảng này  là 26.18 triệu đô la, mức tăng trưởng là 20% một năm. Doanh nghiệp năm 2013 có hiệu năng tốt  gồm luôn cả  R. K Việt Nam Cẩm Thạch - Marble , lợi tức 15.84 triệu đô la và hảng YBB  Calcium carbonat, lợi tức là 8. 67 triệu đô la. Khai thác và chế biến đá quý là một lợi thế của Yên Bái. Đá quý phân bố  trên diện tích chừng 1400 km2 ở các huyện Lục Yên, Yên Bình, Trấn Yên dọc sông Chảy  và tả ngạn sông Hồng. Chủ yếu là  hồng hgọc -rubybích ngọc- sapphire, chất lượng rất tốt ở mỏ Tân Hương và mỏ Ngòi Chi ( Động Quan ). Mới  đây phát hiện là đá quý   fluor cannilloites  từ thị trấn Duyên?,Dương - Yueng Yang , Ôn Sơn - Wen Shan tỉnh Vân Nam  thật ra là từ Lục Yên, Yên Bái. Theo báo cáo Hauzenberger năm 2005,  fluor cannilloites phân tích thảy đều là pargasite  và pargasite xanh lục đậm  liên kết với spinel đỏ từ Lục Yên                 
          Vùng công nghệ IZ  Âu Lâu  ở xã Âu Lâu, thị xã Yên Bái  thuộc về hệ thống  công viên công nghệ quốc gia.  Giai đọan đầu  qui họach  120 ha  và  đang giải quyết vấn đề đất đai.  IZ Âu Lâu   là một IZ đa ngành, cho phép đầu tư vào  các công nghệ sạch  như công nghệ đồ da, ráp đồ điện tử, ráp xe hơi   và chế tạo các phụ tùng xe gắn máy, xe mô tô .  Công viên công nghệ Minh Quán, thuộc huyện Trấn Yên  cũng  thuộc hệ thống công viên công nghệ Quốc gia. Nằm kế cận  quốc lộ 32C và xa lộ cao tốc Xuyên Á , diện tích  112 ha  đón chào  các đầu tư  sản xuất nông nghiệp  và biến chế  sản phẩm lâm nghiệp.  Có 2 cụm  công nghệ do thị xã Yên Bái quản lý. Cụm Đầm Hồng diện tích 12 ha , đã có 14 dự án đầu từ   các ngành chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây cất, chế biến khóang sản  và công nghệ cơ khí.  Tổng số tư bản  đầu tư  là 65 tỉ ĐVN . Cụm thứ hai ở IZ  Âu Lâu,   có ưu điểm là  nằm trên đường tỉnh lộ, chỉ cách  xa lộ cao tốc 2km.  Diện tích dự trù là 79 ha . Giai đọan 1 đã được sử dụng . Cụm chờ đợi đầu tư  ở các ngành  sản phẩm nông lâm , tơ sợi  và cơ khí.  Đã có một doanh vụ đầu tư  và 7 doanh vụ đăng ký đầu tư 10 ha,  và hạ tầng cơ sở đã hòan tất .  


    Dịch vụ


   Giao thông vận tải
  Yên Bái  là trung tâm giao thông quan trọng ở Bắc Việt .
   Yên Bái nằm trên đường xe lữa ( đường sắt ) chạy lên Việt Bắc, từ thủ đô Hà Nội  đến  thị trấn biên giới  Lào Cai và Vân Nam . Đường xe lữa cũng  chạy qua  các thị trấn Mậu A  và Cỗ Phúc. Trước đây   đọan  chạy qua tỉnh  gồm 10 ga ,  dài 94 km trên địa bàn  20 xã phường,  thuộc thị  trấn thị xã Yên Bái  và các huyện Trấn Yên, Văn Yên, chất lượng  đường vào lọai xấ , khổ hẹp 1m , tốc độ tàu chạy thấp. Đường xe lữa  Việt - Trung Côn Minh - Hải Phòng, hòan thành năm 1910, dài 855 km, khúc đọan  Việt Nam  dài 466km .  Mỹ thả 288 000 tấn bom  các năm 1975 - 68 phá  hại nặng nề,  nhưng lại được Trung Quốc viện trợ  đưa vào  miền Bắc khỏang thời gian này đến 300 000 nhân công, chuyên viên sửa chửa lại mau lẹ, kể cả cầu Long Biên Hà Nội.  Đặng Tiểu Bình, năm 1979,  cho Việt Nam một bài học là  đã dám đánh Khmer Đỏ - Kampuchia , Trung Quốc ủng hộ ( và lúc đó có luôn cả Hoa Kỳ ủnh hộ Khmer Đỏ nữa ),  xua 300 000 ? quân Tàu   tàn phá các tỉnh ( và 20 thị trấn  ? ) biên giới Việt Trung , khiến cho đường không còn họat động và chỉ mở lại giao thông năm 1993.  N ăm 2004, Việt Nam  vay 160 triệu đô la nhẹ lãi của Ngân Hàng Phát triễn Á Châu- ADB  ( thật ra là vay của Pháp ) xây dựng, điện hóa, khổ đường rộng... đường xe lữa cao tốc Yên Viên  Hà Nội - Lào Cai, hòan tất năm 2009 .Đọan Yên Viên - Cảng Cái Lân - Hải Phòng cũng được vay 450 triệu đô la làm đường xe lữa cao tốc điện hóa nay vhắc đã xong .Hinh như năm 2013 ? , Việt Nam còn muốn dùng viện trợ Nhật xây dựng lại đường xe lữa   thành xe lữa  cao tốc Bắc- Nam , Hà Nội- Sài Gòn.
  Năm 2000, tổng chiều dài  các lọai đường bộ tỉnh nhà  là 3981 km. Yên Bái năm đó, có  4 tuyến  quốc lộ, tổng chiều dài là 369.5 Km. 2 tuyến  dọc là quốc lộ 70  ở phía Đông  và quốc lộ số 32 ở phía Tây  được nối  nhau bằng  quốc lộ 37 ở phía Nam. Quốc lộ 70 chạy  từ Đông Nam Lào Cai đến  tỉnh Yên Bái  qua Yên Bình ngay phía Bắc thị xã Yên Bái và nhập vào quốc lộ 2, dẫn tới Hà Nội qua Đoan Hùng. Quốc lộ 32 , chạy song song và chỉ cách  quốc lộ 70  vài km phía Tây Nam , nối Tây Bắc Hà Nội  với  thị xã Yên Bái  qua Sơn Tây, Lâm Thao  và tỉnh Phú Thọ.  Quốc lộ sô 37  nối thị xã Yên Bái  tới Nông Trừờng Trần Phú ( huyện  Văn Chấn ) ở phía Nam . Thị trấn Nông Trường này  cũng được quốc lộ 32 chạy ngang qua  và theo hướng  Tây Bắc,  qua thị xã Nghĩa Lộ , Nông trường Liên Sơn  đến các vùng núi Tây Bắc  tỉnh nhà và tỉnh láng giềng Lào Cai,  kéo dài 183 km  trên đường Lào Cai- Hà Nội dài 340 km. Tỉnh lộ  có tổng chiều dài  là 229 .5 km, đi qua 160  xã , nối các thị trấn huyện lỵ Trạm Tấu, Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên  với  các quốc lộ. Năm 2000, đường tỉnh lộ lọai tốt  chỉ có14 % , còn lại là lọai xấu  và rất xấu.  Đường đô thị  thuộc 2 thị xã Yên Bái và Nghĩa  Lộ , chiều dài 78.5 km, chất lượng chỉ trung bình . Đường nông thôn chủ yếu là đường đất .  Dù giao thông đường bộ đã được chú trọng, năm 2000 vẫn còn 21 trên tổng số  180 xã vẫn chưa có đường ô tô đến trung tâm .
    Yên Bái có 2 tuyến chánh đường thủy. Tuyến sông Hồng, dài 115 km, trong đó 10 km ( Văn Phú - Yên Bái )  trung ương quản lý . Tuyến  hồ Thác Bà,  nối liền  các xã phía  Đông của hồ  với quốc lộ 70, dài 80 km. Trong số này, trung ương quản lý  50 km ( từ cảng Hương Lý - Thác Bà đến Cẩm Nhân ).
    Yên Bái không có giao thông đường hàng không dân sự. Sân bay quân sự Yên Bái,  cách  thị xã 5 km, hiện đang đựợc sử dụng huấn luyện  phi công chiến đấu  Không lực Việt Nam . Sân bay Nghĩa Lộ  chỉ còn mặt bằng và sân bay  Đông Cuông ( huyện Văn Yên ) đã phá mặt bằng làm sản xuất nông nghiệp.


     Du lịch


  Yên Bái  có nhiều tiềm năng du lịch , nhất là du lịch sinh thái, văn hóa . Tuy nhiên đến năm 2000 tiềm năng này chưa được khai thác bao nhiêu cả.  Năm 1999, số khách đến Yên Bái  chỉ mới  là  11 768 người,  trong đó chỉ  213 lượt khách quốc tế . Doanh thu du lịch cũng nhỏ bé.  Năm 1999 chỉ  là 5.8  tỉ  ĐVN,  phần lớn tập trung ở thị xã  Yên Bái ( 95.6% ) . Năm 2014, Yên Bái đã vay tiền phát triễn dài hạn ( 50 năm ? )  6 dự án chánh du lịch:  du lịch sinh thái - ecotourism ở Vân Hội  (, hay Đầm Ván Hội ? huyện Trấn Yên ) , Suối Giàng ( huyện Văn Chấn ), Bản Học ? , Đầm Hậu ?  và Tân Hương ( huyện Yên Bình, gồm luôn  khu an  dưõng cho người già  ), và du lịch hồ Thác Bà. Mỗi nơi hy vọng đón mời 30 000 - 40 000 du khách một năm.
       Hồ Thác Bà  là một hồ nhân tạo  xây cất thủy  điện. Hồ rộng 23 400 ha  và có 1331 tiểu đảo. Chiều dài của đập là  657m và   đập  cao 48m,  chứa đựng được tối đa  2. 49  km  khối- cubic kilometres, chứa nuớc sông Chảy  chừng 2.16 km khối, đưa vào ở vị trí đập một diện tích  lưu vực là 6430 km2. Hồ dài 60 km, trải rộng 235 km2  khi mực nước có độ cao + 58m, chịu đựng được lũ ngàn năm  khi mức lũ đạt mức +59.65 m. Đậy là  dự án thủy điện lớn nhất tỉnh, đập khởi công năm 1964  và hoàn thành năm 1971 với sự giúp đở của Nga Sô Viết.  Đơn vị nhà máy phát điện thứ nhất  thiết kế  tháng 10 năm 1971, đơn vị thứ hai tháng 8 năm 1972  và đơn vị thứ ba ngày 19 tháng 5 năm 1972 . Dù rằng vào thời gian này khu c vực nhà máy  bị không lực Hoa Kỳ đánh phá nhiều lần. Hiện nay công xuất  tổng cọng là 120 000 Kw, tiềm năng phát sinh điện lượng là 400 triệu Kw giờ /năm. Du lịch Thác Bà nhắm vào Lễ Hội Sông Hồng -Thác Bà , tổ chức làn đầu tiên các ngày 29- 31 2012 ( tức là các ngày mồng 8 đến mồng mười tháng ba Âm lịch ) , tại  Đền  Thờ - Temple  Thần Vệ Quốc , thuộc  xã Đông Cuông,  huyện Văn Yên  . Mục đích Lễ Hội là phát triễn các giá trị tinh thần văn hóa   dân gian Sông Hồng.  Đây cũng là một phần  chương trình du lịch “ Về Cội Nguồn “  thăm viếng các di vật ở vùng phụ cận  thuộc nền văn hóa - văn minh Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ ) của ba tỉnh  Phú Thọ , Yên Bái và Lào Cai . Lễ Hội  mở đầu 45 phút,  có   4 đặc điểm  trình  diễn nghệ  thuật :   Ca múa sông Hồng ,   Trên sóng nước sông Hồng , Các Mùa Phù sa sông Hồng và  Tiếng Gọi Sông Hồng.  Ngòai ra còn nhiều họat động  sôi nổi khác như   lễ hội thương mãi vùng , thi nấu nướng , triễn lãm  đề tài  Sông Hồng  Xưa và Nay , cách làm giấy mỏng - giấy dó - poonah paper  lễ hội  phù phép  tộc dân Dao  ( huyện Văn Yên ) , chọi trâu , dâng hương,  rước kiệu  thần Thành Hòang  và Thánh Mẩu, mùa xòe,  đánh còn ,  cùng những giải trí khác  thi đua chèo thuyền trên hồ,  leo núi , tham quan cảnh vật rừng đặc thù Hòang Liên Sơn ….  Múa xòe nón là một điệu múa đặc sắc  của  đồng bào tộc dân Thái.  Nón trong  tay cô gái Thái  giống như đóa hoa ban ( lòai Bauhinia variegata )  hé nở ;  nhưng chiếc nón chụm vào, mở ra từ từ  từng cánh như  một bông hoa  trắng muốt. Trong điệu xòe, nón khi lao nhanh trên đầu, khi nhẹ nhàng quay trên vai,  lượn trên tay nghiêng nghiêng bên má, khi e thẹn xe tròn trước ngực.  Nón xoay , nón nghiêng, nón lượn làm  cho điệu xòe thêm hấp dẫn (  theo  Lê Ngọc Canh, Hà Nội,  năm 1989 ).            
    Lễ hội thổi khèn  ở Suối Giàng huyện Văn Chấn  tổ chức vào tháng 6  mỗi năm . Khèn  là nhạc cụ hết sức quen thuộc  của đồng bào  các tộc dân Thái, Mường, Lào , H’ Mong - Mèo.  Nguời Mường thổi khèn đệm  cho những điệu hát  Thường , Đang . Người H’ mông dùng tiếng khèn để  giao duyên trai gái  và làm đạo cụ cho những điệu múa khèn … Lễ hội Suối Giàng còn là một lễ  hội tộc dân H’ Mong, ca ngợi giá trị của cây trà cỗ  thụ   đã giúp dân Mèo ra khỏi vòng nghèo khổ. Lễ hội Suối Giàng  còn kềm theo múa khèn, ném Pao .. .và thăm viếng  cảnh quan đẹp đến rừng nguyên sinh Tập Làng ?, rừng thông và nhất là các đồi trà Tuyết Sơn, cùng lúc thở không khí tươi  mát, nhờ cao độ của Suối Giàng 1370 m trên mặt biển.   
             Các lễ hội Yên Bái khác đáng kẻ khác là Lễ Hội  Nam Cường  tháng ba,  ở ngay trong xã Nam Cường thị xã Yên Bái   thả chim bồ câu hay “ nghĩa điểu”,  biểu tượng  cho “Hòa Bình”  và “ Thủy chung”. Bồ câu là giống chim hiền lành , sống theo bầy đàn , có khả năng định hướng cao  và có tính đồng đội  không bỏ đàn khi  bay. Lễ Hội Hoa Bưởi, tổ chức mỗi tháng chín   ở nhà làng Khả Linh , xã Đại Minh , huyên Yên Bái , ngòai   cúng dường hoa bưởi thơm dịu,  còn có thể tham quan  làng văn hóa Ngòi Tu , tham dự đua thuyền đò   và nhiều  trò chơi thể thao khác .  Tuần  Lễ Hội Mừờng Lò, tổ chức mỗi  năm vào tháng 10  ỏ   Thị xã Nghĩa Lộ, kỷ niệm  chiến thắng lớn thời kháng chiến  chống Pháp chiếm đồn Nghĩa Lộ   ngày 18 tháng 10 năm 1952  như đã kể trên, giúp  giải phóng Tây Bắc, trước Điện Biên Phủ.  Vùng này còn có di tích Căng  , nơi thực dân Pháp thuộc địa   giam giữ tù chánh trị  với sự kiện  9 chiến sĩ hy sinh  khi vượt ngục . Ngòai thi đua thể thao , lễ hội còn là nơi triễn lãm  các sản phẩm các tỉnh Vùng Tây Bắc  và thi đua ẩm thực .
      …
       Vài nét tiêu biểu nông  lâm Yên Bái


    Trước tiên là việc thành lập, năm 2004,  khu bảo tồn  đời sống hoang dã Mù Căng Chải, rộng 20 293 ha ,  gần biên giới tỉnh Lào Cai.   Sau đó là tăng gia  khu vực  rừng phòng hộ   phía tây tỉnh và trồng lại rừng. Năm 2013, Yên Bái  đã  có 469 000 ha rừng  cao hơn dự  trù cho năm 2010 là 414 000 ha )  bao phủ 51 % tổng diện tích tỉnh nhà (  thay vì chỉ còn độ che phủ  37,6 % năm 1999), đứng hàng thứ 3 tòan cõi  nước nhà.  Đặc biệt là trồng quế - cinnamon , nay đã trên 15 000 ha, trong số 41000 ha dự trù và hơn 700 nông trang trồng  các lọai cây làm giấy, ngòai các loài cây  giá trị bản địa như sấu, trám v.v…
      Về canh nông, đáng chú ý   là phát triễn lúa  lai - hybrids cao năng ở các vùng núi Mù Căng Chải, trồng hai vụ lúa một năm thay vì chỉ một vụ  ở các ruộng bậc thang,  trồng thêm một vụ  Đông bắp - ngô ở các thung lũng đã trồng 2 vụ lúa một năm . Tuy nhiên cố gắng tăng gia sản xuất lúa, ngô, cần thâm canh  hơn nữa  vì  mức sản xuất lương thực có hạt ( hột )  còn quá thấp ( năm 2002 chỉ đạt  259 Kg cho mỗi đầu người), dưới xa mức  an tòan trung bình quốc gia ước lượng là 500 kg .  Hai cây công nghiệp lâu năm là chè và cà phê   cũng cần cải thiện, thâm canh thêm. Phải đẩy mạnh hơn nữa  trồng chè  Shan - Tuyết Sơn  trên 35000 ha  ở vùng cao  và  cố đạt  trên  10 000 ha  chè trung du giống mới ở vùng thấp. Tìm cách  đưa thêm  giống mới cao năng, cao phẩm cho cà phê arabica, diện tích còn khiêm tốn, chỉ mới đạt khoảng 900 ha năm 2000 .            


  …


                                 ( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ , ngày 22 tháng 3 năm 2014 )






    


Bến Tre

Bến Tre xứ dừa, quân tóc dài, có đồng khởi công nghệ và dịch vụ đặng chăng ?
                             G S Tôn thất Trình

                                     ... Quán rằng  ghét việc tầm phào,
                                        Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm …
                                     …Trên đời mấy bậc cố tri,   
                                        Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm …     
                   ( Thầy trò đàm đạo và bộ ba  nghĩa khí  Vương Tử  Trực - Hớn Minh - Lục Vân Tiên, ở truyện thơ Lục Vân Tiên của  Nguyễn Đình Chiểu, sinh  năm 1822 và mất năm 1888.  Tuy sinh ở  huyện Bình Dương , phủ Tân Bình tỉnh Gia Đình, nhưng  sau khi Cần Giuộc  bị Pháp chiếm, tiên sinh chạy về  Ba  Tri - Bến Tre năm 1867 và mất tại làng An Đức, tỉnh Bến Tre )   
                                Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
                                     Tây Âu khoa học chiếu minh tâm .   
                           (Hai câu đối của Petrus Trương Vĩnh  Ký , sinh tại Cái Mơn nay thuộc Bến Tre năm 1837 và mất năm 1898, khắc trước  cổng trường Petrus Ký -Sài Gòn. Đáng trách là  sau 1975, Việt Nam đổi tên trường thành Lê Hồng Phong, không chút nào để tâm Petrus Ký là một trong 18 học giả tài danh nhất quốc tế  thời đó, đọc viết thông thạo 17 ngôn ngữ ngọai quốc . )
                                           Phải thời ô quả, chịu thời cô,
                                           Chẳng biết tuồng đời tính thế mô ?
                                           Dòm  thấy bụi trần toan đóng cửa,  
                                           Ngọc lành  chi để thẹn danh ô .   
      (Thơ của  nhà báo nữ đầu tiên Việt Nam, nữ sĩ  Sương Nguyệt Anh - Nguyễn Ngọc Khuê 1864- 1921, sinh tại Bến Tre, con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu )
                                      Bánh tráng Mỹ Lồng,
                                      Bánh phồng Sơn Đốc,
                                      Măng cụt Hàm Luông,
                                      Vỏ ngòai  nâu,  trong trắng như bông gòn,  
                                      Anh đây nói thiệt ,sao em còn so đo ?
                                      Bến Tre biển cá sông tôm,
                                      Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm  lúa vàng
                                      Bến Tre gái đẹp thật thà ,
                                      Nói năng  nhỏ nhẹ mặn mà có duyên.
                                      Bến Tre  nước ngọt lắm dừa,
                                      Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm.
                                      Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn,
                                      Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày.
                                      Xòai chua, cam ngọt Ba Lai,
                                Bắp thì Chợ Giữa,  mắm bày ( ven biển ) Giồng Khoai
                                 ( Ca Dao của ngon, vật lạ, con người Bến Tre )
                                
                                      Hò ơi… Đường về Ba Vác xa xôi
                                      Xin chàng dừng bước  cho tôi theo cùng.
                                        Bườm em chờ gió  Nam non        
                                        Đưa về Hương Mỹ, Chợ  Cồn, Hàm Luông
                      ( Hò sóng Tiền Giang, Lê Bảo Trân trích dẫn ở “Ba               Tri Giồng Giá quê tôi, 2006” )                         
                                 ...    Sông nước chảy,  thuyền trôi tắp tắp
                                        Buồm dăng dăng  sóng nước Ba Lai ...                               
                                        Chiều chiều lại nhớ  chiều chiều,
                                        Thương em, thương mãi, thương nhiều, em ơi !
                                        Sông Hàm Luông đưa lời non nước,
                                        Tình Cổ  Chiên sau trước còn đây …
   ( “Đường Về Quê Tôi” của Xuân Tước,  Đồng Nai - Cửu Long số 2- 2005)

     Phần I : Tổng quát về Bến Tre

           Vị trí
  Bến Tre nằm giữa  hai nhánh chánh của Sông Tiền ( Sông Trước )  và sông Tiền lại  là một nhánh chánh của sông Cửu Long. Ranh giới phía  Bắc tỉnh nhà là  dòng chánh sông Tiền chảy  ra Biển Đông ở Cửa Đại ;  còn nhánh  nhỏ hơn phía Bắc chảy ra Cửa Tiểu lại thuộc tỉnh Tiền Giang, kể cả các cồn-  cù lao giữa  hai nhánh Cửa Tiểu và Cửa Đại.  Trong khi phía Nam từ đầu tỉnh nơi ranh giới Bến Tre, Tiền Giang  và Vĩnh Long, lại có tên riêng là sông Cổ Chiên  chảy ra Cửa Cổ Chiên thuộc Bến Tre và Cửa Cung Hầu thuộc Trà Vinh. Giữa sông Tiền và  sông Cổ Chiên,  có hai chi lưu nhỏ hơn nữa chảy ngay giữa tỉnh là sông Ba Lai, chảy ra Cửa Ba Lai và sông  Hàm Luông chảy ra Cửa Hàm Luông.  Nhắc lại là tên Cửu Long ( chín Con Rồng ), quốc tế gọi là  Mê Kông là vì Sông Hậu ( Sông Sau ) chia ra ba nhánh chảy ra Cửa Định An, Cửa Bát Xắc( m  Bassac ) và Cửa Tranh ( Trần ?) Đề, thuộc hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Tọa độ  tỉnh là 10010’ vĩ tuyến Bắc và 106030’ kinh tuyến Đông. Diện tích  2 321.6 km2( 896.4 dặm Anh vuông ) là tỉnh  đứng thứ 10 về diện tích cuả 12 tỉnh ĐBSCL ( theo Niên giám Thống kê, năm 2002, diện tích Bến Tre chỉ lớn hơn Vĩnh Long 1 475 km2, Trà Vinh 2 215 km2 , lớn nhất là Kiên Giang  6 269 km2), nhưng dân số lại đứng hàng thứ 4, thứ 5.
Dân số Bến Tre năm 1995 là 1 281 nghìn người ; năm 2000 là  1305 nghìn và năm 2004 là 1346 nghìn; năm 2013  có thể trên 1400 nghìn. Đông nhất vẫn là tộc dân Kinh đa số, rồi đến  Khmer  Krom,  Hoa và một ít Tày.  Về hành chánh, Bến Tre nay chia ra làm 8 huyện : Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ  Cày Nam,Thạnh Phú  và thị xã Bến Tre.  Điểm trung tâm tỉnh cách TP HCM - Sài Gòn  86 Km, theo đừờng bộ lên Đông Bắc. Như vậy,  du khách từ Sài Gòn đi  bằng xe búyt hay xe mô tô phải qua  hai tỉnh Long An và Tiền Giang  trước khi đến Bến Tre.
     
            Địa hình, đất đai, khí hậu, thủy Văn

       Địa hình Bến Tre là một tổng thể bằng phẳng khó phân biệt  dạng chim ác là - pie shape ( xem hình kèm ), mỏ ở  nguồn trên  và các  nhánh chánh là sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, làm lắng đọng  những lớp trầm tích  phù sa qua nhiều  thế kỷ thành nhũng túi , cời than hình chim  trải dài đến Biển Đông, chia đồng bằng Bến Tre ra  làm 3 cồn đảo - cù lao rộng lớn:  Cồn An Hòa , Cồn Bảo và Cồn Minh.  Các nhóm đất  chánh Bến Tre là đất phù sa, đất mặn ít- trung bình và  một ít đất mặn sú vẹt. Phù sa ven sông  hình thành  ở địa hình cao, trên trầm tích sông, có phì nhiêu cao,  phần đầu phía Tây  Bến Tre của các sông  Tiền, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên. Đất ít mặn là phần phía Đông các sông này  đến tận các cửa.  Bến Tre có một ít đất mặn sú vẹt ở bờ biển  Cửa Đại, Cửa Ba Lai. Nên kể ra  đất cát giồng  thành hình do sóng biển và gió dồn cát lại, rải rác ở tỉnh nhà, là dấu tích  chứng tỏ đồng bằng tiến ra biển.  Các Giồng có  địa hình cao hơn  các vùng phù sa  chung quanh  và khác các đất cát giồng miền Trung là cát màu vàng  thay vì màu trắng   Đất Giồng thường cao ráo, dễ tiêu nước - thóat thủy là nơi tập trung nhiều làng mạc, trồng được  những cây ăn trái có rễ sâu. Địa hình  bằng phẳng  đôi khi xen lẫn các giồng cát cao hơn đôi chút là  vùng vườn  tượt,  trồng dừa và các  lúa nước.  Gần như không còn rừng  tự nhiên ở Bến Tre nữa. Ngang dọc  khắp  tỉnh là mạng lưới sông nhỏ hơn và kênh mương, cho nên Bến Tre  rất dễ bị  ngập lụt.  Viện Khảo Cứu Thay đổi Khí hậu của Viện Đại học Cần Thơ đã tiên đóan là 51 % tỉnh  sẽ bị ngập lụt, nếu mực nước biển tăng thêm 1m nữa. Trung bình, địa hình Bến Tre hiện nay, chỉ cao hơn mực nước biển 1. 25m. Khí hậu Bến Tre là  Gió Mùa Nhiệt Đới.  Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10  và mùa khô  từ tháng 11 đến  tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình từ 1250 mm đến  1500 mm. Nhiệt độ trung bình  là giữa 260C và 270C .  
      
        Suôi dòng thờì gian
     
      Năm 1679,  dư đảng của Trịnh Thành Công thời Minh mạt,  chiếm cứ Đảo Đài Loan chống nhà Thanh là Tổng Binh  Long Môn, một huyện  phủ Quảng Châu tỉnh Quảng Đông Trung Quốc  là Dương Ngạn Địch và phó tướng Hòang ( Hùynh ) Tiến cùng  binh thuyền, tướng sĩ do  Xá Sai Vân Trình và  Tướng Lại Thần Văn Chiêu,  theo lệnh chúa Hiền Nguyễn Phước Tần hướng dẫn , tiến vào cửa Lôi Lạp, theo Cửa Đại và Cửa Tiểu , đến định cư ở Mỹ Tho. Lập ra  Mỹ Tho Đại Phố, tàu thuyền lui tới buôn bán đông đúc; nhóm họp  nguời Miên, người Tàu và nhất là người Việt vở đất làm ruộng, chia lập trang trại thôn ấp. Như đã nói trên, phía Nam Cửa Đại là  đất Bến Tre ngày nay.  Sau 10 năm xây dựng, vùng này trở nên trù phú,  nhưng về mặt chủ quyền hầu như vô chủ. Năm 1688, với tham vọng muốn thóat ly khỏi uy lực nhà Nguyễn, Hòang Tiến giết chủ Dương Ngạn Địch ở Cửa Đại, tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn, sang đóng đồn ở Nan Khê, nay là Rạch Than- Bến Tre, thủ hiểm, đắp lũy, đúc đại bác, đóng thuyền chiến, thả quân đi cướp bóc. Chúa Nguyễn Phúc Trăn  sai  Mai Vạn Long, Nguyễn Hửu Hào và Trần Thượng Xuyên kịp thời dập tắt âm mưu Hòang Tiến cát cứ.  Năm  1689, chúa Nguyễn Phước Chu sai Nguyễn  Hữu Kính ( Cảnh ) vào Nam  Kinh lược, chia đất  Đông Phố, lập dinh Gia  Định ( Phiên Trấn) và phủ Gia Định. Đất Mỹ Tho  chưa trực tiếp thuộc quyền phủ Gia Định. Năm 1731, Chúa Nguyễn Phước Trú  buộc vua  Miên Nặc Tha ( So Tha II )  chánh thức  nhường ( tuy người Việt đã chiếm cứ khai khẩn ) hai tỉnh Me- Sa và  Long Hor (  đất Mỹ Tho và Vĩnh Long ngày nay). Trên đất  Long Hor, chúa  đặt châu Định Viễn, lập dinh Long Hồ.  Cả châu Định Viễn, dinh Long Hồ nằm phía hửu  ngạn  sông Cổ Chiên, cho nên  có thể nói là đất Bến Tre , phần tả ngạn sông Cổ  Chiên đương nhiên năm 1731  đã là đất  xứ Đàng Trong, không còn là vô chủ nữa.  Năm 1757, để được phong làm  vua, Nặc Nhuận ( Neac Ang Nhuan )  hiến cho  chúa Nguyễn Phước Khóat  đất  Trà Vinh - Praah Trapeng và Sóc Trăng- Srok Trang. Sau đó  Nặc Tôn nhờ chúa Nguyễn  giúp lên ngôi vua, dâng  đất Tầm Phong Long, phía Bắc Sóc Trăng là tỉnh An Giang.  Như vậy, miền đất  giữa hai sông Tiền và Hậu  ( Bến Tre, Trà Vinh ,Vĩnh  Long … )  và ở phía Đông dọc theo hửu ngạn  sông Hậu( Sóc Trăng … ), chánh thức thuộc về Chúa Nguyễn. Ninh Vương Nguyễn Phước Trú mở rộng dinh  Long Hồ, thêm 4 huyện: Long Xuyên-Cà Mau, Kiên Giang-Rạch Giá, Trấn Giang-Cần Thơ và Trấn Di-Bắc Bạc Liêu .
  Biết rỏ  ràng địa dư của miền Lục Tỉnh  thời xưa,  không ai bằng  chúa Nguyễn Phước Ánh. Theo Nguyễn Hửu Phước ( Đồng Nai - Cửu Long số 2 ), năm 1775, khi Phú Xuân - Huế thất thủ vào tay Chúa Trịnh, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng với cháu  là Nguyễn Ánh chạy thóat nạn  vào đất Gia Định, lúc đó là tòan thể đất miền Nam ngày nay.  Quân binh Tây Sơn  ( anh em  Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ nổi dậy từ làng Tây Sơn, Bình Định năm 1771 ) và quân binh Nguyễn Ánh, từ năm 1775 đến năm 1790, đã đánh  và chiếm Gia Định tất cả  6 lần. Mỗi lần  thất thủ Gia Định, Nguyễn Ánh bôn ba  chạy lánh nạn Tây Sơn, ẩn tránh ở nhiều vùng  khác nhau tại ĐBSCL.  Theo ông Nguyễn hửu Đức,  chúa Nguyễn Ánh đã từng lánh  nạn ở Bến Tre, có lần ghé qua đồng Tam Quản, xã Hiệp Hưng huyện Giồng Trôm, được Trương Tấn Bửu đưa ra Cù Lao  Đất, một cồn nhỏ giữa sông Hàm Luông trốn binh lính Tây Sơn. Năm  1803, dinh Long Hồ đổi tên là  Hòang Trấn. Năm 1804 đổi tên là dinh Vĩnh Trấn, nhập hai đạo  Long Xuyên ( Cà Mau ) và Kiên Giang  vào dinh Vĩnh Trấn. Năm 1908, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh, thăng Châu Định Viễn thành phủ Định Viễn. Năm 1832 đổi Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long Trấn.  Sau khi  tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng đổi  Trấn làm Tỉnh. Miền Nam  có 6 tỉnh là Nam Kỳ Lục Tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đặt chức Tổng Đốc để cai trị 2- 3 tỉnh và Tổng Đốc Long Tường  thống trị hai tỉnh Vĩnh Long và Định Tường. Năm 1850, vua Tự Đức  bổ nhiệm Nguyễn Tri Phương  làm Kinh lược Sứ  Nam Kỳ  và Phan Thanh Giản  làm kinh lược Phó Sứ. Phan Thanh Giản  đặt tổng hành dinh ở  Vĩnh Long. Phan Thanh Giản  là người sinh sống Bến Tre , người Miền Nam  đổ tiến sĩ đầu tiên kỳ thi Hội - Huế năm  1826; và năm 1863  được triều đình Huế  cử hướng dẫn phái đòan hơn 50 người, có Petrus Ký làm thông ngôn, lên đường sang Pháp, chuộc lại 3 miền Đông Nam Kỳ nhưng  việc không thành. Trương Vĩnh Ký là người biên sọan bộ tự điển Pháp -Việt đầu tiên, người đầu tiên  dùng chữ quốc ngữ ở địa hạt văn chương và cũng là người đầu tiên làm báo ở Việt Nam. Năm 1852,  ông Lương Đức Phụng được sắc phong của vua Tự Đức làm thành hòang làng Tường Lộc, ông Phụng đã ra công khai phá dọc theo sông Măng ( Mân ) Thít, sông nối liền sông Tiền và sông Hậu, thuộc tỉnh Vĩnh Long.  Một người em khác của Phụng khai phá lập ra làng Tiên Thủy  Hàm Luông , Bến Tre.  Nguyễn Tri Phương báo cáo năm 1853 là  đã chiêu mộ  dân Miền Trung vào  khai hoang, sau 1 năm đã thành lập được 124 ấp các tỉnh Nam Kỳ, trong đó  Vĩnh Long đuợc 60 ấp, không rỏ bao nhiêu thuộc Bến Tre.  Năm 1867, Pháp chiếm Vĩnh Long lần thứ hai. Phan Thanh Giản tuẩn tiết và 2 ngày sau, Pháp chiếm luôn thành Hà Tiên và thành An Giang. Ngòai Phan Thanh Giản, Petrus Ký  các danh nhân Bến Tre khác vào thời nay là  Võ Trường Toãn ( ? 1792 ) , không tham chánh nhưng là thầy dạy các học giả, hiền nhân như Ngô Nhân Tịnh, Trịnh Hòai Đức,  Lê Quang Định, Phan Thanh Giản và cả Petrus Ký nữa, cũng như “ông Già Ba Tri” cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu  và con gái là Sương Nguyệt Ánh - Nguyễn Thị Khuê ở những câu thơ nhập đề, Phan văn Trị ( 1830-1910 ) chống Pháp nổi tiếng nhờ  họa thơ chống đối Tôn Thọ Tường, theo Pháp\. Gần đây hơn, có lẽ nên kể đến nhà giáo Ca Văn Thính ( 1902 - 1987 ), nhà thơ Lê Ánh Xuân, họa sĩ Lê Văn Đệ, Nghệ Sĩ Ba Vân, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nhà điêu khắc Diệp Minh Châu .. và  “ nữ  tướng” Nguyễn Thị Định( 1920- 1992 ),  nguyên quán  xã Lương Hòa - huyện Giồng Trôm, gia nhập đảng Cọng Sản Đông Pháp từ năm 1930, đã bị Pháp bắt giam  năm 1940 ở nhà tù núi Bà Rá- tỉnh Bình Phước ( Phước Long cũ )  ngày nay. Ngày 26 tháng chín 1959, “ bà tướng Định” chỉ huy  “  đạo quân tóc dài” tấn công sư đòan 23 Việt Nam Cọng Hòa, giết chết 12 và làm bị thương 14 binh lính, khởi đầu cuộc Chiến Tranh Việt Nam ( ? ) (  theo Pringle “ The Quiet Town where the Việt Nam War began”, xuất bản năm 2004,  sửa chửa lại  năm 2010 ).  Sau khi chiếm trọn Miền Nam, Pháp  Nam Kỳ  Lục tỉnh thành  21 tỉnh. Riêng  Vĩnh Long  chia thành 3 tỉnh : Vĩnh Long,Trà Vinh và Bến Tre.  Sau năm 1975, Vĩnh Long và Vĩnh Bình nhập lại thành  tỉnh Cửu Long, một  phần quận Chợ Lách  cắt về Bến Tre. Nhắc lại là ở huyện Chợ Lách Bến Tre, ngày trước Trương Vĩnh Ký  đã từng đem  một số cây ăn trái  từ Mã Lai  về trồng như chôm chôm, măng cụt, li ki ma- cây trứng gà, sa pô chê;  và Pháp làm một con đường  chạy từ đầu Cù Lao Minh xuống Thạnh Phú  qua Chợ Lách, Mỏ Cày và Đôn Nhơn, nay là quốc lộ 57, chia đôi vùng đất đai Bến Tre, giữa  sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên. Tháng 12 năm 1991, Cửu Long  chia lại  thành  hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh như cũ.  Nhưng Chợ Lách vẫn thuộc Bến Tre, nay là một huyện của  tỉnh nhà.

Phần II: Luận Bàn về Phát triễn Bến Tre

           GDP  trung bình mỗi đầu người Bến Tre  chỉ đạt 90%  GDP trung bình của 12 tỉnh, 50% của tất cả  mọi tỉnh miền Nam, và khiêm tốn  chỉ bằng  30%  mức phát triễn Vùng Kinh tế  động lực- đặc điểm miền Nam. Tuy rằng GDP mỗi đầu người Bến Tre cũng đã tăng mạnh mẽ từ 151 $- USD( 1.69 triệu ĐVN)   từ năm 1991 lên 243 $USD ( 2.69 triệu ĐVN ) năm 1995 và 353 $USD (  5.01 triệu ĐVN )  năm 2000.  Mức sống dân gian tuy cải thiện, nhưng  hố khác biệt  giữa dân nông thôn và dân thành thị lại càng rộng thêm, từ 2.53 lần năm 1991 đến  4.1 lần năm 2000.  Không tương xứng  tí nào danh nghĩa   là xứ Đồng Khởi Cách Mạng, bà Nguyễn thị Định đã khai trương các năm 1959 - 1960.  Năm 2003,  tỉ xuất tăng GDP  là 9.03% cao hơn chỉ tiêu là  9%, và cũng khá hơn năm 1991, chỉ tăng 6.07 % và 6.16%  mỗi năm trung bình cho các năm 1996 -  2000. Năm 2012, GDP mỗi đầu người  Bến Tre là 1200 USD .  
      
         Nông Nghiệp
       
          Năm 2003, nông nghiệp còn chiếm đến 60% GDP, tuy thể tích đã trụt xuống so với hai lảnh vực công nghệ - xây cất và dịch vụ-thương mãi . Mức tăng nông nghiệp năm 2003 là 8%. Nhờ  mạng lưới sông - kênh dài hơn 500 km, Bến Tre giàu tài nguyên thủy sinh,  ngư sản ( tôm cá, ốc sò nghêu,  cua ghẹ ... nước ngọt , nước lợ nước mặn …   Đất đai phần lớn nhiều phù sa, Bến  Tre  góp phần tạo vựa lúa dự trử của Châu thổ sông Cửu Long lớn nhất nước và còn có nhiều lòai cây trồng khác phồn thịnh.   Tỉ như các vườn hoa -  cây kiểng - cây trái ở  Cái Mơn- Chợ Lách, Bình Đại - Giồng Trôm, mỗi năm bán ra hàng triệu  cây  con giống lòai  ăn trái và  hoa kiểng  đặc sắc. Vườn Hoa  Cái Mơn nay đã phát huy  ngành công nghệ trồng hoa mới mẽ, càng ngày càng đẹp, bán ra ở nhiều tỉnh nước nhà  luôn cả Trung Du, Tây Nguyên.  Nhưng đặc sắc nhất ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thanh, huyện Châu Thành là sản xuất cây“kiểng thú”,tạo ra đủ hình dáng long ( rồng ) - ly ( kỳ lân ) - qui ( rùa ) - phượng ( phượng hòang , chim trĩ ) cùng nhiều lòai động vật khác, cây-lá-hoa- trái các nghệ nhân, tay nghề lâu năm  chủ trì, điều khiển  cho mọc theo khung kim lọai, danh từ địa phương là thổi hồn vào các  dạng động vật  này khiến chúng sống động, hút dẫn …
    Không nên quên nông nghiệp Bến Tre còn trồng nhiều lúa trên đất nặng ( xem các bài về lúa ĐBSCL Hậu Giang , An Giang , Kiên Giang … ) , bắp - ngô trên đất cát , tuy rằng   ¾ đất Bến Tre còn bị  triều cường  đưa nước biển  tràn vào làm mặn, nên thường chỉ trồng được một  mùa lúa,  thay vì 2-3 vụ một năm. Về lúa Bến Tre đang cố gắng chuyễn qua các giống mới  gạo thơm và gạo cao phẩm cho  đòi hỏi thị trường Trung Quốc và gạo hấp - parboiled rice .  Năm 2002 ,chánh quyền  bắt đầu thực hiện đại công tác xây cất  Cửa Cống - floodgate Ba Lai quan niệm từ thời Pháp Thuộc và các thời Cọng Hòa .  Chắc nay đã hòan tất ?.  Cửa Cống ngăn  nước biển xâm nhập, thảy ra biển nước phèn ô nhiễm và giữ lại nước ngọt tưới tiêu  gần 20 000  ha ruộng ,vườn.  Lợi dụng đặc điểm thủy triều đẩy nước ngọt vào kinh, mương, vuờn, ruộng mùa kiệt, Bến Tre đã phát triễn thêm nuôi tôm, cá.  Ao hồ  Bến Tre nuôi cá  tra Pangasius   thâm canh năm 2013, chiếm trên  1823 ha trong tổng số 10 000 ha ở Việt Nam, trên cả ĐồngTháp ( 1080 ha )  An Giang( 558 ha) … Nuôi tôm cũng  tăng, nhưng nông dân Bến Tre đã chuyễn hướng qua nuôi tôm thẻ chân trắng  -vannamei shrimp thay cho tôm sú  - black tiger shrimp  vì thời gian nuôi tôm thẻ ngắn hơn  và năng xuất cao hơn. Sáu tháng đầu năm 2014 ?, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng  là 53 000 ha và sản lượng là  117 000 t. Trong thời gian này, diện tích nuôi tôm sú Việt Nam là 495 000 ha, giảm đi  10 % so với cùng thời gian năm 2013 , sản lượng tôm sú  là  106 000 t , giảm  5.5 % . Bến Tre dẫn đầu sản lượng tôm thẻ  ( 18 300 tấn ) , cao hơn  Trà Vinh ( 8 900 t ) , Bạc Liêu ( 8.2000 t ), Tiền Giang ( 5300 t ).  Tháng 11 năm 2009,  Quỉ Thế Giới Hoang Dã - World Wild Fund cho biết là nghêu  vỏ cứng -hard clam  Bến Tre  đã được cấp bằng chứng nhận khai thác vững bền tài nguyên biển.  Bến Tre có  65 km  bờ biển, hơn  4300 tàu đăng ký và hơn1500 tàu  đánh cá xa bờ. Sản lượng hải sản đánh bắt lên đến  300 000 tấn một năm.            
    Nhưng đặc điểm  lừng danh nông nghiệp Bến Tre Dừa. Bến Tre  là xứ dừa  - land of the coconut. Đất đai Bến Tre  thích hợp trồng dừa cao năng, nhiều trái, cơm dừa chứa nhiều dầu hơn các tỉnh khác. Năm 2011,Bến Tre  có 51 000 ha dừa, trong số này 41 000 ha, sản xuất trên 400 triệu trái dừa khô một năm ( trung bình một cây dừa Việt Nam là 70 trái một năm). Cây, trái dừa làm ra nhiều sản phẩm, từ thực phẩm và nước giải khát, chí đến  các vật dụng  trong nhà, các đồ nghệ thuật tinh vi và để xây cất  cửa nhà.  Tỉnh hiện có 70 doanh nghiệp  và 14000 cơ sơ tiện nghi  cho 50 000 nhân công,  chuyên sản xuất và biến chế các sản phẩm dừa . Hồ Vĩnh San, chủ tịch hội Dừa Bến Tre cho biết:  nếu bạn trái dừa  cho tiểu thương, thì chỉ thu vào  1100ĐVN, trong khi một trái dừa biến chế  xuất khẩu là 10 000 ĐVN, cho nên chế biến  trái dừa là một lợi nhuận kinh tế, thêm nhiều công ăn việc làm cho dân gian tỉnh . Nay Bến Tre  làm ra hơn 40 sản phẩm dừa,  từ khô dừa ( cơm dừa nạo phơi khô ), dầu dừa, bánh dầu dừa, xơ - fiber dừa đến kẹo dừa - coconut candy , thạch dừa -  coconut jelly.  Các sản phẩm này đã xuất khẩu  ra khắp thế giới: Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Căm Bốt, Lào, Hoa Kỳ, Pháp,  Canada  và Úc châu. Hơn 100 vật dụng nghệ thuật tinh vi từ cây, trái ,vỏ và thân dừa,  ngọai quốc rất ưa  chuộng.  Các sản phẩm dừa chiếm  chừng 50% tổng số xuất khẩu tỉnh. Bến Tre dự trù  tăng diện tích dừa trong tỉnh năm 2020  lên 53 000 ha, sản xuất trên 500 triệu trái dừa mỗi năm.  Thành lập những vùng  trồng dừa  cao sản  cốt cán ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành, Mỏ Cày và Giồng Trôm, theo tiêu chuẩn tiểu điền  diện tích 2- 3 ha, như “ Vua Dừa Bến Tre” Đổ Thành Thương,  gia chủ vườn dừa 2.5 ha  sây trái. Năm 2011, ông thu được  lợi tức gần  300triệu ĐVN ( trên 10 000 USD một năm ) . Các  tiểu điền dừa cao năng sẽ lên đến 20 000 ha năm 2020 , giữa hàng trồng ca cao và trên mương rạch nuôi tôm, đa canh với nhiều cây trái khác hay nuôi thêm gia cầm, gia súc …,   tăng lợi tức và chịu đựng được phần nào gía cả dừa  thăng trầm ( giá quốc tế cơm dừa sấy khô tháng chín 2011 là 2 730 USD/tấn, tháng 6 năm 2012  rớt xuống chỉ còn 1150 USD chẳng hạn,  khiến một số gia chủ đã phải đốn  bỏ dừa ) đều được chánh quyền hổ trợ . Vườn tuyễn chọn các giống ca cao xen kẻ hàng dừa lớn nhất  bộ Nông nghiệp thiết lập  ở  huyện Bình Đại, mỗi năm  cung cấp hơn 60 000 cây giống ca cao con để trồng cho 90 000 ha ca cao nước nhà dự trồng hiện nay.
       Miệt vườn Bến Tre còn là  nơi sản xuất  cây trái nổi tiếng. Tỉnh nhà  năm 2013, có 36 000 ha đủ lọai, tập  trung chánh ở các  huyện, nơi nào có  nước ngọt và nước lợ: xoài riêng , xoài, long nhãn ( nhiều nơi đã nuôi ong mật dưới các  hàng long nhãn ), vú  sửa , thơm- dứa- khóm … Nhắc lại là ĐBSCL tính ra có trên 300000 ha cây  ăn trái, mức xuất khẩu  trị giá  600 triệu USD mỗi năm.  Nổi bật nhất  là Bưởi Da Xanh, một trong 9 lọai trái cây đặc sản  nhãn hiệu nước nhà : Xoài Cát Hòa Lộc - Cái Bè( Tiền Giang ) , Quít ngọt Lai Vung ( Đồng Tháp ), Vú sửa Vĩnh Kim- Lò Rèn (Tiền Giang ), Xòai Riêng Cái Mơn ( Bến Tre )  v.v....   Trái Bưởi Da Xanh Bến Tre hình tròn, nặng trung bình 1.2 - 1 2.5 kg . Khi chín da trái  xanh hay xanh vàng lợt, rất dễ bóc vỏ và vỏ mỏng ( 14 - 18mm ). Thịt  tép múi màu đỏ, đỏ hồng, rất khít và cũng dễ bóc múi, nước cốt ngọt ( brix 9.5 - 12% ), không chua- đắng, thơm và rất ít hột ( nhưng đôi khi có thể đến 30 hột một trái ). Tỉ lệ thịt / trái  hơn 55 %. Bưởi Da Xanh xuất hiện lần đầu tiên có lẽ ở xã Tân Thạnh, huyện Mỏ Cày - Bến Tre, nhưng sau đó lan tràn qua nhiều địa điểm khác trong tỉnh nhà, dân dịa phương  tuyển chọn những dạng chiết trồng  đặc tính có phần khác biệt nhau đôi chút. Nhưng ngon nhất có lẽ là giống Bưởi Da Xanh ở  làng  Thạnh An ( ?) thị xã Bến Tre và  giống đăng ky BR 99 của ông Ba Rỗ( Đặng Văn  Rỗ ) ở huyện Mỏ Cày Bắc... Bến Tre trồng đến  3284 ha Bưởi Da Xanh, phân bố khắp mọi  nơi có nước ngọt hay nước lợ. Trung bình bưởi chiếm 32.26 %  diện tích vườn trái, năng xuất bưởi là 9- 14 tấn/ha. Trồng thành công  bưởi da xanh tương đối khó khăn:  phải biết rỏ giống tốt, cách lựa trái nhỏ trên đài hoa, săn sóc tỉ mĩ, bón phân kể cả các vi tính  tế nguyên ( bần tố ), trị bệnh, trị sâu…  kỷ lưởng v.v…                        

           Đồng Khởi Du lịch mạnh mẽ hơn, như Cách Mạng - Chính trị ( ? ) trước 1975 ?

      Bến Tre cần thực hiện mau lẹ hệ thống đường bộ và đường sông  thóat ly khỏi cô độc, ưu điểm thời chiến tranh nhưng  lại là khuyết điểm lớn thời bình, thời phát triễn kinh tế xã hội.  Bến Tre cần tập trung  cải tiến Quốc lộ  60  dài 35. 38 km  và nâng cấp  Quốc lộ  57 , dài 40,68 km thiết lập từ thời Pháp thuộc , từ  thị xã Vĩnh Long đến Giao Thới ( không chỉ đến Thạnh Phú ),   cho đúng tiêu chuẩn quốc gia hạng 4 ứng dụng cho đất đai bằng phẳng,  xây cho mau xong18  cầu bê tông  dọc theo đường.  Cầu Rạch Miểu từ thị xã Mỹ Tho qua thị xã Bến Tre , khởi công ngày 30 tháng 4 năm 2002 nay đã  xong, đúng là đã làm cho Bến Tre bớt  cô độc từ  xưa rày, hội nhập phát triễn  kinh tế, xã hội được với các tỉnh của ĐBSCL, đồng thời cũng tăng cường  quốc phòng và an ninh vùng. Không rỏ cầu Hàm Luông trên đường 60, từ thị xã  Bến Tre qua  đến thị trấn Mỏ Cày  rồi thị xã Trà Vinh  đến Tiểu Cần, vượt sông Hậu đến Đại Ngãi,  thị xã Sóc Trăng... nay đã xong  chưa  ? Các đường tỉnh lộ đang được  nâng cấp là: tỉnh lộ PR 883 dài 58.33 km, PR 884  dài  24.4 km, PR 885 dài  45,40 km, PR 886 dài  65.3km, PR 887 dài  93.1 km, PR 888 dài 48,32 km. 16 đường huyện như PW  14. PW  18 … cũng đựợc sửa sang. Cũng như các hương lộ, liên xã  trong tỉnh được nâng cấp, tu chỉnh hay làm đường mới theo nhu cầu phát triễn  nông thôn. Trong vòng 10 năm tới,  Bến Tre dự tính xây thêm 7-8 phà - ferry mới  gồm  các phà Tân Phú,  Hưng Phong, Tam Hiệp , Mỹ Hưng,  đặc biệt là phà Cổ Chiên  nối quốc lộ 60 từ Mỏ Cày-Bến Tre đến  tỉnhTrà Vinh,  và phà Đình  Khao nối quốc lộ 57 từ huyện Chợ Lách -Bến Tre đến  tỉnh Vĩnh Long. Một cảng sông sẽ được xây dựng ở xã Phú Túc  hửu  ngạn sông Mỹ Tho cho tàu trọng tải 3000- 3500 tấn có thể cập bến, dung tích 1.2 triệu  tấn hàng hóa một năm .
    Trước tiên  là  thăm viếng xưởng làm kẹo dừa, phía trước bán kẹo, phía sau  là xưởng ở thị xã Bến Tre, tỉnh lỵ tỉnh xứ dừa nước nhà. Thị xã có 4  xưởng, phụ nữ- đàn bà  làm kẹo dừa, toàn bằng tay. Một xưởng  ở số 212B Đại Lộ Đồng Khởi và bên kia đường là xưởng kẹo thứ hai.  Nhờ có cầu Rạch Miễu  hoàn thành đã 5 năm, nay có thể đi xe buýt, xe tắc xi qua cầu Rạch Miễu, nối thị xã Mỹ Tho và thị xã Bến Tre,  cách nhau chừng  10km.  Dịch vụ  xe buýt  mini trực tiếp - direct mini bus,  từ TP Sài Gòn - HCM nằm ở trạm  ga  buýt Miền Tây và Chợ Lớn.  Lưu ý  là khi đến Bến Tre, nên xuống xe ở  đường vòng quanh,  sau hai cầu lớn  và  nhà hàng  bán Mắt Kiếng  Điện Biên Phủ,  vì búyt còn chở tới trạm ngoại ô; rồi lấy xe tắc xi  hay xe mô tô ôm đến trung tâm thị xã. Búyt tư nhân Thịnh Phát , nằm ở số 25A đường Sư Vạn Hạnh,  phường 9 ,quận 5 TP HCM,   cứ 1 giờ có một chuyến từ 7 giờ sáng  chở du khách đến bất cứ nơi nào ở thị xã , giá chỉ  75 000 ĐVN .  Hay qua phà Rạch Miểu ở Mỹ Tho, cứ 20 phút có một chuyến suốt ngày đêm, rồi lấy xe ôm  đưa đến trung tâm Bến Tre.  Cũng có phà  từ tỉnh Vĩnh Long đến phía Tây Bắc Cù Lao thuộc Bến Tre  và phải cần phương tiện chuyên chở khác mới đến được thị xã Bến Tre. Thị xã trải dài trên sông. Xe đạp hay xe mô tô có lẽ là cách tốt nhất  thăm viếng, đặc biệt khi có dự liệu  thăm viếng các vườn cây trái  khá xa trên sông. Ngòai các xưởng kẹo dừa, có thể tham quan Chợ ( cũ ) Bến Tre , không mấy thay đổi từ thời Pháp thuộc và Xưởng làm rượu  gạo -nếp ở bờ sông phía Nam, cách cầu cũ 0.5 km phía Tây. Quanh Chợ  có nhiều quán hàng ăn, món ngon nhất  có thể là hủ tiếu nhưng thường chứa lòng, ruột gan nên cần lựa chọn. Gần cầu cũ, có nhà hàng nổi. Muốn ăn điểm tâm bánh ngọt ngon, rẽ tiền  thì đến nhà hàng Coop Mart ngay sau đường Hai Bà Trưng. Cơm gà và tôm xào ở  tiệm Nam Sông, cũng đáng thưởng thức.  Bia  đá lạnh  nhất Bến Tre là ở tiệm Oasis, đóng cửa 9 giờ rưởi đêm.  Câu lạc Bộ  phổ thông nhất là Club 007, nhưng quá ồn ào và chỉ náo nhiệt cuối tuần. Khách sạn  Hàm Luông Hôtel  ở số 200 đường Nguyễn văn Tư  là khách sạn tốt nhất và  kỳ quặc xa xỉ  nhất tỉnh, có hồ tắm bên ngòai, nhà  tắm hơi, chỉ xếp vào hạng ba sao. Mọi phòng ngũ đều trang trí Internet  cáp, ti vi kênh nói tiếng Anh- Ăng Lê, máy lạnh; điểm tâm búp phê ở đây là một lẫn lộn  giữa thực phẩm Á Đông và Tây Phương … Khách sạn Đồng Khởi số 16 đường Hai Bà Trưng, phường 2 , thị xã Bến Tre , phía Bắc hồ Trúc Giang, có nước nóng ngọai trừ các phòng rẽ tiền nhất, wifi tự do, tiệm ăn, karaôkê, xoa bóp và lạ lùng  giá  hạ sẽ thấp  nếu nhận phòng  sau 4 giờ chiều.  Khách sạn Đại An Hotel, cách Chợ  trên sông chừng 1Km , đối diện  Oasis Hotel   bên kia sông, moọi phòng  đều sạch sẽ  và  yên  tĩnh,  có nước nóng, máy lạnh, wifi mạnh mẽ,  một ban công nhỏ, ti vi  kênh Ăng Lê, bar mini, cung  cấp khăn mặt và đồ rửa ráy trang điểm - toiletry, dọn sạch phòng mỗi ngày.  Gần đó có 2 tiệm cà phê  và xa hơn tí nữa là  các tiệm địa phương  cống hiến nhiều lọai xúp mì. Oasis Hotel  ở số 151 đường Mỹ Thạnh An  có wifi tự do, hồ tắm, nói ba thứ tiếng Anh- Khmer - Việt, bia lạnh, tường tận về tông tích địa phương, đúng làm hướng dẫn  số một cho ai  tham quan tỉnh… Nếu muốn qua lịch sử Bến Tre ,thì viếng thăm Viện Bảo Tàng Bến Tre Museum, ở số  146 đường Hiền Vương  phường 3 thị xã . Viện bảo tàng này  xây cất theo kiến trúc cổ điển Pháp,  cách đây gần 100 năm, một di tích lịch sử hiếm có tỉnh nhà. Viện Bảo Tàng Bến Tre,  thiết lập năm 1981, trên một diện tích 14 000m2,  gian triễn lãm chiếm 474 m2, chánh quyền hiện hửu đề cao ( có khi quá đáng ) các hình ảnh  và kỷ vật qua hai  cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ - Cọng HòaViêt Nam  của dân quân Bến Tre.  Tầng dưới  gồm 3 phòng : các di tích ( cả thảy là 20 được  Bộ Văn Hóa  và Thông tin xác nhận, trong đó 14 là quốc gia và 6 là tỉnh nhà);  các danh nhân đất Bến Tre  theo quan điểm chánh quyền; các họat động cách mạng thời gian 1954 - 1960 . Tầng trên ( ? ) cũng gồm 3 phòng: thời Đồng Khởi  các năm 1960 và 1964, cuộc chiến  đấu thời gian 1964 -   1968 và từ cuộc  nổi  dậy Tết Mậu Thân 1968  đến “Tòan Thắng mùa Xuân” năm 1975.                        
     Những di tích lịch sử khác ở Bến Tre   là Nhà Cổ Truyền Đồng Khởi ở  huyện Mỏ Cày, nôi phong trào Đồng Khởi và di tích bải biển miền Bắc xâm nhập đánh miền Nam  tại huyện Thạnh  Phú dọc theo bờ sông Cổ Chiên  tục gọi là Đường Mòn Hồ ChÍ Minh  theo Biển - Ho Chi Minh Trail by Sea hay  ở huyện Ba Tri, bia mộ của cụ Nguyễn Đình Chiểu, bênh  cạnh mộ vợ  và con gái: bà Nguyễn Thị Khuê, bút danh Sương Nguyệt Ánh. Cuối cùng có thể viếng Chùa Ông Đạo Dừa ở Cồn Phụng, húy danh của kỷ sư Nguyễn Thành Nam, tu luyện trên cây dừa và đặc biệt trước đó nuôi chuột chung với mèo, tượng trưng tham vọng “Hòa Giải” ( ? ) dân tộc  đã không xảy ra, không mấy ai theo lúc đó !.

        Công nghệ  cũng phát triễn  không Đồng Khởi  như nông nghiệp   

        Đến năm 2012, Bến Tre chỉ mới hòan thành 2 Công viên công nghệ- Industrial Parks, IP  trong khi cả nước đã  hòan tất  289 công viên, diện tích tổng cọng là  81 500 ha. Đó là công viên Giao Long và An Hiệp. Đến năm 2020, Việt Nam dự trù làm thêm 212 IP nữa, tổng diện tích là  120 - 130 000 ha . Bến Tre  chỉ dự trù làm thêm 5 IP: Giao Long II, An Hiệp II, Thanh Tân, Phước Long  và Giao Hóa ( ? ). Diện tích trung bình mỗi công viên  là 200 ha. Công nghệ  đầu tư ở các IP Bến Tre  là chế biến nông hải sản. Tỉnh hiện chỉ mới chế biến 30 % nguyên liệu  nông hải sản tỉnh. Chẳng hạn  ở IP Giao Long, Công Ty Puratos Grand Place Viêt Nam  chuyên môn làm bánh mì, bánh ngọt và sô cô la, cuối năm 2013, khai trương xưởng  lên men hột ca cao đầu tiên nuớc nhà. Mức đầu  tư tổng cọng là 4 triệu đô la Mỹ, chế biến 1000 tấn ca cao/năm.       …


                      ( Irvine, Nam Ca Li ngày 18 tháng 7 năm 2014 )