G S Tôn Thất Trình
Việt Nam đã và đang phải đương đầu khó khăn công cuộc phục hồi việc Trung Quốc tàn phá các tỉnh miền Bắc sau cuộc xâm lăng của Đặng Tiểu Bình ” dạy Việt Nam một bài học là đã dám xua đuổi chế độ Khmer đỏ khát máu Pol Pot, Trung Quốc bảo trợ, đe dọa miền Nam ở các vùng Tây Ninh , An Giang , Châu Đốc , Tịnh Biên - Hà Tiên , khỏi Cam Bốt năm 1979 “...
... Đẩy lui quân xâm lăng truyền thống Tàu về biên giới như các cha ông anh hùng đã làm, nhờ chiến cụ và bảo trợ của Liên Xô (Liên Bang Sô Viết ( ? ) . Nhưng sau đó, lại phải mất luôn các đảo Hoàng Sa và nhiều đảo Trường Sa, Biển Đông, đôi chút lảnh thổ thuộc vài tỉnh biên giới chung với Trung Quốc và một phần lảnh hải Vịnh Bắc Bộ. Nay lại phải chống đở đe dọa xâm lăng kinh tế , tài chánh… còn nguy hiểm hơn nữa, của một Trung Quốc mỗi ngày một lớn mạnh, đang trở thành cường quốc thứ hai thế giới ( ? ) về uy lực kinh tế, tài chánh , trong khi phát triễn và chấn hưng nền kinh tế nước nhà vẫn còn phụ thuộc quá lớn vào đầu tư và kỹ thuật Hoa - Tàu ( Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên…) .
Sau đây là phần lớn quan điểm của Ken Miller , tổng giám đốc điều hành vã chủ tịch hảng ngân hàng thương mãi Ken Miller Capital LLC , giám đốc Đình tạ Hoa Kỳ ở Triễn Lãm Thế Giới năm 2010 tại Thượng Hải, hội viên của Ủy Ban Cố Vấn về Chánh sách Kinh tế Quốc tế cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đăng ở báo Ngoại vụ - Foreign Affairs số tháng 7/8 năm 2010, về uy lực tài chánh ngày nay của Trung Quốc, thiết tưởng Việt Nam cũng nên biết qua .
Phương diện tài chánh của chính sách ngoại giao Bắc Bình
Phương sách phải triễn kinh tế của Trung Quốc đã biến quốc gia này thành một khổng lồ nghiêng lệch, một nước xuất khẩu hạng xe tải nặng khổng lồ cán nát bất cứ ai , có một cánh tay tài chánh dài thòng. Tiếp theo những cải cách Đặng Tiểu Bình năm 1979 , doanh nghiệp Trung Quốc đã khởi sự sử dụng xuất khẩu nhân công rẽ , tư bản rẽ để cạnh tranh trên thị trường thế giới, với hiệu năng mỗi ngày mỗi tăng. (may mắn cho Việt Nam là nhân công nay có phần rẽ hơn Trung Quốc , tuy bất lợi cho giới lao động , dân nghèo , chưa được huấn nghệ đúng mức). Trợ cấp của Trung Quốc, trực tiếp, xuyên qua tiền vay thuận lợi cho doanh nghiệp và hối xuất thuận lợi cho người ngoại quốc mua hàng hóa Trung Quốc. Và gián tiếp, qua thể thức các nhà kinh tế học gọi là “ đàn áp tài chánh - financial repression “ bằng cách đặt ra kiểm soát đầu tư của các công dân Trung Quốc giúp thu thập tư bản vào doanh nghiệp Trung Quốc. Ngân hàng Nhân Dân Trung Quốc đã thu lượm một phần khá lớn thành quả lợi lộc thương mãi đồ sộ và dòng tiền mặt chảy vào - cash inflow. Cuối năm 2009 , Ngân hàng đã nắm giữ 2.4 ngàn tỉ - trillion đáng giá của hối đoái ngoại quốc.( hầu so sánh , kiều hối Việt kiều gửi về giúp cân bằng cán cân tiền tệ Việt Nam năm 2010, theo ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam cho biết, có lẽ chỉ khoảng 6- 7 tỉ đô la Mỹ ). Đây là số lượng hối đoái ngoại quốc lớn nhất của bất cứ một ngân hàng trung ương thế giới nào làm chủ, nhưng chưa phản ảnh dự trữ của những ngân hàng thương mãi chánh Trung Quốc. Hơn nữa, con số này sẽ tăng thêm 300 tỉ đô la Mỹ nữa, năm 2010.
Từ trước đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ có uy lực tài chánh mạnh như thế cả và bây giờ Trung Quốc đang thí nghiệm cách nào dùng uy lực này tốt nhất vào những mối liên hệ với các quốc gia khác. Một mục tiêu then chốt của tổng thể chánh sách ngoại giao Trung Quốc là cố tái hội nhập Đài Loan , nhưng đích nhắm chính của chánh sách ngoại giao tài chánh Trung Quốc là khích lệ tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm trong nước. Đeo đuổi mục tiêu này, chánh phủ Trung Quốc đã thụ hưởng một tính cách hợp pháp to lớn, được kiêu hảnh quốc gia hổ trợ, vì đã biến Trung Quốc thành một trung tâm trật tự vĩ đại thế giới một lần nữa. Tham nhũng , bất bình đẳng tăng thêm , hạn chế tự do, và tàn phá môi sinh là những thách thức cho Đảng Cọng Sản Trung Quốc - Chinese Communist Party - CCP. Thế nhưng CCP vẫn giữ chánh quyền, duy trì an định này, nhờ tiếp tục phát triễn kinh tế và tạo công ăn việc làm ở Trung Quốc.
Trung Quốc hiện đang ở giai đoạn sớm tăng gia ảnh hưởng mình trên tài chánh quốc tế, dù rằng đôi khi có vẽ quá tham vọng, nhưngTrung Quốc đã tỏ ra thận trọng. Tháng 3 năm 2009, chủ tịch Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc kêu gọi chấm dứt dùng đồng đô la Mỹ như thể là một tiền tệ dự trữ thế giới thay bằng một loại tiền tệ mới do Quỹ Tiền tệ Quốc tế -International Monetary Fund, IMF, sẽ tạo dựng . Tuy nhiên chưa thấy dấu hiệu gì là chánh phủ Trung Quốc có ý định đẩy mạnh sắp tới chánh sách này . Tương tự như thế, Trung Quốc di chuyễn quốc tế đồng tiền tệ của mình là nhân dân tệ - renminbi ( đồng Nguyên hay đồng Viên -Yuan ), đã tăng dần thật đều đặn. Trung Quốc đã ký kết đổi chác tiền tệ với Á Căn Đình - Argentina, Belarus, Hồng Kông, In đô nê xia, Mã Lai Á , và Hàn Quốc ( Nam Hàn ). Trung Quốc đã khởi sự cho phép vài quốc gia dùng nhân dân tệ trả tiên nhập khẩu hàng Trung Quốc . Và nay đã để cho các doanh nghiệp căn cứ ở Thượng Hải và 4 thành phố khác miền Nam tỉnh Quảng Đông, dùng nhân dân tệ trả tiền mua hàng nhập khẩu vào Trung Quốc. Nhưng Bắc Bình chưa dám để trương mục tư bản mình chuyễn hoán , nghĩa là để cho đồng nhân dân tệ chuyễn đổi tự do thành ngoại tệ ( và ngược lại ) . Các nhà lảnh đạo Trung Quốc có thể để cho công dân Trung Quốc chiếm giữ những vị trí chánh tại IMF và Ngân Hàng Thế Giới, nghĩ đến tham gia các cơ quan mới tài chánh vùng và đề xướng chuyễn đổi nhân dân tệ ở ngành thương mai vùng, nhưng hiện nay chúng vẫn còn trong sập bẩy thế giới đô la Mỹ .
Thế cho nên chánh sách ngoại giao tài chánh Trung Quốc vẫn còn dựa trên hai chiến lược đơn giản : tích lũy dự trữ ngoại tệ và gửi tiền ra ngoại quốc - dưới hình thức đầu tư trực tiếp , viện trợ , phụ giúp , và cho vay - hầu bảo đảm nguyên liệu ( vật liệu thô hào ), kỷ thuật mới, mức hiểu biết xử lý ( quản trị ), và mạng lưới phân phối cũng cố tăng trưởng nội địa cùng tính cách hợp pháp của CCP. Chánh sách này khiến cho ai đó phải thêm thận trọng về mất căn bằng các cân thương mãi toàn cầu, phiền muộn về phương cách Trung Quốc sẽ sử dụng ảnh hưởng tài chánh Hoa- Tàu tương lai. Nhiều chức quyền Chánh phủ Hoa Kỳ và các chuyên gia về Trung Quốc nghĩ rằng Trung Quốc sẽ không dùng sức mạnh tài chánh mình làm gián đoạn thị trường tư bản quốc tế. Nhưng sức mạnh này cũng đáng lưu tâm, ngay cả khi không thực thi nó. Và chính sức mạnh uy vũ tài chánh chưa bao giờ thấy của Trung Quốc nay đã cho phép Bắc Bình gây thêm ảnh hưởng trên mọi khía cạnh của nền kinh tế toàn cầu.
Mức giàu có giữa các quốc gia
Dự trữ ngoại tệ quá kích thước ( qúa cở ) Trung Quốc là một vận động thị uy của quốc gia có tỉ xuất tiết kiệm rất cao và những giới hạn nặng nề trên cơ hội đầu tư các tiết kiệm này. Dân chúng Trung Quốc vẫn không có thể gửi nhiều tiền ra khỏi nước : vì đó là bất hợp pháp; tỉ dụ như ai đó đầu tư hơn 350 000 yuan ( khoảng 50 000 đô la ) một năm ở ngoại quốc. Thị trường chứng khoán Tàu, trao đổi tùy thuộc tin đồn và đổi thay chánh sách của chánh phủ, rất là hời hợt, không ổn định gì cả. Thị trường gia cư là một đầu cơ khổ đau thăng trầm theo thịnh vượng và sa sút. Ký quỉ ngân hàng là nơi an toàn nhất để gửi tiết kiệm, đã trả tiền lời âm - negative interest nếu ai đó tính thêm lạm phát vào trương mục.
Khi kinh tế Trung Quốc trở nên cao năng hơn và khi tin tưởng của CCP về kế hoạch kinh tế nội địa tăng thêm trong hơn 10 năm qua, chánh phủ Trung Quốc bắt đầu xây nền móng cho bành trướng hiện diện tài chánh Tàu ở hải ngoại. Những mục tiêu của Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc luôn luôn cố gắng trước tiên là bảo tồn tư bản, thứ đến là thừa tiền thanh toán- liquidity và lợi nhuận - profitability. Thuở ban đầu của mô hình tiết kiệm -và -xuất khẩu, chánh phủ mua công phiếu - obligations của các chánh phủ ngoại quốc và mua vài lô vàng. Rồi mười năm qua, với giá trị đồ sộ số lượng tích trữ, Trung Quốc khởi sự thí nghiệm những lề lối mới đầu tư ngoại quốc, chẳng hạn mua chứng khoán- securities không thuộc chánh phủ. Kích thước dựng đứng cao ngất dự trữ ngoại tệ Trung Quốc ngày nay, phối hợp cùng nhận thức là mức dự trữ sẽ tiếp tục tăng gia, tạo cho Trung Quốc một ảnh hưởng quá cở trên thị trường tài chánh quốc tế, so với lợi tức thấp kém mỗi đầu người Tàu trong nước .
Những món tiền đồ sộ như thế cho phép Trung Quốc đủ sức mạnh làm gián đoạn những thị trường Ngân Khố Hoa Kỳ và các nợ nần tính theo đồng euro. Dù rằng những can thiệp này sẽ là tự hủy và Trung Quốc đang và đã tham gia thị trường tài chánh thế giới một cách phức tạp và trách nhiệm hơn, các nhà chỉ trích vẫn nhấn mạnh đến tiềm năng Trung Quốc xén bớt kinh tế thế giới . Họ lo ngại Hoa Kỳ sẽ bị tổn thương, nếu Trung Quốc mua những công phiếu Ngân Khố Hoa Kỳ, hay tệ hại hơn nữa, bắt đầu bán tháo đổ các nợ Hoa Kỳ. Ít nhất theo thống kê công cọng của Ngân Khố Hoa Kỳ, Trung Quốc đã cho Mỹ vay theo những thời gian càng ngày càng ngắn hạn hơn. ( nhưng vì các công phiếu ngân khố Hoa Kỳ mua qua trung gian, nên tiến trình có vẽ mờ tối, không một ai biết được con số đích xác ). Trong số 2801 tỉ đô la Mỹ chứng khoán Hoa Kỳ, Trung Quốc mua thêm năm 2009 vào tổng số chứng khoán, có đến 130 tỉ là nợ ngắn hạn. 151 tỉ còn lại là con số tăng gia nhỏ nhất hàng năm về nợ Hoa Kỳ dài hạn, kể từ năm 2004 . Trung Quốc che dấu đô la Mỹ và các ngoại tệ khác, có thể gia giảm theo thời gian. Nhưng hiện nay ( song song với thặng dư thương mãi Trung Quốc ) vẫn là điểm nhức nhối cho các nhóm cử tri quan trọng ở Hoa Kỳ và ở Âu Châu.
Tuy nhiên sự thật là cả hai bên, Hoa Kỳ và Trung Quốc, đều là con tin bị bắt giữ. . Hoa Kỳ cần Trung Quốc mua công phiếu Hoa Kỳ, và trong tương lai nhìn thấy được, Trung Quốc có ít nơi khác đồng đô la Mỹ để tồn trữ giá trị ngoại tệ đã tích lũy. Theo Cục Thống Kê Quốc gia Trung Quốc, thặng dư thương mãi năm 2009 là 196 tỉ đô la, trụt xuống từ 298 tỉ đô la năm 2008. ( Xin nhắc lại là năm 2009, Việt Nam xuất khẩu chừng 15 tỉ đô la sang Hoa Kỳ ). Nhưng ngay cả vào năm 2009, tiền nợ theo đồng euro, đồng phật lăng Thụy Sĩ , đồng yên Nhật và vàng kim, không đủ để hấp thu hết dự trữ Tàu. Trung Quốc có thể ngày nào đó quyết định giữ đô la ngoài hệ thống Ngân Khố Hoa Kỳ, đặc biệt khi lãi xuất thấp. Nhưng dưới phần lớn trường hợp bình thường, làm như vậy sẽ gia giảm giá trị đồng đô la Trung Quốc cầm giữ, sẽ gây nên gia giảm mạnh mẽ, làm rối loạn quá nhiều tài chánh, khiến chế độ không còn di chuyễn được như trước đó. Hoa Kỳ trả đủa, dưới hình thức ngăn cấm thương mãi, có thể làm kinh tế Trung Quốc tổn thương lớn hơn nữa, vì khả năng chánh phủ Tàu cung cấp công ăn việc làm cho nhân công Tàu tùy thuộc vào việc gia nhập thị trường Hoa Kỳ.
Các nhà làm chánh sách ở Hoa Thịnh Đốn lẽ dĩ nhiên phải xét đến khả năng của Băc Bình sẽ hành động theo những phương cách tự hủy hoại. Nhưng đây cũng là một sự kiểm tra nội địa chánh bảo đảm thái độ tài chánh tốt đẹp của chánh phủ Trung Quốc. . Con số 2.4 ngàn tỉ Ngân Hàng Nhân dân Trung Quốc nắm giữ đã được cho cả cấp lảnh đạo tại Bắc Bình lẫn công dân Tàu thông hiểu rộng rải đó là tiền mồ hôi nước mắt của dân chúng, thành quả công lao cố tâm , cố sức làm việc của họ . Lảnh đạo đã bị một thác lũ dân gian chỉ trích mỗi khi tiết kiệm của dân Tàu bị đầu tư kém cỏi. Cảm giác duy nhất có cơ cân nặng hơn, là nhiệt tình ái quốc của dân Tàu. Đó là lý do tại sao chánh phủ Bắc Bình đã khổ tâm cố gắng không bao giờ tỏ vẽ nhân nhượng áp lực ngoại quốc. Các chánh phủ tây phương cũng không mấy thành công quấy nhiễu Bắc Bình tăng giá trị đồng nhân dân tệ, giống như tổ hợp Google cố bảo đảm đường vào Internet, không chút nào giới hạn, cho các khách hàng Tàu ở Trung Quốc. Tất cả mọi điều này có nghĩa là chánh phủ Trung Quốc không thể nào phá tan tành hệ thống tài chánh quốc tế mà vẫn nắm giữ được chánh quyền, trừ phi tinh thần ái quốc thắng hẳn mối ưu lo dân gian về trị giá, một kích bản khó lòng xảy ra.
Trung Quốc xử dụng dự trữ ngoại tệ của mình ở thị trường tiền tệ quốc tế nhắm vào xử lý trị giá đồng nhân dân tệ - renminbi, một thành phần thông thường của chánh sách tiền tệ ở bất cứ một nước nào. Tương tự Dự trữ Liên Bang Hoa Kỳ - US Federal Reserve, vai trò Ngân Hàng Nhân Dân là tạo ra một môi trường tối đa hóa tình trạng đầy đủ công ăn việc làm và giá cả ổn đinh ở Trung Quốc. Hơn nữa, cách xử lý trách nhiệm của Trung Quốc dự trữ ngoại tệ cho đến nay, đã giúp Bắc Bình hình thành những liên hệ giá trị với những nhà xử lý tài chánh dẫn đạo khắp nền kinh tế toàn cầu . Hoạt động bình thường thị trường- mới Bắc Bình, mua bán mỗi ngày nhiều tỉ đô la Mỹ dụng cụ tài chánh , đã giúp Bắc Bình tiếp xúc kề cận những kẻ đóng vai chánh ở thị trường hối đoái. Các dòng tài chánh hàng ngày này đã làm hạ giá lãi xuất, trong lúc đó vẫn tăng thêm tình trạng có tiền dễ dàng và ổn định, trên thị trường tài chánh quốc tế .
Thoát ra ngoài ( một thể thức doanh nghiệp Việt Nam chưa kịp tiến đến, ngoài vài thực hiện nho nhỏ như cao su… ở Nam Lào , Bắc Cam Bốt… )
Sau khi đã đặt sân khấu cho tăng trưởng kinh tế, xuyên qua các chánh sách tiền tệ , Bắc Bình cố gắng tạo ra công ăn việc làm và bảo đảm các đầu vào, Bắc Bình tin tưởng sẽ khích lệ tăng trưởng nội địa theo những giao dịch trực tiếp với các chánh phủ khác. Ở chánh sách ngoại giao song phương, Bắc Bình ưa thích những dụng cụ đầu tư trực tiếp có phần nào thiếu sắc sảo, cấp không thẳng thừng- outright grants và những cho vay gọi là nhân nhượng - concessional loans; những cho vay có điều khoản hào phóng hơn là ở thị trường.
Đầu tư trực tiếp ỏ quốc ngoại , thường được gọi là “ đầu tư trực tiếp ngoại quốc - foreign direct investment “ - FDI giúp cho một quốc gia chiếm hửu kiểm soát trên tài nguyên , đi vào kỷ thuật ( mới ) và thông tin về những gì đang xảy ra bên ngoài biên cương nước Tàu. Chánh phủ Trung Quốc khởi sự khuyến khích FDI từ doanh nhân Tàu năm 1999 , nhưng chánh sách “ thoát ra - go out “ này bắt đầu một cách chậm rải. Lúc đó , Trung Quốc tụ điểm vào tu sửa lảnh vực quốc doanh còn quá vá víu, và lảnh vực tư nhân cũng còn quá yếu để phát triễn đại trà , kích thước lớn . Chánh sách này chồm lên năm 2005 , không mấy xa , sau khi dự trữ của Ngân Hàng Nhân Dân khởi sự leo cao và các doanh nghiệp quốc gia làm chủ , tự kiếm ra vị trí tốt hơn để hướng dẫn tấn công vào lảnh vực đầu tư quốc ngoại Tàu. Rồi thì, khi nhu cầu về năng lượng và nguyên liệu châm ngòi cho tăng trưởng kinh tế phồn thịnh thêm, nước Tàu tìm kiếm tài nguyên khắp thế giới.( trong đó có bô xít , sắt, vài đất hiếm (? ) …Việt Nam )
Trong mười năm đầu tiên của chánh sách thoát ra ngoài, Á Châu luôn luôn là vùng, là lục địa các công ty Tàu để ý đến nhất . Nay thì Trung Quốc mỗi ngày mỗi tăng thêm chú ý ở Phi Châu và ở Nam Mỹ. Chánh phủ Trung Quốc đề xướng mạnh mẽ đầu tư dầu lữa và khí dầu , mỏ và kim loại cùng dịch vụ tài chánh, nhưng cũng hầu như đầu tư trên mọi lảnh vực kinh tế khác. Theo thời gian, chánh phủ Trung Quốc đã đặt thêm trọng tâm vào thu nhập kiến thức hiểu biết- know how : một trong những mục tiêu của Tổ Hợp Dầu Ngoài Khơi Quốc gia - China National Offshore Oil Corporation CNOOC, cố gắng chiếm lấy khổng lồ năng lượng Hoa Kỳ tổ hợp Unocal năm 2005, là để có được kỷ thuật ( tân tiến ) thám hiễm và sản xuất năng lượng.
Đa số FDI Tàu do các doanh nghiệp quốc gia làm chủ. Dù rằng các doanh vụ tư nhân càng ngày càng thêm sáng kiến, nhưng đầu tư lớn vẫn được các cơ quan chánh phủ điều phối. Những ngày đầu tiên của chánh sách, doanh nghiệp có khuynh hướng tiêu xài tiền mặt dự trữ của chính mình, nhưng ngày nay, lại được các ngân hàng lớn quốc gia hổ trợ, tỉ như Ngân Hàng Trung Quốc - Bank of China,và Ngân Hàng Xuất Nhập Khảu Trung Quốc - Export-Import Bank of China cung cấp nhiên liệu tài chánh. Trong khi các công ty Hoa Kỳ đi vào thế giới cố tìm lợi nhuận, chỉ có sự can thiệp tối thiểu của chánh phủ, hầu như tất cả đầu tư quốc ngoại các công ty Tàu đều phải có một mức chấp thuận nào đó của quốc gia.
Bắc Bình đứng sau lưng các đầu tư Tàu đã đến rồi. Thủ tướng Ôn Gia Bảo -Wen Jiabao tuyên bố ở một báo cáo về hoạt động chánh phủ ( tương đương lỏng lẻo với thông điệp Tình trạng của Hợp Quốc Hoa Kỳ - US State of the Union address của Tổng thống Hoa Kỳ) giải tỏa tháng 3 năm 2010, thì Bắc Bình sẽ ủng hộ những công ty đủ tư cách khi sáp nhập hay thu nhận các công ty ngoại quốc, và cống hiến cho các công ty này nhiều tự trị hơn, để đầu tư ở hải ngoại. Muốn duy trì tuyệt đối quản lý giá trị tiền tệ, chánh phủ kiểm soát chặc chẽ các thị trường tư bản phần lớn căn cứ trên tài trợ ngân hàng và phát hành cổ phần không có lãi xuất cố định - equity. Các công ty Tàu sẽ được chấp thuận đầu tư hải ngoại dễ dàng hơn. Ngọai trừ những giao dịch rất lớn hay rất nhạy cảm chánh trị cần được được Bắc Bình duyệt xét lại kỷ lưỡng , đa số các dự án này được các văn phòng địa phương của bộ Thương mãi và Ủy Ban Phát triễn và Cải Cách Quốc Gia , kỳ hạn lâu nhất trong vòng 1 tháng rưỡi, cho phép tiến tới và hối đoái cần thiết thường được cấp ngay sau đó. Tuồng như chánh phủ luôn luôn có ý định khuyến khích đầu tư ở hải ngoại; khuyến khích mỗi ngày mỗi tăng thêm nhiều lảnh vực khác, tại nhiều vùng khác hơn. Trong kế hoạch hoạt động mới nhất, bộ Thương Mãi lần đầu tiên nói chi tiết chú tâm về công nghệ chế tạo, công nghệ cao kỷ , năng lượng sạch, những nhãn hiệu danh tiếng ở hải ngoại, và mong muốn chế biến tài nguyên ở ngoài nước hơn là chở chúng trở lại Trung Quốc .
Chú tâm này khiến cho FDI Tàu có phần ít hơn là mức độ chúng ta chờ đợi . Năm 2009, các công ty Tàu chỉ đầu tư 48 tỉ ở hải ngoại, khoảng 1% GDP Trung Quốc . Các công ty Hoa Kỳ đã đầu tư hơn 340 tỉ đô la, khoảng 2.4% GDP Hoa Kỳ. Đến cuối năm 2009 , tổng số FDI Tàu tích trữ là 221 tỉ đô la, khoảng 4.3 % GDP Trung Quốc . Còn Hoa Kỳ, con số ước lượng là 3 .245 ngàn tỉ, khoảng 23 % GDP Hoa Kỳ. Theo tiến triễn tỉ xuất này thi đến năm 2047 , FDI Tàu mới mong đuổi kịp Hoa Kỳ .
Úc Châu và nhiều nước đang mở mang khác kháng cự các mua bán xí nghiệp , tổ hợp quá lộ liễu (còn Việt Nam thì sao ?)
Khác biệt một phần là thành quả việc có nhiều rào cản cho doanh nghiệp Tàu đầu tư ngoài lục địa Trung Quốc. Một rào cản này là nổi oán giận chống các công ty quốc doanh, chánh phủ làm chủ, vì dân gian địa phương ý thức là chúng đã có trách nhiệm chiếm giựt bớt công ăn việc làm, có khi cả gia cư của các cư dân địa phương tại những nước chúng đầu tư ( Tương tự đầu tư Tàu vào khai thác, chế biến bô xit, thiết lập dài hạn các rừng trồng thuê mướn lâu năm ở Việt Nam: trồng bạch đàn, bạch dương… ở Cam Bốt ? ). Các công ty Tàu đã gặp phải kháng cự dữ dội ở cố tâm lộ liễu mua các công ty ngoại quốc, đặc biệt ở Hoa Kỳ. Công Ty Tàu Lenovo mua thân thiện doanh nghiệp computer cá nhân IBM giá 1. 7 tỉ năm 2005, có vẽ là một ngoại lệ. Năm đó, Chevron tổ chức một chiến dịch quan hệ quần chúng - public relations, động viên tình thần bài ngoại của dân Hoa Kỳ chống lại CNOOC, đã cố gắng mua đứt hảng Unocal, căn cứ tại bang California , Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Chevron đã thuyết phục CNOOC là Quốc hội Hoa Kỳ sẽ chống đổi việc mua bán này và làm cho CNOOC phải bải bỏ đấu thầu mua Unocal, giá 19 tỉ đô la Mỹ. Tháng hai năm 2008, hảng tài nguyên thiên nhiên Úc BHP Billiton muốn mua chiếm hảng Úc Rio Tinto, chánh phủ Trung Quốc cung cấp cho Tổ hợp Aluminium Trung Quốc Chinalco , ( tổ hợp khai thác bô xít Lâm Đồng và Đắc Nông ở Việt Nam ) để giúp trúng thầu. Cũng cố giữa BHP và RioTinto, hai nhà cung cấp chánh quặng sắt , một thành phần then chốt sản xuất thép cần thiết xây đắp hạ tầng cơ sở , có thể làm giá quặng sắt lên cao ; cho nên Úc muốn phá hư giao dịch. Hai năm sau, Chinalco đã xử lý chỉ bảo đảm một vị trí thiểu số khiêm tốn ở cổ phần chung của RioTinto và BHP Billiton. BHP Billiton hiện đang trên con đường phối hợp với Rio Tinto, theo thể thức một công ty hợp doanh. Ở Úc Châu hay ở các nước đang mỏ mang khác , các công ty Trung Quốc đã có một vài tiến bộ đặc biệt ở các giao dịch tài nguyên thiên nhiên nhỏ , nhưng họ lại gặp chống đối mảnh liệtở những cố gắng mua đứt tại những nền kinh tế đang phát triễn.
FDI Tàu cũng bi ngờ vực về cơ hội đầu tư hải ngoại giới hạn, từ các doanh nghiệp Tàu. Rất nhiều doanh nhân đã lo âu khi các giao dịch thất bại hải hùng , tuy rằng ban đầu giao dịch tuồng như hứa hẹn. Tháng 10 năm 2004, Tổ hợp Công Nghệ Ô tô Thượng Hải - Shanghai Automotive Industry Corporation trả 500 triệu đô la để có được 51 % cổ phần của công ty Hàn Quốc làm xe hơi Ssang Yong Motor với dự tính to lớn xây dựng một xe hơi Tàu, sử dụng kỷ thuật Hàn Quốc và biến tổ hợp Thượng Hải này thành một công ty Tài Sản - Fortune 500. Nhưng đầu tư này gây ra nhiều vấn đề với các nghiệp đoàn từ lúc khởi sự. Năm 2009, sau một loạt tranh cải trầm bổng với nhân công Hàn Quốc, SsangYong Motor đã tuyên bố phá sản. Hảng bảo hiểm Bình An - Ping An tọa lạc tại Thẩm Quyến - Shenzhen hy vọng có thêm chuyên môn xử lý tích sản bằng cách đầu tư vào công ty Hà Lan Nhóm Fortis Group , cuối năm 2007, nhưng sau một thời gian ngắn ngủi, cố gắng trở thành hủy bỏ 3.3 tỉ đô la. Cũng năm đó, TCL một hảng chánh chế tạo ti vi Tàu, cũng gặp phải bất hạnh khi làm xí nghiệp hợp doanh cùng Thomson Electronics ở Pháp , đau đớn thua lỗ lớn ở Âu Châu, khiến hảng phải thu nhỏ lại, đóng cửa hay bán đi những hoạt động ở Âu Châu
Viện Trợ có dây trói, ràng buộc
Một phần vì những động lực này, chánh phủ Tàu đã quyết định sớm là không thể dựa duy nhất vào các công ty quốc doanh và các doanh nhân khu vực tư để đầu tư hải ngoại. Năm 2007, chánh phủ thiết lập một quỉ Tài sản Tối cao , Độc lập Tổ hợp Đầu tư Trung quốc - China Investment Corporation CIC , tư bản khởi sự là 200 triệu đô la. Sau những vấp ngã đầu tiên dầu tư cùng nhóm Blackstone Group và Morgan Stanley , và trong khủng hoảng tài chánh thế giới gần đây, thua lỗ ở quỉ tưởng là an toàn: Quỉ Dự trữ Sơ Khởi- Reserve Primary Fund, CIC có vẽ đã tìm thấy chỗ đứng vững chắc. Đầu tư của CIC đã lời 17% năm 2009 . Hiện nay quỉ đang quản trị hơn 300 triệu đô la và có thể có nhiều ngân khoản thêm nữa. CIC cấp tư bản cho các nhà xử lý tiền tệ không phải là Tàu và các công ty cá nhân tích cực, đã chứng minh tài nghệ, ở những lĩnh vực tỉ như tài nguyên thiên nhiên và kỷ thuật. Bặc Bình cũng thiết lập những quỉ nhỏ hơn có nhiều tỉ đô la, để trực tiếp đầu tư ở Á Châu và Phi Chẩu
Con số bộ Tài Chánh Trung Quốc gợi ý là cấp không thẳng thừng và ngoại viện ( ngoại trừ viện trợ quân sự ) của Bắc Bình năm 2009 ít hơn 2 tỉ ( so với 28 tỉ của Hoa Kỳ ) . Viện trợ thuần túy của Trung Quốc là dưới thể y tế và kỷ thuật, học bổng, các chương trình đầu tư vào phát triễn tiếng Tàu, và ngân khoản nhà máy trao tay chia khóa - turnkey plants. Khác với chánh phủ Hoa Kỳ, chánh phủ Trung Quốc không ràng buộc viện trợ theo nhân quyền - human rights hay đề xướng dân chủ - democracy . Viện trợ Tàu trói buộc với những dự án đặc thù : xây cất hải cảng, đường xe lữa, ống dẫn dầu, cơ sở tiện nghi thể thao.
Trung Quốc xem thông tin về số lượng và người thụ hưởng cấp không và cho vay là bí mật quốc gia. Nhưng chiếu theo con số năm 2007, ( đăng tải mới nhất ) từ Ngân Hàng Xuất- Nhập khẩu Trung Quốc là cơ quan cho vay nhân nhượng lớn nhất , Bắc Bình có lẽ đã cho vay nhân nhượng khoảng 10 tỉ đô la, năm 2009 . Một dự án điển hình thoát ra ngoài có thể liên hệ đến đầu tư trực tiếp của một xí nghiệp quốc doanh hay cho vay nhân nhượng cho một doanh vụ ngoại quốc hay cho chánh phủ ở một lãi xuất dưới lãi xuất thị trường, có thời gian hoãn trả và điều khoản hoàn trả lâu dài . Cũng như ngân khoảng cấp không-grants và viện trợ- aid, Bắc Bình cho vay nhân nhượng - con cessional loans, thường buộc các nước tiếp nhận phải thuê các công ty Tàu thực hiện các dự án ( trường hợp khai thác, chế biến bô xít Việt Nam chăng ? ). Chẳng hạn, Ngân Hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc cung cấp 85% của số 1 tỉ đô la để xây cất hải cảng Hambantota ở Sri Lanka mà công ty quốc doanh Công nghệ Hải Cảng Trung Quốc- China Harbour Engineering đang làm. Tương tự như thế, chánh phủ Tàu cũng hổ trợ phát triễn các cơ sở hải cảng ở Bangladesh, Myanmar ( Miến Điện ) và Hồi Quốc; các đường xe lữa ở Nepal; đường xá và sân vận động khắp Phi Châu. Hiện có đến 750 000 dân Tàu từ lục địa Trung Quốc đang hoạt động ở ngoài nước cho các dự án chánh phủ Trung quốc tài trợ.
Trên vài phương diện Bắc Bình cư xử y hệt Hoa Thịnh Đốn hầu giúp đở doanh vụ nội địa bằng các kinh doanh hải ngoại. Tổ hợp Đầu tư Tư nhân Hải Ngoại Hoa Kỳ -US Overseas Orivate Investment Corporation cũng có những chương trình bảo đảm và tài trợ doanh vụ Hoa Kỳ hoạt động trên hơn 150 quốc gia . Nhưng các công ty Hoa Kỳ đeo đuổi lợi nhận đơn nhất - single minded hơn là các đối giá Trung Quốc . Nếu như các công ty Hoa Kỳ thường hưởng lợi từ chánh sách ngoại giao Hoa Kỳ, khác với các công ty Trung Quốc là họ không phải là lưỡi dao sắc lảnh đạo . Mặt khác , chánh phủ Trung Quốc pha trộn sâu xa viện trợ giữa các quốc gia, cùng nhiều khích lệ cho doanh nghiệp Trung Quốc, hầu thu thập tích sản ở ngoài nước. Cho nên phương diện tài chánh của chính sách có vẽ như là óc con buôn trần truồng. Hơn phân nữa chuyên gia Bộ Ngoại Giao Trung Quốc được xem là hoạt động cho các vấn đề kinh tế !
Sự kiện là những thỏa hiệp giữa chánh phủ - government to government agreement không tiết lộ và các khế ước cho dự án được chấp thuận không theo thể thức đấu thầu công khai, tạo ra lo ngại về tham nhũng . Yêu cầu phải dùng nhân công lao động nhập khẩu từ Trung Quốc có nghĩa là giới hạn ích lợi cho kinh tế bản xứ , nhất là khi lương trả cho nhân công, nhân viên Trung Quốc lại điển hình đặt vào các trương mục ngân hàng ở Trung Quốc. Trước những lo ngại và phản đối này , một ngày nào đó Bắc Bình có thể phải quyết định thay đổi phương cách ?
Nợ đáo hạn
Kể từ khi CNOOC thất bại mua Unocal, vài nhà đấu thầu Trung Quốc đã bắt đầu lộ diện tại các cuộc bán đấu giá tư nhân những tài sản năng lượng Hoa Kỳ giữ chặt. Thật hửu ích, nếu Bắc Bình đóng vai trò một chủ nợ thường xuyên hơn . Các ngân hàng thương mãi Trung Quốc tuồng như bất an về khả năng làm những phân tích tín dụng cho các công ty ngoại quốc và cảm thấy thoải mái hơn khi chỉ phục vụ cho cộng đồng Tàu. Thế nhưng trở thành kẻ cho vay trực tiếp cho những doanh vụ không phải là Tàu, họ sẽ thu nhận nhiều kiến thức hiểu biết và nhiều ảnh hưởng hơn là nếu họ chỉ là những cổ đông thiểu số. Vi chưng tiền cho vay không được xem như là dành giựt uy quyền , các giao dịch có lẽ sẽ ít gặp kháng cự chánh trị hơn. Tư bản sẽ đổ trực tiếp vào doanh nghiệp vay nợ hơn là vào cổ đông và sẽ cung cấp công ăn việc làm, cũng như khích lệ kinh tế địa phương. Là chủ nợ, chính phủ Trung Quốc sẽ giữ một vị trí chánh và an toàn hơn là một chủ nhân các cổ phần không lời cố định -equity owner .
Khi kinh tế Trung Quốc trưởng thành, hướng về tiêu thụ và dịch vu hơn, tất nhiên sẽ có thay đổi. Quyết định tháng 9 năm 2009 của CIC thu nhận một dụng cụ tựa món nợ trị giá 1.9 tỉ đô la từ tài nguyên Bumi Resources, một công ty than đá lớn nhất Inđônexia là một dấu hiệu Bắc Bình khởi sự điều chỉnh chiến lược thoát ra ngoài . Hiện nay, còn quá nhiều dân Trung quốc ở gần mức nghèo khổ, để cho lảnh đạo có thể hổ trợ rộng rải sử dụng tài nguyên quốc gia, hoàn tất các mục tiêu không con buôn ở hải ngoại. Bắc Bình có thể ít dự định dùng viên trợ, cấp không , cho vay nhân nhượng ở ngoài nước một cách trực tiếp, như thế sẽ phục vụ cho nền kinh tế nội địa Trung Quốc. Trường hợp này có thể sẽ xảy ra, nếu chế độ có cảm giác an toàn ở những phương cách khác, chẳng hạn về quân sự.
Nhưng điều này chưa có gì là chắc chắn cả . Chẳng hạn, không một ai biết là chính phủ Trung Quốc có để cho tư bản ra, vào Trung Quốc tự do mà không có chính quyền can thiệp không ? Một kiểu tự do như thế, đến với nhiều khoan dung về quyết định đầu tư cho cá nhân và cho các công ty, sẽ là một đổithay quan trọng trên phương diện tài chánh của chính sách ngoại giao Tàu. Các công Ty Tàu sẽ lớn mạnh bằng cách sáp nhập và thu nhận ( mua ). Các công ty quốc gia và các nhãn hiệu quốc gia sẽ trồi đầu lên , với những cương lĩnh vững chắc để nới rộng trên thế giới. Đến điểm này , Trung Quốc sẽ bắt đầu đẩy mạnh uy lực thị trường nội địa vào đấu trường toàn cầu, không khác chi mấy Hoa Kỳ và Âu Châu, xuyên qua các tổ hợp đa quốc gia. Điều này còn làm cho hình ảnh Trung Quốc đẹp mặt hơn ở các nước đang mở mang ( chậm tiến ) Tàu đang đầu tư, nhờ giới hạn được chỉ trích từ các dân cư địa phương, trước đó nghi ngờ rằng mọi giao dịch, thương thảo thảy đều bị các mục tiêu chánh trị chánh phủ Trung Quốc thúc đẩy .
Một câu hỏi công khai khác là bao giờ Bắc Bình sẽ để cho đồng nhân dân tệ. trở thành đơn vị quốc tế trương mục , một phương tiện hối đoái và tồn trữ giá trị, như đồng đô la Mỹ và đồng euro. Hoán chuyễn trương mục tư bản sẽ tăng gia lớn lao ảnh hưởng của vị trí tài chánh quốc tế Trung Quốc .Thượng Hải sẽ biến thành một trung tâm tài chánh lớn như New York và London ( Luân Đôn ); và các cơ quan tài chánh Trung Quốc có thể đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Ngày nay, Thượng Hải huênh hoang là đã có hạ tầng cơ sở viễn thông tốt đẹp, có cơ nâng cấp thành tiêu chuẩn bậc nhất, một điều kiện cần thiết để Thượng Hải trở thành một trung tâm tài chánh lớn . Đầy rẫy tư bản nhân sự Tàu hải ngoại huấn luyện giỏi gian ở thị trường tài chánh toàn cầu , đang sẳn sàng bị thu hút trở lui về Đất Mẹ.
Một trong những chức năng của Cơ quan Quản Trị Hối đoái Quốc Gia ( Tàu ) là “ nghiên cứu và thực thi các biện pháp làm cho đồng nhân nhân tệ renminbi tiến dần về hoán chuyễn - convertibility “. Nhưng tiến trình đi rất chậm. Không bị giới hạn tiền tệ, tư bản Tàu sẽ tuôn chảy mạnh mẽ trong nước và ở hải ngoại cho đầu tư , cống hiến những mức lợi nhuận cao hơn và tư bản rẽ rề, khiến một trong những động cơ của kỳ diệu Tàu sẽ biến mất. Phí tổn tư bản cao và cạnh tranh cứng rắn hơn sẽ tai hại cho doanh nghiệp hướng về xuất khẩu của Trung Quốc , có thể bị gián đoạn mạnh ở nội địa Trung Quốc. Dòng chảy tư bản tự do, lẽ đương nhiên, sẽ tạo ra những cụm to bự quyền uy kinh tế, khiến ngay cả CCP - đảng Cọng SảnTrung Quốc cũng chống lại nữa đó . Thế cho nên đổi thay căn bản hoán chuyễn tiền tệ, có lẽ còn lâu mới hình thành ở Trung Quốc !
Con trẻ mới ở khu phố
Rất nhiều vấn đề kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc liên quan đến tiền tệ, công ăn việc làm và mất thăng bằng tài chánh. Chánh quyền Obama tuyên bố dự tính tăng gấp đôi xuất khảu 5 năm tới ; một cố gắng có thể gây ra thêm nhiều cạnh tranh cho các thị trường thứ ba và tăng thêm xung đột giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Bình, Trong ca tệ hại nhất , một phát triễn như thế có thể làm cùn tiến trình giải tỏa tự do mà Trung Quốc đang tự nhiên hoàn thành, khi Trung Quốc tiếp tục phát triễn kinh tế. May thay, Hoa Thịnh Đốn tuồng như hiểu rằng khuyến khích Trung Quốc đóng vai trò quan trọng về ổn định tài chánh quốc tế thật là có lợi cho Hoa Kỳ. Hoa Thinh Đốn , chảng hạn, đã minh bạch đón mời Trung Quốc Bắc Bình tham dự bàn tròn tài chánh thế giới.
Cho đến nay , chánh sách ngoại giao Tàu trên phương diện tài chánh đã tốt đẹp cho các quốc gia khác và ít lợi lộc cho chính Trung Quốc hơn là khi thoạt tiên mới nhìn. Trung Quốc đã mua nợ Hoa Kỳ . Trung Quốc cũng đã giúp giữ trật tự thị trường . FDI Trung quốc đã giúp Trung Quốc học hỏi thế giới hải ngoại . Về phía viện trợ và giúp đở các nước đang mở mang, số lượng tài chánh khởi sự y tuy còn nhỏ bé nhưng chánh phủ Tàu đã gặp phải khá nhiều oán trách rồi . Phương thức con buôn sẽ không cho chánh phủ Tàu an ninh thật sự về nguồn cung cấp hơn là Trung Quốc mua chúng ở thị trường công khai . Chánh phủ Trung Quốc đã công nhận điều này và chắc sẽ thay đổi thể thức mà không cần bị áp lực bên ngoài.
Khi Trung Quốc khích lệ yêu cầu nội địa và đóng một vai trò lớn hơn ở tài chánh quốc tế, công cuộc này sẽ góp phần thiết lập ra những liên hệ lành mạnh giữa các quốc gia . Những kinh tế đã phát triễn cần tư bản và Tàu no nê, sẽ giúp Trung Quốc một lối mòn tự nhiên để đầu tư tại các nước này ( ngay cả khi không có hoán chuyễn trương mục tư bản) . Những vị trí chủ nhân tài chánh lớn hơn ở các công ty ngoại quốc , khi cân nhắc mọi điều sẽ là một việc tốt đẹp cho các công ty Tàu và cho thế giới như các cổ phần đầu tư ngoại quốc của Hoa Kỳ trước đây . Và nếu chủ nghĩa tư bản Tây Phương tiếp tục hưng thịnh, Trung Quốc sẽ tiến trào trở nên hướng thị trường hơn nữa. Xét cho cùng, thèm khát Tàu về lợi nhuận cũng đã làm cho Trung Quốc vẫn sống tươi mạnh, mặc dù ở dưới ách cọng sản cai trị đã hơn 60 năm.
Mệnh lệnh là phải đôi chút kiên nhẫn. Các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ nên nhớ là Trung Quốc trổi dậy thành một uy lực tài chánh mới chưa đầy 10 năm nay. Thông hiểu những thôi thúc nội địa Trung Quốc, Hoa Thịnh Đốn có cơ khuyến khích Bắc Bình phóng ra ngoài nước uy quyền tài chánh, theo những phương cách góp phần vào ổn định nền kinh tế thế giới !
( Irvine , Nam Ca Li , ngày 6 tháng 7 năm 2010 ) .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét