Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

10 nhà khoa học và kỹ sư lỗi lạc Hoa Kỳ năm 2013

10 Nhà Khoa Học và Kỹ Sư Lỗi Lạc Hoa Kỳ năm 2013

                   G S Tôn thất Trình



     Mỗi năm vào số tháng 10, nguyệt san Khoa Học Phổ thông – Popular Science  nêu danh  10 nhà khoa học và kỷ sư trẻ tuổi  xuất sắc nhất theo quan  điểm nguyệt san, gọi họ là Mườì Người  Lỗi Lạc, Sáng Chói– the Brilliant Ten .  Năm nay 2013, cũng như 110 người các năm trước, họ đang  định dạng lại một cách kịch tính,  những lảnh vực họ làm việc và tương lai các lảnh vực này.  Vài người tóm lấy những câu hỏi thực tiễn, tỉ như cách nào  bảo đảm Internet, trong khi những người khác  tấn công những câu hỏi  trừu tượng hơn, tỉ như qui định thời tiết ở những hành tinh ngọai thiên hà – exoplanets xa xăm .  Sợi chỉ cột chung họ  là sự lỗi lạc, lẽ dĩ nhiên rồi,  những cũng  nên thêm các phần ảnh hưởng nữa.  Nếu như  10  người lỗi lạc này là những bộ mặt cho những điều sắp tới, thế giới sẽ là một nơi an tòan hơn , thông minh hơn,  và chói lọi hơn.  

    1- Nicolas  Fontaine, ở các  La bô Bell và Alcatel – Lucent, cố cứu sống Internet



        Hầu như  mọi  dữ liệu truyền thông – Web , điện thọai , ti vi – đều chạy xuyên qua một mạng lưới  cáp quang học – fiber-optic cables.  Đến nay như vậy là tốt đẹp.  Nhưng trong vòng 10 năm tới,  giao thông dữ liệu  sẽ  tăng trưởng mạnh hơn hạ tầng cơ sở, thành quả sẽ làm cho những truyền đi  chậm lại và bị cắt xén, xuyên tạc . Nicolas Fontaine, một kỷ sư quang học ơ La bô Bell Alcatel- Lucent , đã họa ra kiểu  con đường thông minh tránh được  lối đi  cản trở dữ liệu này .

      Fontaine và các đồng nghiệp sáng chế ra một lọai mới mẽ  bộ đa lộ- multiplexer  . một kinh kiện  bó lại những đường vào – inputs thành một dòng – stream  để nhồi nhét chật ních  nhiều dữ liệu hơn  thành một sợi quang học duy nhất. Nó họat đồng bằng cách    tụ tập những luồng ánh sáng khác nhau gọi là  những mốt – modes  dọc theo những lối mòn  dự tóan kỷ lưỡng ; các luồng thông tin du hành  cùng nhau nhưng không giao thoa với nhau.  Fontaine nói : «  sợi cũ xưa sẽ chỉ là  xa lộ chỉ có một lằn. Nay chúng tôi có thể thêm thành  xa lộ nhiều lằn » .  Linh kiện đa bộ của Fontaine   tránh khỏi mất tín hiệu  làm què quặt – tê liệt  những linh kiện trước đó ; ông cho thấy là linh kiện đa bộ của ông có thể gửi đi  6 luồng ánh sáng  trên 492 dặm Anh ( gần 900 km ) sợi quang mà không mất dữ liệu dọc đường.   

        Trong khi những đa bộ trước  kích thước một bộ khối – cubic foot ( 0.028 m 3)  hay lớn hơn , đa bộ của Fontaine chỉ  là  50 mm3 .  Vì nó làm bằng gương và khăc mòn – etched bằng laser, sản xuất nó sẽ rất rẽ. Linh kiện còn có thể vẽ theo tỉ lệ. Fontaine cho biết,  hiện nay đang họat động  kiểu linh kiện  10 - mốt,  một thứ tự độ lớn trên sợi mốt – duy nhất. Fontaine muốn hình dung là  đã đi xa được bao lăm.

      2- Scott Collis , ở La Bô Quốc gia- Hoa Kỳ Argonne,  thu hoạch những dữ liệu mới  để cải thiện các kiểu mẩu khí hậu.  



         Những đám mây  là một trong  thách thức lớn  cho các nhà khoa học khí hậ  Chúng đóng một vài trò phức tạp  trong khí quyễn và trên màn kịch của bất cứ  một thay đổi tiềm năng khí hậu nào.   Nhưng dữ liệu sơ khai  đã đơn giản hóa vai trò của chúng trong các bắt chước – simulations, dẫn tới những biến thiên giữa các mô hình  khí hậu.  Scott Collis khám phá ra một cách thêm xác đáng  các tiên đóan khí hậu tương lai bằng cách  gom lấy những nguồn mới dữ liệu mây.

      Collis co kinh phiệm rộng rải  xem xét các đám mây, trước tiên là một kẻ vui chơi ván trượt tuyết – ski bum lúc học cao học ở Úc Châu và sau đó là một nhà khí tượng học chuyên nghiệp .  Nhưng khi ông nhận việc  ở Trung tâm Thời tiết và Khí hậu  Úc , ông nhận thức  là có một nguồn dữ liệu đám mây bao la mà các nhà làm mô hình khí hậu không dùng : thông tin  thu thập cho các tiên đóan thời tiết .Cho nên Collis  đã nhận đảm trách  to lớn là xây đắp những khí cụ đường vào mở rộng,  chuyễn hóa các dữ liệu nguyên sơ từ những căn cứ dữ liệu rađar thành những hình lọai,dạng khổ – formats các nhà làm mô hình khí hậu có thể sử dụng .  Theo một cú đập , Collis đã mở khóa nhiều năm  dữ liệu thời tiết.  Collis nói:  chúng tôi có khả năng xây đắp những algorithms lực lưỡng  họ có thể họat động trên hàng ngàn thể tích radar mà không hề có con người can thiệp tới.

         Khi  bộ Năng lượng Hoa Kỳ đón gió được  dự án Collis,  Bộ tuyễn dụng ông để họat động với một  mạng lưới radar mới họa kiểu ra để thu thập  dữ liệu mây cao phẩm từ khắp nơi trên thế giới.  Mạng lưới, lớn nhất theo kiểu lọai nó, chưa hòan tất , nhưng dữ liệu Collis và các cọng sự viên đã thu thập đang cải thiện những mô hình khí hậu thế hệ kế tiếp .

       3- Mya Breitbart , ở Viện đại học South Florida,  thực hiện  tức thời làm đồ bản những hệ gen – genomes  của  tòan thể một  hệ thống sinh thái.



        Viruses là nhữ ng thực thể đông đảo nhất ở hành tinh chúng ta và cũng là một trong số bí hiểm nhất . Mya Beitbart, nhà sinh thái học vi trùng tại Viện đại học South Florida  đã hình dung cách nào  giải mã mau lẹ chúng là gì và chúng đang làm gì.

         Thay vì cách ly  lòai virus cá  nhân từ một  mẩu – có đến 10 tỉ viruses trong một lít nước biển- Breitbart  chiết trích mọi vật liệu di truyền hiện diện , chặt chúng thành những mảnh nhỏ  và làm trình tự - sequence cùng một lúc các mảnh này. Kỷ thuật bà tập hợp vào  những trò đố  đa dạng  cùng lúc, giúp bà nghiên cứu ngay tức thì  toàn thể cộng đồng .  Theo Curtis Suttle,  nhà virus học biển của Viện đại học British Columbia,  phần bà đóng góp là chủ yếu  là việc  lột mặt nạ của  số đa dạng virus khổng lồ trên hành tinh . Thể thức  Beitbart đã  khơi mào một nhánh mới ngành sinh học,  tên gọi là siêu  hệ gen học – metagenomics  trong đó các nhà khảo cứu sử dụng làm  mẩu và làm trình tự  vật liệu di truyền trực tiếp từ môi trường.

        Mới đây , Beitbart  đã tìm ra một nguồn mới viruses :  muổi ,  bướm trắng- white flies và chuồn chuồn thu lượm ăn tối – và các mầm bệnh – từ nhiều nguồn thực phẩm khác nhau. Bà nói :  Chúng tôi  gọi chúng là « ống kim chích biết bay » . Làm mẩu những viruses chúng mang theo, có thể giúp bà dò ra  rất sớm các mầm bệnh . Bà thêm : «  thường bạn phải chờ đợi một bùng nổ - đột khởi và hình dung ra  nguyên nhân là virus nào gây ra.  Như vậy giúp ta một cách tìm ra những điều, trước khi chúng trở thành một vấn đề to lớn. »  

           4- Pedro Reis, Viện  Kỷ thuật Massachusetts-MIT,  dùng thất bại để họa kiểu những vật thể mềm dẻo, dễ uốn.   



         Ngay ngày đầu tiên lớp học, các kỷ sư  được dạy là họ phải tránh  sử dụng các vật liệu  có thể rách , bẻ cong , xếp lại hay  cài lại . Nói một cách khác: chống lại thất bại  chứ không ôm chồm nó . Pedro Reis hỏi :   vậy chớ đó có phải là những tình trạng   trong đó sự bất ổn cơ học, biết rỏ và  tối hảo cẩn thận, có thể dùng  chế tạo một cái gì tốt đẹp hơn không ?   Như họat động của ông cho thấy giải đáp là một  nhấn mạnh ừ phải .

          La bô  của Reis ở MIT  trông như một phòng chơi  hơn là một nơi làm việc.  Phòng rắc đầy  những vật thể  giống các đồ chơi tỉ như những cầu tròn nghe lóp bóp  xếp lại và sụp đổ vàcác thanh silicone  uốn quăn và bẻ cong.  Trong các sơ sót này Reis nhìn thấy  sức mạnh:  căn bản cho các rôbốt mềm , nhanh nhẹn và các mối hàn  chế biến từ một mảnh  vật liệu duy nhất.  Ông cũng gặt mót các bài học từ hiện tượng bình thường rồi đem áp dụng chúng vào công việc ông làm.  Sau khi nghiên cứu cách nào   dải băng  xé rách thành tam giác khi bóc ra từ cuộn băng, Reis và các đồng nghiệp  sáng chế một phương thức mới  chế tạo ra các  dải băng nanô graphene.

         Theo Chiara Daraio, nhà khoa học vật liệu  và là kỷ sư ở  Caltech  và ETH Zurich cũng là một trong 10 Người Lỗi Lạc nêu danh năm 2010 , xuyên qua công trình  của ông , Reis đã học hỏi những nguyên tắc cơ bản  cho ngành cơ học hàng ngày- chẳng hạn ,  cách nào con mèo liếm nước, cách nào chúng ta  nạo vét bơ,  hay cách nào tóc quăn lại- và chuyễn các hiểu biết này  vào những giải pháp cho các vấn đề công nghệ - ngành kỷ sư. Sau mê gần đây nhất của Reis là những vật liệu hết sức mỏng- một ngáo ộp ( sợ hải không căn cứ )  cho đa số kỷ sư.  Reis nói : «  Nơi các điều trở nên mỏng thín,  chúng trở thành đáng thích thú.

5-      Heather Knutson , ở  viện kỷ thuật California,  thực hiện cách nhìn thời tiết những hành tinh ngọai thiên hà xa xăm.



             Những năm gần đây,  các nhà khoa học đã khám phá  ra hàng ngàn hành tinh bay quanh quỷ đạo các ngôi sao  xa xôi.  Heather  Knutson , nhà thiên văn học Caltech mất hết  ngày,  hầu  hình dung một nhà du hành vũ trụ  cần dùng gì cho chuyến đi của mình.   Tựu trung , bà là một nhà thời tiết học  đầu tiên cho hành tinh ngọai, qui định nhiệt độ địa phương, thời tiết và luôn cả thành phần khí quyễn.

           Để nghiên cứu  thời tiết hành tinh ngọai, Knutson  phân tích  độ sáng chói hồng nội  bề mặt hành tinh ngọai.  Các phát thải  hồng nội sáng hơn,  có nghĩa là các khí khí quyễn của hành tinh nọai nóng hơn lên, trong khi các phát thải mờ đi chỉ dẫn là nhiệt độ lạnh hơn .  Ghi đồ bản dạng sáng chói  giúp Knutson tạo ra một bản đồ những nhiệt độ kinh tuyến của hành tinh ngọai, bà sẽ dùng nó  để can thiệp vào các mô hình thời tiết . Nhiệt độ đồng đều có nghĩa là khí quyễn hành tinh ngoại đầy gió thổi.  Hơn nữa, vị trí các vùng nóng và lạnh  chỉ dẫn  là các gió  thổi mau hay chậm ở một vùng đặc biệt nào đó.
       Cho đến nay, Knutson chỉ mới nhìn xem các hành tinh lớn, đầy khí đã biết như Sao Mộc – Jupiter  nóng hổi, bay gần  quỹ đạo các ngôi sao chúng. Rất nhiều  hành tinh này có những khí quyễn  khác hẳn  các khí quyễn tìm thấy ở hệ thống mặt trời chúng ta ; ít nhất là một hành tinh có các đám mây  làm bằng kim lọai  chỉ tìm thấy trên đá Trái đất. Trong tương lai, bà muốn  nới rộng kỷ thuật để nhìn vào những hành tinh nhỏ hơn , lạnh hơn  - những siêu Trái Đất phần lớn đầy đá, vài hành tinh có lẽ đủ lạnh để chứa nước thể lỏng.  Bà nói : «  phần thích thú là tìm ra những điều làm cho tôi ngạc nhiên và ở lảnh vực này  không khó lắm đâu. ».

6-      Feng Zhang ở MIT và Viện Broad Institute,  thực hiện thay đổi  một tế bào hệ gen  trên ruồi .



           Khi Feng Zhang  học trường Cao Học, ông khám phá  ra là các khí cụ dùng cột ( nối ) những gen( es ) mới váo các tế bào sinh sống rất tốn kém, mất thì giờ và quyền sở hửu riêng. Không bằng lòng thực tế này,  ông đã làm ra điều mà một kể nhiệt thành  nguồn mở mạo hiểm  sẽ làm ; nghĩa là  ông tự tạo những khí cụ và chia sẽ chúng với các nhà khoa học khác. Họ đã gia tốc đáng ngạc nhiên nghiên cứu di truyền học và bệnh tật.
         Những kỷ thuật Zhang giúp phát triễn  tên gọilà TALE và CRISPR tạo ra những  sinh vật chuyễn gen – transgenic hay là  được thay  đổi di truyền  với hửu hiệu chưa bao giờ thấy.  TALE là một phân tử  chộp lấy  ở trong một  tiết diện ( chia cắt )  của DNA  và ảnh hưởng tới  cách nào một gen gần đó  mở ra hay tắt đi .  CRISPR  căn cứ trên một enzym vi trùng  cắt bằng kéo  DNA   để đưa vào vật liệu di truyền mới.  Sử dụng những phương pháp này, Zheng  có thể làm ra một con chuột chuyễn gen trong 3 tuần lễ ( các phương pháp bình thường đòi hỏi hơn 6 tháng để thực hiện kỳ công này ) .  Gần 2000 la bô đã yêu cầu thông tin  chỉ riêng về CRISPR, kể từ khi  nó được kể ra ở một xuất bản tháng giêng 2013. Zhang nói: «  Những kỷ thuật này  chủ yếu , cơ bản đến nổi  tốt hơn hết là giữ chúng mở  càng rộng càng hay. Nếu ai đó muốn bảo vệ ngôn ngữ HTML  để làm ra các trang Web , thì chúng ta sẽ không bao giờ có www – world wide web cả.

          Zhang dự tính dùng các kỷ thuật này để nghiên cứu  di truyền học bệnh  ôtidơm- autism  ( bệnh tự vùi mình và cảm nghĩ mình )  và điên lọan – schizophrenia . Ông  đã bắt đầu  nhét gen ( es )  nối kết  với mỗi bệnh này , từng gen một,  vào các kiểu mẩu động vật hầu quan sát ảnh hưởng của chúng.   Nay, theo lời ông, khi đã có các dụng cụ rồi,  phần còn lại của công trình có thể  khởi sự.

7-      David Schmale , ở  viện Virginia Tech , thực hiện theo dấu các vì trùng không khí đem lại – airborn  với máy bay drones- không người lái.


            Nhà sinh học không khí Aerobiologist David Schmale  săn bắt những sát nhân – killers .  Schmale là phó giáo sư – associate professor an tòan thực phẩm  và an ninh sinh học thực vật ở Virgina Tech,  gửi các drones  chứa các đĩa Petri vào khí quyễn  để chụp bắt  các mầm bệnh trong không khí .  Dữ liệu ông thu thập giải thích cách nào  các mầm bệnh cỡi  trên các dòng gió thổi và cung cấp một cái thóang nhìn  vào một hệ thống sinh thái  chưa biết,  xa  xăm trên đầu chúng ta.

              Schmale phát triễn các xe  bay trong không khí không người lái  cùng một đồng nghiệp  Virginia Tech, như là một thay thế cho các chuyến bay khảo cứu có người lái quá đắt tiền. Với những dữ liệu  ông thu thập được cho đến nay, Schemale đã xây đắp một kiểu mẩu, mô hình  di chuyễn khí quyễn,   cho thấy những tiết diện lớn không khí  truyền xuyên qua  bề mặt của hành tinh như thể  các làn sóng qua một đại dương, chuyên chở bụi bặm và vi trùng  hàng ngàn dặm Anh . Schmale nói:  vi trùng có thể di chuyễn qua các đại lục và nhảy vọt qua các đại dương  chánh . Ông dự tính thích nghi mô hình của ông để tiên đóan sư di chuyễn các mầm bệnh thực vật, giúp các nông trại tiến hành trước bảo vệ mùa màng của họ bằng cách mô tả nơi nào cần phun thuốc trừ sâu bệnh một cách chiến lược.

         Schmale nghĩ rằng vi trùng  có thể  cởi  nhờ  các đám mây, cũng như  trôi theo gió thổi, cho nên ông đã gửi  các drones của ông đến các nơi đó để lấy mẩu. Nếu các đám mây  cung cấp  những kho dự trữ vi khuẩn và khuẩn – nấm , động lực đã rất phức tạp cho các vi sinh vật bay bổng trong không khí , còn có thể rối rắm hơn là  chúng ta tưởng trước đây .   

8-      Arjun Raj , ở viện đại học Universityof Pennsylvania hòan tất tiết lộ  các họat động bên trong tế bào .



   Mỗi tế bào trong thân bạn đều có DNA như nhau.  Nhưng cách nào các gen(es )  của một tế bào biểu hiện và có thường xuyên không qui định  là tế bào sẽ thành nơ ron - neuron ( dây thần kinh )  hay một tế bào cơ tim –  cardiac myocyte ,  nó lành mạnh hay bệnh họan.  Arjun  và các cộng  tác viên ở viện đại học Pennsylvania sáng chế ra  một kỷ thuật  theo dấu biểu hiện – expression  gen  này và các ảnh hưởng của nó.

     Cũng như khi biên lai nhận tiền một tiệm tạp hóa  cho thấy thực phẩm  nào phổ thông nhất, các phân tử RNA, mang theo thông tin  di truyền từ DNA, tiết lộ gen nào mở ra và cách nào chúng thường tích cực.  Hầu theo dấu  một sợi RNA đặc thù , Raj ngâm   tắm một tế bào có những khúc DNA huỳnh quang.  Những khúc này nối chặc RNA ở nhiều vị trí khác nhau , xếp hàng dọc  theo các vị trí như thể đèn Giáng Sinh trên một mái nhà , và thấy rỏ ràng qua một kính hiển vi.

      Sử dụng kỷ thuật này, Raj tìm thấy  là các tế bào y hệt nhau trên phương diện di truyền  không đương nhiên phiên mã – transcribe gen ( es )  ở một tỉ xuất giống nhau.  Ở vài trường hợp,  cac gen mẹ thường được phiên mã  hơn là các gen cha.  Khi một nhiễm sắc thể đựợc chặt ra làm nhiều  mảnh và được tập hợp lại , như thường xảy ra ở ung thư, ngay cả những gen không bị hư hại  cũng được biểu hiện ở những mức độ khác hẳn tại một nhiễm sắc thể bình thường.  Raj cũng khám phá  là trên các con sâu phương diện di truyền y hệt nhau,  những mức độ phiên mã gen  khác nhau có thể nghĩa là khác biệt giừa một đời sống bền lâu và một chết chóc sớm.  Raj nói: « điều tôi thấy thật sự  hứng khởi  là điều chúng ta không biết cái gì chúng ta sẽ nhìn thấy. »  Nhưng nay,  các nhà sinh học tế bào có thể nhìn những sự cố tế nhị như thế  và họ có thể bắt đầu nghiên cứu tại sao sự cố đã xảy ra.

9-      Justin Cappos, ở  Viện  Kỷ thuật bách Khoa Polytechnic Institute,   bang New York,  tạo ra một phương cách mới làm tính tóan kiểu đám mây .



  Justin Cappos có thể đi vào Internet từ bất cứ nơi nào trên thế giới – một computer để bàn – desktop ở Ethiopia, một điện thọai android ở Pháp,  ngay cả một bảng ( computer ) nhỏ - tablet trên một đảo ngòai khơi Bắc Cực, mà vẫn  ngồi ở  khu phố Brooklyn  với  máy MacBook Pro đáng tin cậy.  Cappos là một  nhà khoa học computer  Ở viện Bách khoa viện đại học New York, đã phát triễn một cách hòan tòan khác về  các điện tóan  đám mây – cloud compute .

 Ở cách tính điện tóan đám mây,  các người sử dụng nối kết với một trung tâm dữ liệu tập trung hóa và uy vũ.  Nhưng đám mây của Cappos không dày đặc bằng đám mây báo bảo – thunderhead  và  giống một đám mù  sương- fog hơn .  Hệ thống của ông tên gọi là Seattle , nối kết các linh kiện   trực tiếp với nhau  ở một mạng lưới  phân tán, dựa vào các thông tin  mau lẹ hơn là qua duy nhất một điểm  trao đổi thường xa xôi .  Ông nói:  Nó giúp  bạn sử dụng  rất ít  tồn trử ở ổ chứa, mạng lưới , bộ nhớ và CPU trên phương cách  cách ly và an tòan . Vì Seattle giúp các người sử dụng  đi vào Net với các địa chỉ IP ngọai quốc, nó giúp cho các nhà phát triễn  nhìn được các vị trí hay app  của mình,  như thể họ đang ở  các quốc gia khác vậy.  Khả năng này  cũng đặc biệt có giá trị cho các cá nhân  mong muốn  phỉnh phờ kiểm duyệt địa phương .

 Cuối năm 2012, Seattle đã có 20 000 người sử dụng.  Cappos và các đồng nghiệp   đang họat động trên phần mềm có thể đi vào  những máy dò – sensors các điện thọai thông minh nữa. Các nhà khoa học có thể sử dụng nó để thử nghiệm các ứng dụng- apps mới , như một máy theo dõi- monitor động đất,  sử dụng một gia tốc kế để đo lường  cường độ động đất. Sắp tới, Cappios hy vọng là  cũng dùng Seattle để trượt trên Net  từ Trạm Không gian Quốc tế .

10 – Andrea Armani tại Viện Đại học Nam Ca li –University of Southern California, sáng chế ra một bộ mới các dụng cụ khoa học



Vài ngà khoa học sử dụng  công cụ  để tái sáng chế  hiểu biết thế giới.  Bà Andre Arnani, một kỷ sư hóa học , Viện đai học Nam Ca Li  lại thích tái sáng chế chính ngay các công cụ . Armani phát triễn các máy dò làm cho các khám phá khoa học mau lẹ hơn ở nhiều lảnh vực. Chúng cũng có thể dùng làm các máy tìm kiếm ra- detectors các vũ khí sinh học, các mầm bệnh nước đem đến, hay các phóng xạ.

 Armani đã xây đắp một máy dò, tên gọi là máy dò hốc ổ cọng hưởng-  resonant cavity sensor để dò ra những phân tử đơn giản,  mau lẹ và chính xác . Nó họat động  như thể một đinh ba -  nĩa  hòa điệu quang học.   Ánh sáng  của một bước sóng – wavelength  quay tròn quanh  một vòng silica kính hiển vi  bên trong máy dò , như thể một nốt nhạc   rung động từ các  nhánh gạc – tines  của đinh ba đang quay.  Khi một phân tử dính vào bề mặt của  máy dò,  nó thay đổi bước sóng .  Armani nói rằng ai đó có thể dùng linh kiện này để dò ra dấu vết của bệnh tật các kỷ thuật khác đã bỏ qua. Mới đây, bà khởi sự những thí nghiệm để hiểu biết tốt hơn cách nào thuốc chửa trị dính chặc vào các mục tiêu.

   Các linh kiện của Armani  giỏi hơn khả năng quang học tiêu chuẩn . Vài linh kiện có thể  chịu đựng được các lắc lư nhiệt độ  mà không mất chính xác . Vài linh kiện khác có thể  nhặt các protêins trong không khí khô.  Bà muốn chúng  họat động ở những điều kiện  thế giới thực sự  và làm nhiệm vụ với hiệu năng kinh ngạc. Theo lời Robert Carnes ,  nguyên giám đốc R&D  của hảng  khảo cứu Battelle, công nghệ R&D , nếu làm đúng , thì  phải rất tụ điểm vào các thành quả , biết rỏ hà khắc của thì giờ. Bà Armani có thể giỏi công nghệ hơn cả ngành công nghệ  nữa đó !         


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét