Thử xem hơn 30 năm sau chiến tranh:
Tỉnh Gia Lai – Pleiku phát triển tới đâu ?
Cánh cò bay lã dập dờn,
Mây
mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
… Ta đi ta nhớ núi rừng,
Ta đi ta nhớ
dòng sông vỗ bờ …
Nguyễn Đình Thi
(1924 – 2003)
Vị trí
Tỉnh Gia Lai là tỉnh lớn nhất Tây Nguyên, sau khi tỉnh Đắc
Lắc cũ chia hai thành Đắc Lắc và Đắc Lắc ( Daklak, Darlac
), Đắc ( Dak ) Nông. Diện tích là 15 537
Km2 trong tổng số diện tích 5 tỉnh Tây Nguyên ( Kontum , Gia Lai, Đắc Lắc , Đắc Nông, Lâm
Đồng ) 54 475 km2 . Đông giáp hai tỉnh Bình Định và Phú Yên, Tây
giáp tỉnh Ratanakiri - Cam Bốt Nam giáp tỉnh Đắc Lắc và Bắc giáp tỉnh Kontum . Pleiku ( Plêy Cu ) nay
là tỉnh lỵ tỉnh Gia Lai, cách Qui Nhơn
186km ( 116 dặm Anh ), cách Ban
Mê Thuột 197km ( 104 dặm Anh ), cách Sài Gòn – TP Hồ Chí Minh 550km ( 344 dặm
Anh ). Có ba quốc lộ dẫn tới Pleiku : quốc lộ
25 nối Tuy Hòa ( Phú Yên ) với Pleiku; quốc lộ 19 nối Qui Nhơn với
Pleiku ; có quốc lộ 14 trải dài từ
Pleiku đến Ban Mê Thuột, Kon Tum và Đà
Nẳng ( Tourane thời Pháp thuộc ). Máy bay Hàng Không Việt Nam đến Pleiku hằng
ngày từ Hà Nội, Đà Nẳng và Sài Gòn tại phi trường Pleiku,
cách trung tâm thị xã Plei Ku 25 km và
thị xã Kontum 45 Km.
Tính đến tháng 4 năm 2009 dân số Gia Lai là 1 272 800 người. Tăng
thêm gần 300 000 người trong 10 năm vì năm 1999 Gia Lai chỉ có 981 500 người. Năm 1990, Gia Lai chỉ mới có
703 400 người. Thành phần dân tộc dân cũng thay đổi nhiều. Vào thời Pháp thuộc,
chánh quyền thuộc địa giới hạn người
Kinh lên Tây Nguyên, tuy rằng thời Minh Mạng – Thiệu Trị và Tự Đức cấm đạo đã
có nhiều dân Kinh theo đạo lên trốn tránh ở Tây Nguyên nhất là quanh các tỉnh
lỵ Kontum và PleiKu và thời Pháp thuộc đồn
điền Catecka ở gần Biển Hồ ( hồ To Nung
) cũng mộ dân Bình Định lên làm công nhân hái trà. Các năm 1957- 62, dân đinh
điền gốc Kinh các tỉnh miền Trung và dân
di cư 1954 gốc Kinh miền Bắc cũng lên lập nghiệp ở Gia Lai đến vài vạn người.
Sau 1975, chánh sách cho di dân tự do lên Tây Nguyên và
nhiều tộc dân miền Bắc vào Gia Lai xây dựng các đập thủy điện sông Ba và
sông Sesan cũng góp phần thay đổi thành phần các tộc dân Gia Lai. Cho nên
ngày nay tộc dân Kinh chiếm đa số chừng 52 % tổng số cư dân Gia Lai. Hai tộc
chánh thời xưa : Gia Rai ( Jơ Rai ) nay chỉ còn chiếm 33.5 %, Ba Na( Bahnar )13. % . Các tộc dân khác là Xơ ( Xê ) Đăng, Giẻ Triêng, Cờ Ho, nay thêm nhiều tộc dân Nùng, Thái, Mường, Tày
vùng cao nguyên miền Bắc … Nhắc lại là
tộc dân Gia Rai thuộc họ ngôn ngữ Nam Á, cũng như các tộc dân
Chăm( Chàm ) , Ê Đê ( Rha Đê ) Raglai,
thuộc Nhóm Môn - Khmer . Cùng họ ngôn ngữ Nam Á là các tộc dân Ba Na ( Bahnar ), Xơ Đăng, Cơ Ho, Giẻ Triêng cũng
thuộc nhóm Môn –Khmer và các tộc dân
Thái , Nùng, Tày thuộc Nhóm Tày –Thái ; các tộc dân Kinh ( hay Việt ) và
Mường, thuộc Nhóm Việt -Mường (Theo tài liệu dân tộc học, Mặc Đăng
-2000).Tuy nhiên hình thái thân tộc khác
nhau : Nguời Gia Rai, Ê Đê theo mẩu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, lấy
họ mẹ. Con gái chủ động trong hôn nhân theo cách nói là “
con gái bắt chồng”. Cưới xong con trai “ xuất giá”, rời bỏ cha mẹ, anh em
để về nhà vợ. Khi vợ chết, lại lủi thủi rời bỏ con cái mình để trở về nhà mẹ
hoặc chị em gái của mình. Người Giẻ Triêng theo song hệ, con gái lấy họ mẹ, con trai lấy họ cha.
Về hành chánh, Gia Lai nay gồm
tỉnh lỵ là thị xã Pleiku, rộng 21 100
ha, dân số năm 2003 là 186 763 người và hai thị trấn tỉnh quản trị là An Khê,
Ayun Pa và 14 quận là Â Chư Pah ( Phú Hòa ), Chư Prong, Chư Sê, Đức Cơ ( nguyên là Chư Ty ), Ia Grai ( Ia Kha ), Kbang,
Krong Pa ( Phú Túc ), Kong Chrô, Mang Yang ( Mang Giang, Kong Dong ), DakĐoa, Ia
Pa, DakPo, Phú Thiện, Chư Pu. Sau năm
1975, tỉnh Gia Lai gồm luôn 3 tỉnh
là Kontum , Pleiku và Phú Bổn ( Phú Túc
, Krong Pa ? ) mà tỉnh lỵ là Hậu Bổn (tên cũ thời Pháp thuộc là Cheo Reo). Sau
đó Kontum tách rời thành tỉnh
Kontum riêng biệt, diện tích nay là 9 614,5 km2, nhưng dân số Kontum năm 2009 chỉ có 432 900 người.
Đôi chút xuôi dòng thời gian lịch
sử
1- Gia Lai- Pleiku từ thế kỷ thứ II đến lúc Việt Nam Nam
Tiến cai quản, trước thời Pháp thuộc
Tộc dân Gia Rai, họ ngôn ngữ Nam- Đảo, theo
Philippe Papin ( 2001 ) có lẽ đã từ ven
biển lên cao nguyên các tỉnh Gia Lai và Kontum vào
khỏang thế kỷ II. Và các tộc dân Kiritas khác cũng lên định cư ở miền
núi Trường Sơn cùng lúc hay chậm hơn đôi chút. Sau đó vua Chăm Chế Bì La But- Jaya Harivarman I, năm 1151 đánh bại tất cả
các quân các tộc dân Kiritas cao nguyên
tràn xuống xâm chiếm đồng bằng ; theo con đường Phú Yên – Phú Bổn (- Hậu Bổ-
Cheo Reo )- Pleiku.. đuổi theo các tộc
dân cao nguyên Kiritas Trường Sơn miền Trung ( thời Pháp thuộc gọi là « Mọi
– Montagnards du Sud ») từ Bình Thuận ra đến Phú Yên, khuất phục
các tộc dân Jarai, Rongao, Roglai Blao…
đặt nền cai trị Chăm lâu dài ở vùng núi này. Phần nào di tích văn hóa
Chăm, còn rải rác từ Bình Thuận ra đến Pleiku
- Kontum ngày nay.
Người thượng Pleiku |
Như
chúng ta đã biết, đô đốc Bùi Tá Hán đã thiết lập nền cai trị Việt Nam ở các tỉnh miền Bắc Tây Nguyên thuộc dinh Quảng
Nam theo lệnh của Chúa Trịnh và sau đó
người kế vị giao chức trấn thủ Quảng Nam cho Chúa Tiên Nguyễn Hòang. Năm
1611, Chúa Tiên đánh Chiêm Thành, lấy đất lập ra tỉnh Phú Yên
và lẽ dĩ nhiên kiểm sóat luôn các vùng đất Phú Bổn- Plei ku - Kontum,
Chiêm cai trị. Năm 1653 chúa Hiền-
Nguyễn Phước Tần đánh Chăm, lập ra phủ Diên Khánh từ Phan Rang trở ra phía Bắc.
Nhưng mãi đến năm 1679, chúa Hiền mới lấy
đất Phan Rí- Phan Rang đặt ra hai huyện Yên
Phúc và Hòa Đa, lập phủ Bình Thuận, chiếm
hết đất Chăm, nên các tỉnh Tây Nguyên Nam Trường Sơn Chăm cai trị cũng đương
nhiên là đất Việt. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ kiểm sóat lỏng lẻo Tây
Nguyên. Vua Thiệu Trị (trị vì 1841-1847) đã phải phong cho hai tù trưởng Jia Rai và Ba Na hàng quan vỏ tứ phẩm triều đình Huế,
nhưng đối với dân địa phương đó là hai “ Vua Hỏa- Hỏa Xá” và “Vua Thủy- Thủy Xá” .
2- Sơ lược Chiến Tranh
Đông Dương (Đông Pháp) lần thứ nhất
… Các anh đi khi nào trở lại ?
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong.
Chờ
mong chiến dịch thành công,
Xác thù chất
núi, bên sông đỏ cờ.
Anh đi
chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?
(
Hòang Trung Thông , 1925 – 1993 )
( Các đoạn từ 1 đến 7 trước chương
địa hình, phần lớn là lược thuật tài liệu Việt
Nam War, giải tỏa ngày 25 tháng 6 năm 2007 và cập nhật thêm đến ngày 20 tháng 10 năm 2011, của
Bách Khoa Tân Thế Giới – New World Encyclopedia ).
Vào thập niên 1840 cho đến thập
niên 1880, thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam
qua nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa. Khi điều đình sau Thế Chiến Thứ Nhất (
1914- 1918 ) đưa tới ký kết Hòa Ước Versailles năm 1919, ông Hồ Chí Minh ( và
một số người quốc gia yêu nước khác ) khẩn cầu cầu một phái đòan Việt Nam được phép tham dự, hầu tiến tới phục hồi nền độc lập cho các xứ Đông
Pháp – Indochine francaise thuộc địa và bảo hộ. Nhưng yêu cầu bị gạt bỏ và tình trạng Đông Pháp cũng y nguyên như cũ.
Vào Thế chiến Thứ Hai ( 1940 – 45 ), chánh phủ
Vichy của Pháp hợp
tác với Nhật chiếm đóng Đông Pháp, sau ngày 22 tháng chín năm 1940, khi lực
lượng Nhật từ Tàu sang đánh bại quân Pháp thuộc địa ở Lạng Sơn. Tuy Pháp tiếp
tục những chức vụ cai trị chánh thức, thật sự Nhật đã kiểm sóat cả 3 nước Việt
Nam, Miên và Lào. Ông Hồ Chí Minh trở về Việt
Nam và thiết lập một nhóm kháng chiến chống Nhật ở miền Bắc,
với sự giúp đở của những tóan của Cơ quan các Sở Chiến Lược Hoa Kỳ - US Office of Strategic Services ( tiền thân của Cơ quan Tình
Báo Hoa Kỳ, CIA -Central Intelligence Agency ). Các tóan này họat động
sau lưng các hàng ngũ địch quân và hổ trợ các nhóm kháng chiến địa phương. Tháng
3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp thuộc địa và trả lại độc lập có phần hình thức cho Việt Nam
và vua Bảo Đại lập nội các “ độc lập” (
nhưng không có bộ quốc phòng, vì chưa tổ chức được ), thủ tướng là học giả Trần Trọng Kim. Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh. Các
nhà quốc gia – nationalists, các
nhà cọng sản – communists và một số người yêu nước Việt Nam khác, hy vọng nắm chánh quyền.
Quân đội Nhật giúp Việt Minh ( Việt Nam
Độc lập Đồng minh Hội), nghĩa là quân
kháng chiến của ông Hồ chí Minh ( HCM )và một
vài nhóm quốc gia Việt Nam đòi Độc lập, bằng cách
tống giam các chức quyền và binh lính Pháp thuộc địa và bảo hộ; giao
trả mọi cơ sở công cộng cho dân Việt. Sau khi vua Bảo Đại tuyên bố thóai vị, ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông HCM tuyên bố Việt Nam Độc Lập khỏi Pháp và lập chánh phủ do ông lảnh
đạo. Ở đám đông Ba Đình, ông HCM, một nhà
thiết lập đảng cọng sản Pháp năm 1920, đọc một bài diễn văn hào hứng sôi nổi, trích
nhiều đọan Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ - U.S. Declaration of Independence và một ban nhạc
thổi bài quốc ca Hoa Kỳ “ The Star Spangle Banner”. Ông HCM
tiên đóan là có lẽ Hoa Kỳ sẽ đồng minh với phong trào quốc gia Việt Nam, căn cứ
trên các diễn văn của Tổng Thống Hoa Kỳ
Franklin D. Roosevelt, người chống lại tái lập chế độ thực dân Âu Châu sau Thế
Chiến Thứ II.
Thế nhưng ở Hội Nghị Postdam,
Đồng Minh đã quyết định là Quân đội Quốc Gia Tàu – Nationalist Chinese và lực lượng Anh Quốc sẽ giám sát
giải giáp quân dội Nhật đầu hàng và đưa họ về Nhật.
Quân đội Tàu vào Việt Nam vài ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập và chiếm đóng
vùng miền Bắc, từ vĩ tuyến thứ 16 trở ra Bắc. Quân đội Anh đến miền Nam Việt Nam
tháng 10 năm 1945. Ở miền Nam ,
Pháp khẩn cầu Anh giao lại nền cai trị
cho họ. Ông HCM yêu cầu quốc tế cứu giúp chống lại việc Pháp tái chiếm, gồm
luôn cả một điện tín gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, hy vọng thuyết
phục Hoa Kỳ can thiệp.
Ở miền Bắc, Pháp điều đình với cả
chánh phủ quốc dân đảng Tàu lẫn Việt
Minh. Bằng cách trao trả Thượng Hải và
các nhượng địa ở Trung Hoa, Pháp thuyết phục Tàu cho phép họ trở lại miền Bắc
Việt Nam và điều đình với Việt Minh. Ông HCM chấp thuận cho phép
lực lượng Pháp đổ bộ ở ngọai ô Hà Nội, và Pháp thỏa thuận chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong
khuôn khổ Liên Hiệp Pháp - French Union. Lợi dụng thời cơ hòa
hõan đôi bên thảo luận, Ông Hồ
thanh tóan, thủ tiêu v.v.. mọi nhóm quốc gia đang canh tranh đối thủ Việt Minh.
Nhưng khi điều đình để ông Hồ lập một chánh phủ
trong Liên Hiệp Pháp thất bại, tháng 12 năm 1946, Pháp tấn công Hải Phòng, giết hại hàng ngàn người,
rồi tiến lên Hà Nội. Ông HCM và Việt Minh rút về các chiến khu núi non Bắc Việt,
tổ chức kháng chiến, làm thành Chiến Tranh Đông Dương ( Đông Pháp ) Thứ Nhất
- First Indochina
War. Sau khi Cọng Sản đánh bại Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch ở cuộc nội
chiến Tàu, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã có
thể viện trợ quân sự trực tiếp cho Việt
Minh. Và Việt Minh đã nhận được nhiều vỏ khí mới,tiếp tế và
chuyên môn cần thiết, biến họ thành một
lực lượng quân sự qui ước.
3- Chia đôi đất nước và Pháp rời bỏ Việt Nam 1950- 55
Cùng lúc Mao tiếp viện cho Việt Minh, Hoa Kỳ cũng viện trợ quân sự cho Đồng Minh
Pháp. Sau khi chiến tranh Triều Tiên
( Cao Ly – Đại Hàn) bùng nổ, Hoa Kỳ bắt đầu xem cuộc chiến
tranh Việt Minh kháng chiến chống thực dân Pháp, như thể là một thí dụ
khác cọng sản bành trướng khắp thế giới
do điện Cẩm Linh – Kremlin, Nga Sô lãnh đạo. Năm 1950, Nhóm Viện Trợ
Quân sự và Cố vấn Hoa Kỳ- U. S. Military Assistance anh Advisory Group ( MAAG
) đến Việt Nam để sàng lọc những yêu cầu
Pháp viện trợ, cố vấn chiến lược và huấn luyện binh lính Việt Nam. Năm 1956, MAAG nhận trách nhiệm huấn luyện quân đội Việt Nam . Tính đến năm 1954, Hoa Kỳ đã
cung cấp 300 000 võ khí nhẹ và liên thanh cùng 1 tỉ đô la Mỹ, để hổ trợ cố gắng
quân sự Pháp, hứng đở đến 80% chi phí
cuộc chiến tranh Đông Pháp.
Tướng Võ Nguyên Giáp và mặt trân Điện Biên Phủ |
Việt Minh đánh bại quân sự Pháp nặng nề ngày 7 tháng 5
năm 1954 ở Điện Biên Phủ. Sau Điện Biên Phủ, dân chúng Pháp không còn ủng hộ cuộc chiến tranh Đông Pháp nữa và ở Hội Nghị Giơ Neo – Genève, chánh phủ Pháp thiên
tả Mendes France điều đình một hiệp ước Hòa Bình với Việt Minh. Hiệp Ước này giúp Pháp rút khỏi Đông
Pháp và
giao trả độc lập cho ba nước Đông Pháp cũ. Tuy nhiên Việt Nam bị tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17: trên vĩ tuyến
17, Việt Nam thiết lập một quốc gia xã
hội chủ nghĩa ( Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ) và dưới vĩ tuyến một quốc gia không cọng
sản do vua Bảo Đại làm quốc trưởng. Nhưng ông Ngô Đình Diệm( NĐD) mau lẹ truất phế vua Bảo Đại và thiếp lập một quốc gia mới là Việt Nam
Cộng Hòa.
4- Đệ Nhất Cọng Hòa (
1955-1963)
Ngô Đình Diệm |
Bảo Đại |
Chống lại chánh quyền NĐD cai trị miền Nam, năm 1957, các cán bộ chìm
Việt Minh ở miền Nam không tập kết ra Bắc, chôn dấu vỏ khi để nổi lên, nếu như không có tuyển cử thống nhất đất nước, đã tổ chức nổi lọan ở mức độ thấp. Cuối năm 1956 , một lảnh tụ cộng sản miền Nam Lê Duẩn trở ra Bắc, khẩn
cầu Đảng Lao Động ( Đảng Cọng Sản ông
HCM đổi tên trá hình ) lấy lập
trường cứng rắn hơn về thống nhất Việt
Nam, nhưng Hà Nội vẫn còn e dè tung ra
một cuộc chiến đấu quân sự thực sự. Tháng giêng 1959, dưới áp lực các cán bộ
miền Nam đã được mật vụ chánh quyền miền Nam nhắm đích xác, Ủy Ban Trung Ương Đảng ra một quyết định mật cho phép dùng quân sự chiến đấu giải phóng miền Nam . Ngày 12 tháng chạp 1960, theo
chỉ thị Hà Nội, cọng sản miền Nam thành lập Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam - National Front for the Liberation of South
Việt Nam ( NLF ) để lật đổ chánh phủ Việt Nam Cọng Hòa. NLF gồm 2 thành phần khác nhau : các trí thức
miền Nam chống lại chánh quyền miền Nam
và là người quốc gia – nationalists
; đảng viên cọng sản ở lại miền Nam không tập kết ra Bắc năm 1954 và những người Cọng Sản từ Bắc mới nhập vào
Nam. Tuy có nhiều thành viên NLF không là
đảng viên Cọng sản, họ đều bị các cán bộ đảng Cọng sản giám sát chặc chẻ và càng
ngày càng bị đẩy ra ngòai khi nội chiến tiếp diễn, nhưng họ cũng đã giúp
cho NLF tô điểm cho mình một bộ mặt quốc gia rộng rải, thay
vì là một phong trào cọng sản. Phong
trào Bajaranca ( Ba Nà, Jarai, Ê Đê , Chăm …. ) là một thành phần của NLF ở Tây
Nguyên.
5- Chiến dịch Sấm Rền - Operation Rolling
Thunder 1965 – 1968 và trận Ia Drang, thật sự khởi đầu Chiến Tranh Việt
Nam- The Viet Nam War .
Tháng
hai năm 1965, căn cứ không quân Hoa Kỳ ở Pleiku
bị NLF tấn công hai lần, giết chết hơn một tá quân nhân Mỹ. Những tấn công du kích này khiến cho chánh
phủ Hoa Kỳ trả đủa bằng các oanh kích máy bay ( Chiến dịch Tên Lữa – Operation Flaming
Dart) ở miền Bắc. Chiến dịch Sấm Rền
là tên mã số một cuộc thả bom chiến lược
duy trì liên tục ở miền Bắc, do các máy bay Không Quân-Air Force và Hải
Quân- Navy Hoa Kỳ thực hiện, từ ngày 2 tháng 3 năm 1965. Mục đích nguyên
thủy là nâng cao tinh thần dân chúng
miền Nam và ra dấu hiệu cảnh cáo miền Bắc. Không lực
Hoa Kỳ hành động như thể “ một thuyết phục chiến lược – strategic persuasion” đe dọa chánh trị miền Bắc, âu
lo bị ném bom liên tục. Nhưng khi Chiến Dịch Sấm Rền không đem lại kết quả, các
mục tiêu đổi qua phá hủy ý chí miền Bắc đánh miền Nam bằng cách phá mọi cơ sở
công nghệ, mạng lưới giao thông và phòng không ( mỗi ngày một gia tăng ). Sau
hơn một triệu lần oanh kích và thả 750 000 tấn bom, Chiến dịch Sấm Rền chấm
dứt ngày 11 tháng 11 năm 1968 .
Từ cuối năm 1964, Miền Bắc đã gửi
quân đội tham gia trực tiếp ở Miền Nam . Vài chức quyền Hà Nội muốn xâm
chiếm ngay Việt Nam Cọng Hòa và một dự án được phát triễn dùng
những đơn vị Quân đội Nhân Dân
Việt Nam – People Army of Việt Nam (VPA/ PAVN ) phân
chia Cộng hòa Miền Nam ra 2 phần,
xuyên qua Tây Nguyên. Hai đối thủ ( Hoa Kỳ và PAVN ) du nhập vào miền Nam lần đầu tiên chạm trán nhau ở trong chiến
dịch tên gọi là Chiến dịch Lưỡi Lê
Bạc – Operation Silver Bayonet ,
thường được gọi là trận chiến Ia Drang. Ia Drang là một chi nhánh lớn của
sông Sesan – Srêpok chảy ngang qua phía Tây Nam tỉnh Gia Lai. Trong chiến trận
khốc liệt này, đôi bên đều học được nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học xương máu.
Quân đội miền Bắc, thiệt hại nặng nề, bắt đầu thích nghi với ưu
thế đè bẹp của không lực di động , cung
cấp võ khí và trực thăng đánh cận chiến
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nhận thức là quân đội
nhân dân Việt Nam ( VPA / PAVN ) không phải là những đám du kích áo rách khố
ôm – ragtag mà là một lực lượng kỷ
luật, đầy nhiệt huyết và thành thạo .
6- Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch 275 ( từ 4 tháng ba đến 3 tháng tư 1975 )
Tham chiến - quân
đội miền Bắc gồm 4 sư đòan bộ binh: 10,
320, 316, 968 và 4 trung đòan bộ binh
25, 95a, 95b, 271, cọng thêm trung đòan
đặc công 178, trung đòan thiết giáp 273 và các đơn vị binh chủng chuyên môn, kỷ
thuật.
- quân đội Cộng Hòa miền Nam gồm sư đòan bộ binh
23, lữ đòan dù 3 , trung đòan bộ binh 40 ( giai đọan phát triễn ), binh đòan (
trung đòan ) biệt động quân 4, 6, 7, 21,
22, 23, 24, 25, lữ đòan thiết giáp 2( gồm 4 thiết đòan ), cọng 30 tiểu đòan bảo
an và các binh chủng chuyên môn, kỷ thuật.
Văn Tiến Dũng |
Nguyễn Văn Thiệu |
Phạm văn Phú |
Còn Nga Sô thì cung cấp cho Miền Bắc dụng cụ thuốc men y khoa, vỏ khí,
máy bay , trực thăng, đại bác, hỏa tiễn bắn
từ đất – ground air missiles và
trang bị quân sự khác. Tính ra có đến 80%
mọi lọai võ khí miền Bắc xử dụng là do
Nga Sô cung cấp. Hàng trăm cố vấn quân sự được gửi đến Miền Bắc huấn luyện quân
đội nhân dân. Các phi công Sô Viết thường chỉ là các bộ huấn luyện, nhưng nhiều phi công đã làm các nhiệm vụ chiến đấu dưới
tư cách “ thiện nguyện – volunteer”
7- Hai mũi dùi đánh Khmer Rouge
( Đỏ ) Kampuchia, từ Pleiku và Ban Mê Thuật
Ngày 12 tháng tư 1975,
Cọng sản Khmer Rouge ( Đỏ ) chiếm Nam
Vang – Pnom Penh, thành lập nước Kampuchia
Dân Chủ – Democratic Kampuchia ,đưa nước Căm
Bốt vào một thời kỳ đen tối thảm khốc, vì Khmer Rouge buộc dân chúng phải rời
bỏ thành phố, thị trấn về thôn quê, bắt đầu xây dựng “ Thiên đường xã hội chủ nghĩa kiểu Mao Trạch Đông”. Tình nghĩa “anh
em xã hội chủ nghĩa” ở Kampuchia không lâu dài như ở Lào. Khmer Rouge có nhiều tham vọng
lịch sử chiếm lại đất đai Việt Nam, tấn công liên tiếp các vùng biên giới miền Nam Việt Nam, đặc biệt từ Tây Ninh đến
Hà Tiên.
Ngày 25 tháng chạp năm 1978, Hà Nội
tấn công” bè lũ phản động Pol Pot- Ieng Sary” Khmer Rouge, tung ra từ 10 đến 12 sư đòan quân đội nhân nhân VPA và ba trung
đòan – regiments Khmer ( các trung đòan này sau là hạt nhân của Quân
đội Nhân dân Khmer – KPRAF) , tổng cọng
chừng 100 000 người. Theo 5
mủi dùi vượt qua biên giới Miên Việt,
thọat tiên là ở Tây Bắc Cam Bốt. Một
đội quân, từ Buôn Mê Thuột tiến dọc theo quốc lộ 13 và quốc lộ 14 chiếm thị trấn Kracheh City, tỉnh lỵ tỉnh Kracheh. Đội quân thứ hai tấn công từ
Pleiku, theo đường vòng quốc lộ số
19 chiếm thị xã - tỉnh lỵ tỉnh Stung (
Stoeng ) Treng. Mục đích thứ nhất những
tấn công đầu tiên ở vùng Đông Bắc Cam Bốt là chiếm mau lẹ một phần đất đai Cam Bốt đáng kể, trước
đây là nơi phát sinh phong trào Khmer Rouge và quân đội
Kampuchia -RAK thành hình vào thập niên 1960. Vùng xa xôi hẻo lánh này cũng
khó lòng cho Khmer Rouge đuổi lui VPA,
dù cuộc chiến Miên Việt kết thúc ra sao đi nữa ( nhắc lại là thời gian này cả
Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc công nhận Khmer
Rouge, chống Việt Nam! ). Xâm chiếm sớm vùng
này có thể ngăn ngừa các đơn vị Khmer
Rouge tái chiếm Đông Bắc Cam Bốt, một vùng có nhiều dân chúng ủng hộ Khmer
Rouge. Tấn công còn có thể có ý định làm bối rối các lảnh đạo Kampuchia Dân
Chủ về mục tiêu chánh Việt Nam
tấn công. Tuy nhiên, các chỉ huy Khmer
Rouge không bị mắc mưu hai mủi dùi Việt
Nam tấn công Kracheh - Stoeng Treng, và
không cố tâm tăng cường bảo vệ Đông Bắc. Thay vào đó, Khmer Rouge dựng lên đường phòng thủ chánh ở các đồng bằng trồng lúa bằng phẳng phía Đông Nam Căm Bốt. Suy đóan Khmer Rouge về ý định
của Việt Nam rất đúng: lực lượng Hà Nội tấn công chánh là vùng Đông Nam.
Từ tỉnh Tây Ninh, các đơn vị võ khí mạnh
mẽ, dọc theo quốc lộ số 7 tràn tới chiếm
mục tiêu là cảng sông Kam (Kom ) pong Cham. Ở phía Nam, các đơn vị Việt Nam có phi cơ yểm trợ tấn công dọc theo quốc lộ
1, theo hướng Neak Luong ( Phumi Prek Khsay ), ngõ cửa trên sông Mê Kông đến
Pnom Penh ( Nam Vang ). Mũi dùi thứ 5, từ Hà Tiên tiến chiếm hải cảng Kampot và
KampongSaom , ngăn ngừa Trung Quốc ( ? )
tiếp viện lực lượng Khmer Rouge rút lui. Ngày 7 tháng giêng 1979, Khmer Rouge bỏ ngỏ Phnom Penh không phòng thủ
và quân đội Việt Nam
chiếm thủ đô này …
Địa hình, khí hậu
Tỉnh
Gia Lai cũng như các tỉnh Tây Nguyên khác
gồm địa hình cao nguyên và thung
lũng. Sau đây là mô tả địa hình khí hậu chiếu theo Thái Công Tụng (
Vietnammologica, 2005 ): Từ miền
núi cao phía Bắc Kontum, phía sau đồng
bằng Quảng Nam, giải Trường Sơn chạy dài từ Bắc xuống Nam, ngăn cách vùng Tây
Nguyên với đồng bằng duyên hải Trung
Việt. Giải núi này rất dốc về phía Đông vì gần
biển. Còn phía Tây nó thoai thỏai, tạo thành nhiều cao nguyên, trong đó có cao
nguyên Pleiku . Giải núi này cũng là
bức tường phân biệt khí hậu giữa Đông
Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Phía Đông
ở các đồng bằng duyên hải, mùa mưa trễ hơn, từ tháng 10 – 11. Trong khi
đó phía Tây, nghĩa là phía cao nguyên, mùa mưa bắt đầu từ
tháng 5. Nói một cách khác bên này là
mùa nắng thì bên kia là mùa mưa. ( thêm : cho nên mới nẩy ra hai câu thơ thời
miền Bắc thúc dục đi B, xâm nhập đánh miền Nam : “Trường Sơn Đông nắng , Tây mưa; Ai chưa đến đó thì chưa biết mình”)
.
Cao nguyên Pleiku diện tích 4 500 km2, cao độ trung bình 800m. Trước kia
là một vùng thấp, nhưng có dung nham núi
lửa phun trào lên, lấp lên khá dày, lâu ngày hóa thành đất đỏ. Hiện nay vẫn còn một đỉnh núi lửa đã tắt, ngọn
Chi Hdrung ( Hàm Rồng ) cao độ 1 028m. Quanh các ngọn núi lữa có những hồ miệng
núi lửa như hồ Do nau Eng Prong. Dạng vòm cao nguyên Pleiku tạo ra đường phân
thủy ( phân nước ) của hai lưu vực ;
phía Đông là sông Ba chảy xuống Tuy Hòa và phía Tây là lưu vực sông Mê Kong.
Phía Đông cao nguyên là những rặng núi granit và Rhyolit kéo dài của thượng Kontum ; quốclộ 19 từ
Qui Nhơn lên Pleiku phải xuyên qua đèo
Mang Giang ( cao 740m ). Phía Tây, cao nguyên Pleiku cao độ thấp hơn với
thung lũng Ia Drang, nơi xảy ra chiến trận khốc liệt Tây Nguyên năm 1965 đã đề cập ở trên. Giữa cao nguyên Pleiku và
Đắc Lắc là dãy núi granit Chư Pha, cao 922m, đầu nguồn sông Ea Hleo.
Thung lũng Cheo Reo – Phú Túc
( Phú Bổn ) cao độ 160m ở giữa rìa Nam
cao nguyên Pleiku, kéo dài đến gò đồi
đồng bằng Tuy Hòa. Hai sông lớn Pleiku là
sông Ba và Ea Ayunh chảy qua thung lũng
này. Thung
lũng An Khê , diện tích 600- 700 km2 , cao độ 400- 450m, giữa đường Pleiku đi Qui
Nhơn chứa nhiều lọai đất xám và có dòng
sông Ba chảy qua. Vì gần Bình Định nên dân cư phần lớn là dân Bình Định lên
khai phá thung lũng An Khê.
Về khí hậu, cao nguyên Pleiku mưa
nhiều hơn so với Ban Mê Thuột . Vũ lượng hàng năm Pleiku trung bình là 2450mm
so với trung bình 1900mm của Ban Mê
Thuột. Nhưng mùa nắng Pleiku lại gắt gao
hơn . Nhiệt độ trung bình Gia Lai – Pleiku thay đổi từ 21 đến 250 C , trung bình lạnh hơn
Ban mê Thuột – Đắc Lắc. Thung lũng Cheo
Reo vừa rất nóng và rất khô. Thung lũng này ở giữa hai dãy núi cùng hướng tây
bắc – đông nam, bị khuất gió mùa tây Nam lẫn gió mùa đông bắc nên rất khô hạn. Vũ lượng trung bình
thung lũng Cheo Reo chỉ có 1300 mm, như Ninh
Thuận vậy. Tuy nhiên Tây Nguyên có ưu điểm so với miền duyên hải Trung Việt là
không có bảo lụt ( chỉ đôi khi mưa lụt – flash flood chớp nhoáng),
không có gió Lào khô cháy, như Quảng Trị chẳng hạn.
. Sông ngòi
Cũng theo Thái Công Tụng, Gia
Lai có 2 hệ thống sông ngòi :
Hệ thống chảy về Biển Đông là sông Ba và hệ thống chảy về sông Mê kông
là sông Se San. Sông Ba phát nguyên từ
núi Ngọc Lĩnh thuộc Kontum, chảy theo hướng Bắc –Nam qua An Khê ( gần
thị trấn Ayunh Pa) đến Cheo Reo ( Hậu Bổn ), sau đó chuyễn sang phía Đông về Tuy Hòa. Sông Ba có nhiều nhánh phụ, nhánh lớn nhất
là sông Ea Ayunh . Hai nhánh lớn của sông Poko là sông DakBla dài 141 Km,
sông Sa Thầy cũng chảy qua Gia Lai một
phần nào, nhưng lớn nhất là ở hạ lưu Poko là sông Sesan, tòan lưu vực có tiềm năng thũy điện to lớn . Ở phía tây
Pleiku là sông Ea Hleo và hai chi lưu
là sông Ia Drang và Ia Sup , bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron,
chảy theo hướng Đông Tây rồi đổ về sông Srê Pok
sau đó chảy vào sông Mêkong ở Stung ( Stoeng ) Treng, Căm Bốt .
Danh lam thắng cảnh
Biển Hồ Gia Lai |
Hồ là miệng núi lữa, cách trung
tâm thị xã Pleiku chừng 5 km về phía Bắc.Tổng diện tích là 460 ha, 250 ha đầy nước. Núi rừng và rừng
thông vây quanh hồ, và hồ hình thuẩn chia ra hai phần vì một bán đảo nhỏ dọc
theo trung tâm hồ. Mùa mưa, mặt nước hồ lan rộng khỏang 400 ha và sâu chừng 40m. Một phía bên
hồ là một ghềnh đá basalt – dung nham. Hồ đã được mệnh danh là Hòn
Ngọc Pleiku –Pearl
of Pleiku. Rừng quanh hồ gồm nghiều lọai lan
rừng- orchids , hoa quì –
hướng duơng hoang dại wild sunflowwers và hoa báo xuân ( anh thảo) –primula. Bướm màu sắc sặc sở bay lượn dọc các dòng suối, đậu trên hoa, rồi lại bay đi khắp nơi.
Đôi khi gặp đò chèo độc mộc –
pirangua, đò thân gỗ đẻo ruột rổng tuếch, lượt trôi trên hồ. Rừng núi lân cận hồ còn chứa nhiều
lọai chim như chim cút –quails và ngỗng trời
– wild geese. Vài góc hồ trồng sen
càng làm cho hồ sinh động thêm. Người
lớn có thể nhìn mặt hồ bao la để quên
ngày mệt mõi. Thanh niên nam nữ có thể đến hồ ca hát, nhảy múa và hứa hẹn hôn
nhân những đêm trăng sáng. Năm 1988, hồ đã được bộ Văn Hóa xếp vào hạng cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp
quốc gia. Để khuyến khích du lịch sinh
thái, cơ quan văn hóa Gia Lai cấm không
cho đánh bắt hay nuôi trồng cá, sợ làm ô nhiễm nước trong vắt Biển Hồ vì nước hồ cũng là nguồn cung cấp
nước sạch, trong mát cho thị xã Pleiku. Và
đã từ chối nhiều dự án có thể làm hư hại môi sinh hồ như tiệm ăn, khách sạn,
công viên v.v… Du khách đến viếng hồ theo hai đường trồng thông xanh dọc theo đường
đến hồ. Cuối dốc là một tháp canh nhìn được núi ngoan mục và có đò thuê chèo quanh hồ rộng suốt mùa hè.
Gia Lai còn rất nhiều hồ lớn nhỏ khác do các đập thủy điện các sông Se San, sông Ba,
sông Ayunh tạo ra. Thác Phú Cường hay thác Ya li, ở
ranh giới tỉnh lỵ Kontum và
Pleiky trên sông Se San, cũng có một hồ lớn, nước hồ nay chuyễn hết cho đập thủy điện . Thác Xung Khoang trên sông Ia Drang, huyện Chư Prong, cách thị xã
Pleiku 30 Km về phía Tây Nam, cao 40 m. Nước thác chảy trên các lằn nứt đá tảng,
làm ra một dòng nước trong sạch có tường
vách gồ ghề bao quanh. Hai bên thác là
rừng cây cỏ nhiệt đới rậm rạp um tùm .
Công Viên Đồng Xanh |
Làng La Phum , cách Pleiku khỏang 2 km. Đi
theo đường quốc lộ số 14 chừng 16 km đến
thác Yali , rồi đi thêm 15 km đến trường
học Mo Nong, đi tiếp thêm 600 m, quẹo
phải dọc theo một lối mòn nhỏ hẹp là đến làng La Phum. La Phum là một làng cỗ
truyền Tây Nguyên. Ở giữa nhà Rong
và ở cuối làng là Làng người Chết-
Village of the Dead, còn có tên là Làng Thiên đường -Heaven Village. Nơi đây gồm 10 nhà dài, mỗi nhà chứa một tá hay hơn nữa bình đựng tro người chết. Bình rượu cần, cung và các vật dụng khác được
xếp hàng ngăn nắp. Một nhà khác chứa những
tượng gỗ phản ảnh đời sống hằng ngày.
Làng D’ ko Tu là làng tộc dân Ba Nà. Muốn đến làng này,
đi dọc theo đường Hùng Vương trên quốc
lộ 19 hướng về Qui Nhơn. Tới bảng chỉ đường cây số 33, đi thêm 500m nữa thì đến
làng D’ko Tu. Nhà Rong ở đây trang
trí đẹp đẻ, mái nhà mi cao ráo nằm giữa làng. Ở phía Tây là một vùng nhà mồ, nhỏ hơn nhà mồ tộc dân Gia Rai. Một trong số nhà mồ đặc
biệt trang trí sặc sở. Một cột nhà
nhỏ có hình dạng máy bay và hai mái nhà hình đò, thuyền. Vài nhà khảo cỗ
tin rằng tộc dân Ba Nà có thể gốc gác bờ biển miền Trung di cư lên cao nguyên .
Chùa Bửu Nghiêm của người Kinh xây cất năm 1964, ở số 200 đường Duy
Tân phường Diên Hồng thị xã Pleiku. Vài năm gần đây, trụ trì là hòa thượng
Thích Từ Hương ( ? ) cai quản chùa,
tiếp tục trùng tu, mở rộng chùa cũng như
tham gia các họat động văn hóa – cứu tế địa
phương.
Chùa Bửu Nghiêm |
Cũng không nên quên các di
tích lịch sử như căn cứ du kích của vua
Quang Trung Nguyễn Huệ, vùng đất liệt sĩ Núp,
nhà tù Pleiku, các địa danh chiến trận PleiMe, Cheo Leo và Ia Drang
.
Phần II :
Lạm bàn phát triển Gia lai – Pleiku
Cố
giảm thành phần nông lâm, tăng công nghệ xây cất và dich vụ, tăng lợi tức mỗi người dân, giảm tỉ lệ người
nghèo khổ…
Cho đến năm 2000, phát triển kinh tế xã hội Pleiku,
cũng như Kontum, Đắc Lắc theo phân chia thành 5 « vùng kinh tế lớn » của
Trung Ương Hà Nội năm 1982, thuộc vùng III, hay vùng Trung Bộ gồm 13 tỉnh cũ –
từ Nghệ An, TP Đà Nẳng xuống Khánh Hòa. Trung tâm Vùng III là Đà Nẳng. Diện tích 122 000km2 ,
dân số lúc đó 15 triệu người. Tuy chưa rõ nét và chưa đa dạng chuyên môn hóa chánh,
chủ yếu công nghiệp là chế biến nông lâm, hải sản. Công thương nghiệp vùng III tập trung vào các
thành phố có số dân trên 200 000, đáng kể là Vinh, Huế, Đà Nẳng, Nha Trang.
Thời gian này, Vùng III chiếm gần ½ sản
lượng bò cả nước, 40 % khối lượng hải sản đánh bắt, 1/3 sản lượng hoa màu ( quy thóc- lúa ), đậu
phụng (lạc ). Giao thông vận tải chủ yếu dựa vào 2 trục đường xe lữa và đường
bộ chạy dọc theo ven biển cùng với những cảng biển và sân bay chủ yếu phục vụ
vận tải trong nước . Riêng cảng biển Đà Nẳng, đến năm 2000 đón được tàu biển
nước ngòai, lọai 5000 tấn, năm 2000 đứng
hàng thứ 3 cả nước, công xuất 650 000 tấn , dự trù đưa lên tới 2 triệu tấn năm 2005 . Tưởng cũng nên nhắc
lại là vào thời kỳ « Chiến tranh
Việt Nam » cảng Tiên Sa ở Vịnh Đà
Nẳng, cảng an tòan nhất Việt Nam , có lúc đã đến công xuất 4-5 triệu tấn hàng hóa một năm, tàu trọng tải
30 000 tấn cập cảng dễ dàng, hệ thống kho, bải công ten nơ- container sử
dụng tốt.
Tính đến cuối năm 2010, chuyển
hướng cơ cấu kinh tế xã hội Gia Lai -
Pleiku đã giảm lảnh vực nông lâm chỉ còn 41.17 % , tăng công nghệ và xây cất
lên 31.14 % và dịch vụ lên 27.69
%. Năm 2002, tỉ lệ nông lâm 5 tỉnh
Tây Nguyên còn đến 65.2 %, năm 2008 còn 49.4 %.
Tỉ lệ công nghệ và xây cất, năm 2002
chỉ đến 14. 2 % và năm 2008 cũng mới đến 25.1 %. Dịch
vụ Tây Nguyên chiếm 20.6 % năm 2002, đạt 25.5 % năm 2008. Tốc độ tăng gia kinh tế năm
2010 là 13.2 %, nông lâm tăng 7 %, công
nghệ xây cất 18.8 %, dịch vụ 14.5 %. Lợi tức
mỗi đầu người – GDP per capita là 14.8 triệu đồng VN , tăng 18.9 %
so với năm 2009. Riêng tại thị xã Pleiku,
lợi tức mỗi đầu người đầu năm
2006 đã là 12 triệu đồng VN, tương đương
780 đô la Mỹ. Tuy có phần cao hơn lợi tức mỗi đầu nguời trung bình cho 5
tỉnh Tây Nguyên là 701 đô la Mỹ vào năm 2008 , nhưng con số này chỉ bằng
67.9 % lợi tức trung bình mỗi đầu
người tòan quốc. Mục tiêu năm 2011 cho
Gia Lai - Pleiku năm 2011 là tăng lợi tức mỗi đầu người lên 17.56
triệu đồng VN, giảm tỉ số người nghèo đói tỉnh nhà xuống 7.8 %(
theo tiêu chuẩn hiện hửu còn theo tiêu chuẫn cũ 2005 thì chỉ còn 3.9 %), tạo 23
000 công ăn việc làm, và tăng tỉ lệ rừng
bao phủ tỉnh lên 52.1 % .
Phát triển công nghệ, xây cất và dịch vụ
Trước năm 1957, nói đến Gia Lai -Pleiku, dân gian miền Nam đều nghĩ đến trà đen Bầu Cạn ( ? ) –
Catecka , song song với trà xanh Bảo Lộc làm một món quà dạm hỏi hay hôn
nhân. Sau thập niên 1980 , đặc điểm nhắc nhở đến tỉnh Gia Lai – Pleiku là cà phê, cao su
và đặc biệt là thủy điện.
Thủy điện
Tiềm năng năng lượng
thủy điện tỉnh Gia Lai được ước lượng là 10.5 – 11 tỉ kw-giờ năm 2005, đứng
hàng thứ nhì tòan quốc. Năm 2000, điện lượng Việt Nam tổng cọng là 28.5 tỉ kw -giờ
và công xuất thủy điện chiếm 60% tổng công xuất (chừng 5 triệu kw), công xuất nhiêt điện than đá
chiếm 14 %, số còn lại là tua bin khí
dầu và các nguồn khác.
Thủy điện Yaly |
Thủy điện Ya Li đã được công ty Nhật Nipon Koei khởi
sự lập dự án khỏang năm 1959- 1960
( ? ). Năm 2000, ở Gia Lai-Pleiku chỉ có nhà máy Ya Li, trên sông Sê San bắt đầu họat động. Tổng công xuất
Ya Li là 720 000 kw, điện lượng 3 684 triệu
kw- giờ ( kwh ) hòan tất tháng 4 năm 2992) . Giữa năm 2011, các nhà máy Sesan 3 ( 260 000 kw), Sesan 3A (100 000 kw), Sông Ba Hạ ( 220 000 Kw ), Plei Krong ( 100
000 kw), Sesan 4 ( 360 000 kw , An Khê – Kanak (Tú An ? 173 000 kw )
và Boun tu Srah ( 86 000 kw ) ,
đã họat động. Ngòai ra còn có 85 dự án
thủy điện trung bình và tiểu thủy điện cũng đã họat động ở tỉnh nhà. Trong khuôn khổ Chương Trình
« mới » Phát triển vùng Tam giác
Lào - Miên – Việt ,thành lập năm 2010 cho đến năm 2020, nới rộng thêm ba tỉnh Bình Phước ( Việt Nam), Kratíé ( Cam
Bốt ) và Champasak ( Lào ) thành 13 tỉnh, so với 10 tỉnh chương trình cũ
thiết lập năm 2004, gồm 4 tỉnh ở Việt Nam ( Kontum , Gia Lai , Đắc Lắc ,
Đắc Nông ), 3 tỉnh ở Lào ( Sekong , Attapeu, Saravan ) , 3 tỉnh ở Cam Bốt( Stung Treng,
Rattanakiri, Mondulkir; tổng công
ty Điện lực Việt Nam ( EVN ) sẽ làm dự án
Sesan Hạ 1/ Sesan 5 công xuất 90
000 kw ở biên giới hai nước Miên Việt, Sesan 2 Hạ ( 420 000 kw ) ở cuối sông Se San, ngòai các dự
án đang xây cất là Srepok 2 Hạ ( 220 000
kw ), Sesan 3 Hạ ( 180 000 Kw ), Preak
Liang 1( 64 000 kw ), Preak Liang 2 ( 64 000 Kw ) và Sam Bo,
phía trên Kratié, trên dòng chánh sông
Mê Kông ( 2 000 0000 kw ).
Năm 2000, Việt Nam đã cơ bản hình thành lưới điện quốc gia với đường dây
cao thế 500kv, dài 1487 km và đường dây
220 kv nối lưới điện Bắc Bộ với lưới điện Nam Bộ, đưa điện tới 90 % số huyện và
70% số xã trên cả nước. Đường dây chuyển
điện cao thế 500kv, mạch – circuit #2 đọan mới Pleiku- Dốc Sỏi ( ?) –Đà
Nẳng dài 297 km và mạch #2 đọan mới Pleiku
- Phú Lâm dài 542 km, mạch đôi dài 20 km
đọan Pleiku – Ya Li truyền thủy điện
Yali, nay đã hòan tất. Cải thiện mạng lưới điện ba thị xã Kon Tum , Pleiku và Buôn
Ma Thuột cũng đã hòan tất. Mọi làng Tây
Nguyên ở Tam giác Phát Triển đã được chánh phủ cung cấp ngân khỏan đầu tư , theo Chương Trình Cung
cấp Điện cho 1200 làng xã chưa có điện
Tây Nguyên. Việt Nam đã sẳn sàng
cung cấp điện cho Cam Bốt, từ cửa khẩu biên giới Lệ Thanh ( gần Đức Cơ ) tỉnh
Gia lai cho 2 quận O Yadao và Bar Kaeo
tỉnh Ratanakiri, theo lời yêu cầu của Căm Bốt. ( Nhắc lại Lệ Thanh- Chư Nghê ( ? ) là một trong những địa điểm dinh đìền thành
lập và sân bay nhỏ- airstrip Đức
Cơ cũng được thiết lập năm 1957 ở tỉnh Gia Lai.)
Nâng cấp các đường bộ
Những năm gần đây, Việt Nam đã thêm cố gắng,
trong khuôn khổ Phát Triển Tam Giác Lào - Miên -Việt mới – cũ, đầu tư vào những
dự án quan trọng nâng cấp các đường bộ, đặc biệt là đường Trường Sơn công
nghiệp ( đường mòn HCM ) - quốc lộ số 14 và nhiều quốc lộ khác như 14C, 19, 24,
25, 26, 27, 28, 40. Hầu như mọi đường thuộc hạng II, IV, V. Những đường
đi ngang qua thị xã tỉnh lỵ, huyện lỵ hay các thị trấn thuộc
hạng II hay thuộc lọai đường
phố thành thị. Các quốc lộ liên hệ đến Gia Lai -Pleiku là đường
dọc số 14 , đọan nối Kontum- Pleiku
- Ban Mê Thuột – Đồng Xòai, phía bắn kéo
dài tới Hà Tây – Hà nội, phía Nam nối với quốc lộ 13 để đến Sài Gon – TP HCM ;
ở khuôn khổ Tam Giác Phát Triển dài 545
km. Hiện nay là đường trải nhựa mới thuộc hạng III. Từ năm 2010 đến 2020, giai đọan 3 của dự án
đường HCM, đọan Ngọc Hồi (Plei Cần) – Bình Phước sẽ nâng cấp tiếp nối với
xa lộ Tây Trường Sơn. Đường xuyên
ngang 19 cũ từ Qui Nhơn qua An Khê,
Mang Yang, Pleiku, Ia Grai, Đức Cơ kéo dài đến Lệ Thanh , cửa khẩu biên giới
Miên – Việt ; sẽ nối với quốc lộ Cam
Bốt số 78 C từ ngã ba O Pong Mom qua hai tỉnh Rattanakiri và Stung Streng đến
vùng kinh tế của khẩu Lệ Thanh – Đức Cơ để nối với cảng Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Ở Tam gíác Phát triễn đường này dài 361 km ; 191 km từ O Pong
Mom trong lảnh thổ Cam Bốt đang xây cất : còn 170 km phía Việt Nam hiện đã trải nhựa xong thuộc hạng III. Đường 24, khúc xuyên ngang từ Thạch Trụ gần bờ biển biển Đông, ( tỉnh Quảng
Ngải thuộc số 31) qua Ba Tơ, khúc dọc chẻ hai từ Ba Vị qua Kbang mới
thuộc tỉnh nhà, cả hai nhánh đến
An Khê và giữa An Khê- Mang Giang thì
nhập vào số 19, nhánh chính đến thị xã Kontum
ngang qua thị trấn « Đà Lạt
Mới » Tây Nguyên là Măng Đen (
Konplong cũ ) , thuộc tỉnh Kon Tum.
Cao nguyên Măng Đen có nhiệt độ trung bình dưới 220 C , mới được phát triễn 5 năm gần đây còn giữ được 75% tổng diện tích thiên nhiên, còn nét đặc thù của hệ động vật – hệ thực vật nhiệt đới qúy hiếm, có rừng thông vi vu và nhiều suối đá, thác hồ như Đà Lạt Dak Ke, Pasih, Lô Ba, hồ Toong Dam, Toong Zơ Ri, Toong Pô … thơ mộng, nay có thêm vườn thú nuôi heo rừng thả rông, nai, gà rừng, nhím… và khu vườn thực nghiệm các lọai rau hoa xứ mát lạnh v.v… Đường 25 là con đường « đòan quân lệ rơi » rút lui năm 1975 , nối đường 14 từ Chư Srê ( Phú Cường ) - Ayunh Pa - Phú Túc (Krong Pa), Cũng Sơn - Tuy Hòa. Hiện tại, đang xây dựng đường Tây Trường Sơn và vài đọan dọc theo Hành lang Biên giới. Các tỉnh lộ và hương lộ cũng đang được cải thiện, nâng cấp từng bước một, để phát triển kinh tế xã hội, chống đói giảm nghèo Gia Lai mau lẹ hơn.
Cao nguyên Măng Đen |
Cao nguyên Măng Đen có nhiệt độ trung bình dưới 220 C , mới được phát triễn 5 năm gần đây còn giữ được 75% tổng diện tích thiên nhiên, còn nét đặc thù của hệ động vật – hệ thực vật nhiệt đới qúy hiếm, có rừng thông vi vu và nhiều suối đá, thác hồ như Đà Lạt Dak Ke, Pasih, Lô Ba, hồ Toong Dam, Toong Zơ Ri, Toong Pô … thơ mộng, nay có thêm vườn thú nuôi heo rừng thả rông, nai, gà rừng, nhím… và khu vườn thực nghiệm các lọai rau hoa xứ mát lạnh v.v… Đường 25 là con đường « đòan quân lệ rơi » rút lui năm 1975 , nối đường 14 từ Chư Srê ( Phú Cường ) - Ayunh Pa - Phú Túc (Krong Pa), Cũng Sơn - Tuy Hòa. Hiện tại, đang xây dựng đường Tây Trường Sơn và vài đọan dọc theo Hành lang Biên giới. Các tỉnh lộ và hương lộ cũng đang được cải thiện, nâng cấp từng bước một, để phát triển kinh tế xã hội, chống đói giảm nghèo Gia Lai mau lẹ hơn.
Công nghệ
Khác với Nam Lào , các năm 2004- 2007, dự án thăm
dò ước lượng bô xít do ngân khoản cấp không của Việt Nam trên một diện tích 30 000 km2 ở hai tỉnh Se Kong và Attapeu như khảo sát bô xít của nhóm
Đầu tư Việt Phương ở Đak Pok,
Sansay, Attapeu hay Công ty Liên Doanh
Lào – Việt Phát Triển Công Nghệ Sekong thăm dò bô xít ở Tha Teng tỉnh Se
Kong ; trong sự cộng tác với Căm Bốt,
Việt Nam chỉ tài trợ dự án « lập bản đồ Tài Nguyên Địa chất và Kim lọai » kích thước 1/ 200 000 cho vùng Đông Bắc Căm Bốt, và phần cộng tác
lớn đôi bên là thủy điện và đường bộ , dù rằng vùng này có thể chứa đến 305 tỉ
tấn bô xít lọai laterit như Tây Nguyên
và Quảng Ngãi -Việt Nam chứa 1,5 tỉ tấn bô xít có thể dễ dàng khai
thác ngay như ở Đắc Nông, Lâm Đồng. VINACOMIN cũng đã thiết lập một Liên
doanh thăm dò và khai thác quặng sắt ở
Sung Streng, ký kết một thỏa thuận thăm
dò và khai thác các nguồn quặng sắt ở An Long Chrey và Anlong Phe cũng ở Stung
Treng. Tỉnh Đắc Lắc, hơn là tỉnh Gia Lai, sẽ cọng tác với tỉnh Mondulkiri thiết lập một dự án đầu tư khai thác các nguồn kim lọai và vật liệu xây
cất ở Mondulkiri như thạch cương – granit, đá xây cất, đất sét …
Tham vọng thị xã- tỉnh lỵ Pleiku, tiến lên thị trấn hạng II nước nhà cuối
năm 2010, làm đầu tàu phát triển kinh tế xã hội tỉnh nhà
Từ năm 1991, thị xã Pleiku
đã 3 lần quy họach và điều chỉnh chương
trình đô thị hóa và phát triển kinh tế xã hội. Tháng 8 năm 2005, sau khi
được được bộ Xây Dựng ( Kiến Thiết) thỏa
thuận, tỉnh Gia Lai đã ra quyết định số 1004 thiết lập dự án chính yếu phát triễn Pleiku đến năm 2020. Theo qui họach này, thị xã Pleiku sẽ nới rộng
khu buôn bán kinh doanh thành một khu đô
thị phong cách cận đại và truyền thống
cho Tây Nguyên , bảo đảm đến năm 2010 Pleiku phát triễn mau lẹ và bền
vững theo trào lưu tân tiến Tây Nguyên và Việt Nam, hòan thành mọi tiêu chuẩn để xếp vào thị trấn lọai II nước nhà, vượt bực tiến thêm đến
cấp thành phố , loại thị trấn hạng I , năm 2020 . Năm 2005, Pleiku qui họach xây dựng hạ tầng cơ sở, tụ điểm trên phát triển
đường xá, cung cấp điện ,các dịch vụ bưu điện , viễn thông hầu mở rộng
thêm thị xã . Nới rộng tới Diên Phú, Chư
Prong, Trà Đa ( Da ? ) , Biển Hồ và
Chư A, đề cao bồi thường đầy đủ và dọn sạch ( ? ) vị trí xây cất các khu định cư và cư xá cũng như những cơ sở phức tạp công nghệ và
thủ công nghệ ., tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tại những vùng đã chấp
thuận cho phát triển. Đầu tư còn kêu gọi đặc biệt cho những dự án thiết lập những khu tiêu khiển gồm luôn cả một công viên văn hóa các tộc dân địa phương cũ, công viên Trà Đa, vườn hoa Diên Phú , công
viên Lý tự Trọng và vườn sinh thái cây –hoa Biển Hồ .
Trung tâm thị xã sẽ nới
rộng chiếm 13 000 ha. Phần dành riêng cho công nghệ tổng diện tích sẽ là 500- 700 ha. Các năm 2005 – 2010, thị xã đã đầu tư 7. 76 ngàn tỉ đồng VN và thu hút 10 ngàn tỉ đồng tư bản đầu tư cho phát triễn. Đến cuối năm 2010, Pleiku
đã có 1522 công ty công nghệ, tư bản đầu tư đăng ký lên
đến 29. 62 tỉ đồng VN. Trị giá sản
xuất công nghệ Pleiku, năm 2010, là 4.86 ngàn tỉ đồng VN, đạt 100 % mục tiêu ,
cao hơn năm 2009 23. 5 %. Công ty quốc doanh trung ương quản trị đạt
98.7 % mục tiêu, cơ quan quốc doanh địa phương quản trị đạt 127.6% , , tư
doanh 99.6% , nhưng đầu tư ngoại quốc chỉ đạt
65% , trụt mất 4.4 % so với năm 2009
. Đáng kể nhất là Tổ hợp Hòang Anh Gia
Lai , thành lập năm 1999 ở Chư
Drong, chủ tịch là Đòan Nguyên Đức
( ? ), một tổ hợp công ty đa ngành
– đa doanh, đã tạo uy tín trong nước và ngọai quốc về đồ mộc và vật liệu xây
cất bằng thạch cương - granit. Đồ đạc
gỗ ( tủ, giường, bàn ghế.. .), nhản hiệu Hòang Anh Gia Lai, đã bán ra khắp mọi tỉnh Việt Nam và đã thõa
mãn thị trường ngọai quốc ở Âu Châu , Mỹ
Châu, Á Châu, Úc Châu và Tân Tây Lan.
Tổ
hợp Hòang Anh Gia Lai còn còn tập
trung đầu tư vào lảnh vực xây cất bất động sản,
tỉ như lập khu thương xá , cư xá cao phẩm, cơ sở ,
phòng ốc làm việc và một dây chuyền khách sạn , nhà nghĩ mát tiêu chuẩn 4 – 5 sao, như tại Sài Gòn- TP
HCM, Đà Lạt , Nha Trang Đà Nẳng, Nha Trang, Gia Lai và Qui Nhơn, hầu
khai thác tiềm năng nước nhà về du lịch. Năm 2005, tổ hợp đã có 7000 nhân viên,
luân chuyễn vốn – turn over 1200 tỉ đồng VN . Ngòai các công nghệ nông lâm
, Gia Lai nên xúc tiến mau lẹ hơn nhà
máy xi măng dung tích 200- 300 000 tấn từ đá vôi địa phương, để cung ứng
nhu cầu các tỉnh miền Bắc Tây
Nguyên và các tỉnh Đông Bắc Căm Bốt, nhà
máy vật liệu granit - basalt… , và đặc biệt là các tiểu công nghệ sắc thái văn
hóa tộc dân địa phương Jia Rai, Ba Nà, mô hình lạ lùng . màu sắc rực rỡ như áo quần thổ cẩm, gùi, giỏ xách tay, bóp
ví, khăn bàn … Phát triễn điện năng mạnh mẽ với Cam bốt có lẽ Việt Nam cũng nên nghĩ đến thực hiện liên
doanh phức tạp tinh luyện alumina và chế tạo vật dụng aluminium ở Gia Lai hay
ở một tỉnh Đông Bắc Cam Bốt. Qui hoạch cho 2009 – 201 , dự liệu hòan
tất công
viên công nghệ Trà Đa, và vùng Thương mãi Quốc tế Biên giới ở Lệ Thanh , huyện
Đức Cơ. Tính đến tháng 7 năm 2011,
Gia Lai đã có 73 dự án công nghệ trị giá
11 ngàn tỉ đồng VN ( 650 triêu đô la MỸ ), tân trang 33 dự án cũ, hòan tất 20
và đang xây cất 20 dự án mới .
Bàn ghế Hòang Anh Gia Lai |
Trên phương diện dịch vụ, ngòai hạ
tầng cơ sở : điện, nước đường xá. viễn thông, bưu điện… đã kể trên, có lẽ nên kể thêm dự án nâng cấp phi trường dân sự Pleiku từ năm
2011 đến năm 2020 , tổng phí 2 200 tỉ
đồng VN, và Tổ hợp Hoàng Anh Gia Lai, cộng tác với Đại học Y khoa Sai Gòn – TP HCM, sau 3 năm
khởi công hy vọng sẽ khánh thành Bệnh
Viện Tổng Quát Tư Nhân Đầu Tiên ở
Tây Nguyên tại thị xã PleiKu vào cuối năm nay. Ngày 5 tháng 3 năm 2011, Hòang Anh Gia Lai và hai đại học y khoa và
dược khoa Sài gon và đại học Dược Khoa Lào ( ? ) đã ký kết
xây cất Bệnh viện Y Dược Hòang Anh Gia Lai cũng ở Pleiku . Năm 2010, bệnh
viện 100 giường bệnh cho cả các vùng ba biên giới Lào Việt Miên cũng
đã họat động ở Đức Cơ. Pleiku cũng nên tăng cường các trường huấn nghệ, dạy
ngọai ngữ… cho tỉnh và cho sinh viên Lào
và Miên nhiều hơn con số dự trù khiêm tốn là 20 người. Muốn tiến mau ở những ngành công nghệ mới,
nhất là lảnh vực công nghệ tri thức-cao kỹ, tất nhiên Pleku và tỉnh Gia
Lai phải nâng cao hệ thống giáo dục đại học và dạy nghề của
tỉnh.
Lễ hội đâm trâu ở Gia Lai |
Lễ hội giết trâu rất là phổ thông tại Tây Nguyên, thường tổ chức tại một nhà Rong. Sau khi cúng vái cầu khẩn các thần thánh đến dự, chứng kiến lòng dạ thành thật của dân làng và nhận đồ lễ , một con trâu được giắt đến giữa sân nhà Rong, rồi mọi người già trẻ nam nữ múa men theo điệu tiếng còng. Một nhóm giết trâu thanh niên trai trẽ cầm giáo mác xuất hiện và lễ giết trâu bắt đầu. Dân làng giết chết trâu xong, sẽ đem hy sinh cúng Giang – Thượng đế và bắt đầu ăn uống. Lễ giết trâu thường kéo dài hai ba ngày mới chấm dứt .
Không nên lơi là Nông Lâm Ngư
Năm 2005, Gia Lai ước lượng
còn 750 000 ha rừng thiên nhiên, trử
lượng gỗ gần 75 triệu thước khối , nhưng chưa đủ dùng cho công nghệ gỗ, đồ mộc
Việt Nam, một trong nhưng xuất khẩu lớn
nước nhà, phải trông cậy nhiều vào gỗ Căm
Bốt và Lào. Gỗ là một trong số 40vật
liệu hòan toàn giảm quan thuế, ( ngọai trừ thuế trên thuốc là vẫn còn theo
quota ) theo thỏa thuận tam giác Phát
triễn. Gia Lai còn có 450 000 ha đất phì nhiêu sản xuất cao năng cao su, cà
phê , tiêu, bắp ( ngô ) , khoai mì ( sắn)
, hột điều ( đào lộn hột ) và bông vải.
Các nông trang Gia Lai cao su, cà phê, tiêu đã mênh mông không kém
gì mấy Đắc Lắc , Bình Phước. Vì đã nói
nhiều khi đề cập đến các cây lâu năm này
ở các bài Bình Phước, Đắc Nông, Đắc Lắc…
nên không lạm bàn thêm nữa ở đây. Chỉ nói thêm là Thoả hiệp Tam Giác Phát Triễn
Mới, Cam Bốt cho phép các công ty cao su Việt Nam khai thác 22 800 ha (
2000 ha đã thực sự trồng xong, đầu năm 2011 ) và sẽ được cấp thêm 42 000 nữa các năm tới. Hiện nay ở Mondulkiri, các doanh nghiệp Việt Nam đang thực hiện xây cất cơ sở Trung tâm Thuơng mãi Cao su ở tỉnh lỵ tỉnh Mondulkiri, cũng như đang thực hiện Trung Tâm thử nghiệm 1200 cây các
giống cao su mới ở Pech Chan Da. Gia Lai
cũng cần nổ lực thêm ở ngành trồng tiêu,
trồng hột điều cải thiện, hầu chấm dứt nhập khẩu nguyên liệu hột điều Phi Châu
để xuất khẩu hột điều đốt lấy nhân hay
chế biến, tái lập mức xuất khẩu tiêu quán quân thế giới các năm trước. Về cà
phê cần bành trướng nuôi chồn hương đã có căn bản kỷ thuật ở Gia Lai sản xuất
cà phê cứt chồn cao giá như
Inđônexia : cố gắng cải thiện thêm
các giống cà phê chè - arabica hay cà
phê lai arabusta … hương thơm, cao
giá hơn cà phê vối – canephora – robusta Đắc
Lắc- Ban Me Thuột, vì cao nguyên Gia Lai Pleiku cao và mát hơn cao nguyên Đắc Lắc. Plei ku
trước đây không nổi danh có nhiều hồ như Kontum, nhưng nay đã thiết lập nhiều hồ thủy điện, nên khuếch trương nuôi cá
hồi nước ngọt hay các lòai cá
nước ngọt trung và thượng nguồn sông Mê Kông ( đã thí nghiệm thành công ở
Lào chẳng hạn ) , theo những mô hình vài tỉnh châu thổ Cửu Long Việt Nam …
( Irvine, ngày 31 tháng 10 năm
2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét