Việt Nam cần lưu ý nhiều hơn đến những
thuốc “ bổ sung - bổ dưỡng”… từ Trung Quốc, Đông Âu, Tây phương , có thể là thành quả rẽ tiền:
Tiến
bộ nghịch lý, bất hợp pháp ở ngành hóa học bóng tối làm steroids, ma túy …
G S Tôn Thất Trình
Ma túy Krokodil ăn thịt người nghiện |
Thuốc phiện ma túy Krokodil hay desomorphine tổng hợp dễ dàng
Chiếu theo tài liệu
đăng tải ở Nguyệt san Khám Phá , Hoa Kỳ số tháng 3 năm 2012, thì nay các la bô chế “thuốc” steroids, ma túy – narcotics, psychedelics đang
lan tràn tự do kín , bí mật khắp thế
giới .Thí dụ điễn hình nguyệt san nêu ra là khủng hỏang thuốc ma túy chế tạo tại gia – home brewed drugs ở Nga. Meth
tinh thể - crystal meth ở các la bô
kích thước nhỏ khắp nước Hoa Kỳ đang gây ra tổn thất lý học to lớn ,
làm thối hết lợi và hư hết răng các người sử dụng.
Krokodil làm thố da |
Thế nhưng ảnh hưởng xấu xa của meth không
thấm thía vào đâu so với thuốc phiện
– opiate chế tạo tại gia, chích
gân máu – intraveinous, nay ngập đầy
nước Nga. Thuốc phiện này có tên Nga là Krokodil
đến từ một dấu hiệu sử dụng rùng rợn
: mô thân thể quanh nơi chích thuốc chết đi và thành qủa
miếng da trở nên xám xanh và trổ vãy như
trên da cá sấu vậy đó . Chất desomorphine,
như tên gọi Krokodil trước đó, có thể nung nấu tại nhà, căn cứ trên một công
thức pha chế trên đường dây – on line , chỉ cần có sẳn các thành phần dự
liệu. Codeine, thành phần tích cực
được bán ngòai kệ hàng, khắp nước Nga ở các thuốc trị ho và diệt đau
đớn – pain killers . Các thành phần khác là những món có ở gia thất gồm
chất sơn làm lỏang, iodine và lân –
phosphorus đỏ, cạo từ các túi diêm giấy – matchbook. Krokodil là
biện pháp cuối cùng cho ai không mua được bạch phiến – heroin hay các
thuốc ma túy chích gân khác, theo lời nhà khảo cứu y tế công cọng người Nga, Kirill
Danishshevskiy. Giá nó chỉ 1/10 bạch phiến , nhưng hiệu quả ngắn hơn;
người nghiện phải tiêm thuốc 7- 10 lần một ngày mới qua khỏi cơn
nghiện. Dù rằng thống kê rất hiếm, Nga, một quốc gia 140 triệu dân, có thể có
đến 1 triệu người dùng krokodil, theo
ước tính của Anya Sarang, một nhà đề xướng y tế công cộng, đang họat động cùng các
tay sử dụng thuốc ở thủ đô Moscow. Độc hại
của thuốc có ảnh hưởng tàn nhẫn hơn kiểu da cá sấu nữa đó. Những vùng mô –
tissue có thể thối đi, có khi đến tận xương. Trong những ca nghiêm trọng,
xương cũng thối.Tay nghiện thường bị bó buộc cưa chân tay và dễ nhiểm bệnh thứ
cấp tỉ như ho lao. Sarang cho biết là
nhiều tay sử dụng bị mắc vào vòng
lao lung này đã phải chế thuốc và dùng thuốc; họ không đi khám bác sĩ, và nếu
vài người nghiện có đi khám bác sĩ đi nữa, các bệnh viện Nga không trang bị đủ
để giúp họ. Đời sống các tay nghiện
krokodil, sau khi họ dùng thuốc chỉ kéo
dài 2 năm thôi.
Hiện
phỏng ước có đến 3 triệu dân Hoa Kỳ sử
dụng bất hợp pháp các steroids đồng hóa để thân thể cơ bắp to lớn hơn
Steroids |
Không một ai mơ tưởng lớn thêm lên và chỉ tìm
ra một công ăn việc làm lương bổng thấp tại bang New Jersey,Hoa Kỳ chế tạo hóa
chất dùng làm thuốc gội đầu – shampoo
và keo tóc – hair gel. Lui lại về năm 1991, khi một cán sự la bô 24 tuổi, Patrick Arnold, đứng một mình trong phòng khuấy trộn
những tác nhân làm đặc quẹo trong
các vạc - vats chất dính – goo, còn rất nhiều thì giờ để phản
chiếu những xoắn vặn số mệnh đã buộc tội
hắn phải họat động ở một nơi “
không bao giờ có tí gì đáng ưa thích xảy
ra” trong một công việc “ không đi tới đâu cả thảy”. Phải mất hàng tháng
mới tìm được cách thóat ra, nhưng lối
mòn vẫn luôn luôn hiện điện trước mặt
hắn. Arnold là một kẻ say mê
nâng ( cử) tạ - weight lifter
, khổ sở vì thân thể trung bình từ lâu
không còn cộng tác với hắn trong cố
gắng muốn trở thành lực lưỡng hơn, to
lớn hơn. Ngay cả như thế, mỗi đêm sau khi làm việc, hắn tiến tới một trong số nhiều sân tập thể dục, nơi đây
hắn bơm thêm sắt - iron và thảo luận
cùng các tay lực sỉ cử tạ. Câu chuyện thường xoay quanh vấn đề steroids đồng hóa – anabolic. Arnold đã học
môn chánh là hóa học tại Viện đại học
New Haven
và bàn cải trong phòng cử tạ đã làm hắn suy tư.
Patrick Arnold |
Một buổi trưa sau khi bắt đầu các phản
ứng trong ngày khi làm việc, Arnold bước xuống hành lang đến thư viện hóa học trong tầng lầu la bô hắn và ngước đầu nhìn các
cấu tạo phân tử các steroids, nói đến
trong các tuần báo bắp thịt hắn mua. Steroids đồng hóa, chủ yếu là testosterone tổng hợp vừa mới được tuyên
bố là những chất kiểm sóat, cho nên có
rất nhiều thông tin về chúng. Rất mau lẹ thông
tin đập mạnh hắn: “ tôi ghét công việc tôi đang làm, tôi ngồi ở
đây, tôi đã có một la bô – tôi có thể tự mình chế tạo ra một vài điều này. Sẽ không một ai biết là tôi đang làm gì” . Arnold
thêm rằng các tiền thân của steroid hắn cần cho
các hóa chất la bô, có sẳn ở danh sách thường lệ hắn đặt mua xuyên qua
công ty, và không ai khôn ngoan hơn.
Tiến bộ chậm rì lúc đầu tiên. Thường khi
hắn đặt mục tiêu làm ra một sản phẩm hắn biết
phải tạo ra một cơ cấu tinh thể,
nhưng cuối cùng lại là một chất dầu dính
trong chai lọ. Theo Arnold đó là một dấu
hiệu “cẩn trọng” chớp sáng, một chỉ dẫn là những dơ bẩn tiềm năng độc hại và các chất làm phản ứng- reactants
còn sót lại đã sai lầm, không phân chia ra khỏi
chất pha chế – brew. Nhưng sau một thời gian hắn thành chuyên
viên dùng các chất hòa tan để rửa sạch
các chất dơ bẩn, các chất làm phản ứng và các hợp chất hắn làm ra càng ngày
càng trở nên trong suốt như nhũng tinh thể nước đá, chứng tỏ là độ thuần túy rất cao. Càng chủ trì, Arnold càng tăng thêm thích
thú trí tuệ. Rồi hắn dành 10 giờ một
tuần lễ thăm viếng các thư viện, lược
qua các môn bài tăm tối và các tạp chí
khoa học tìm kiếm những hợp chất có cơ cấu
phân tử đáng thám hiểm thêm. Cuối cùng, hắn dừng lại ở một công thức hắn tìm thấy ở một tạp chí
Thụy Sĩ, tên là Helvetica
Chimica Acta thời 1930, hắn
dịch bằng một tự điển Anh - Đức. Nó mô tả chi tiết
tổng hợp mestalonone , một
steroid đồng hóa đầu tiên trên thế giới. Arnold
hình dung là hắn sẽ làm một thử nghiệm tốt lần thứ nhất, vì ảnh hưởng của
steroid này đã được biết rỏ rộng rãi, khác hẳn vài hợp chất xa lạ hắn chế tạo
ra.
Ở la bô , Arnold quan sát các sản phẩm phụ xanh xanh rửa chảy và các tinh thể hình thành. Khi quang phổ kế khối lượng – mass
spectrometer trình bày một dáng giống y hệt dáng hắn đang tìm kiếm, hắn làm
hòa tan hợp chất trong propylene glycol,
một chất làm hòa tan không mùi, biến mestanolone
thành chất lỏng. Hắn làm ngay cách ăn uống
một ngày 75 milligram chất này.
Hắn nói: trong chất này không có thứ gì
làm tôi tổn hại cả. Nhưng tôi rất cẩn thận. Tôi giữ cho nồng lượng luôn luôn
luôn ở mức phải chăng. Tôi không dùng nó hơn vài tuần lễ.
Vài mức độ
không chắc chắn sánh ngang hàng
nhau như thế trên thế giới về cách
thức hóa học tự mình làm lấy- do –it
- yourself ( DIY )chemistry và một số
người theo thuật luyện đan kinh
doanh nổ bùng lên từ những năm Arnold
nuốt vào họng những pha trộn hóa học đầu tiên và tiếp tục trở thành một trong những nhà hóa
học ngầm danh vang ở Hoa Kỳ. Đây là một thủ tục đã có từ lâu: dưới hình thức
này hay hình thức khác, vài nhà hóa học đã họat động ngòai vòng pháp luật,
trước khi phát minh ra đèn đốt –
burner Bunsen. Nhưng Internet đã sinh ra một thời đại hòang kim hóa học bồn tắm. Trước đây chưa bao giờ dễ dàng thu nhận được những chỉ dẫn, phân tử tiền chất và những
khả năng chế tạo sản xuất những hợp chất
lạ lùng xa xôi, không điều hòa, kích thước đại trà hay in ra nhũng công thức thô hào cho các thuốc men bạn tự làm lấy. Thành quả, một thế hệ mới doanh
nhân hiểu biết Internet đã thả lỏng một
lọat dàn trải mỗi ngày mỗi đổi thay
những sản phẩm tại các chợ tạp hóa bán thuốc trong bóng tối, ở không gian
điều khiển học – cyberspace, trong khi các ác ôn ma túy sẳn sàng nung nấu ra những hợp chất đơn giản ở phòng bếp nhà chúng.
Những chất DIY làm thành một rặng dài kiểm
kê các thuốc sinh cường biểu diễn –
performance enhancing drugs các kẻ
bậy bạ( bừa bải ) ở sân thể dục đang cố
làm thân thể to bự lên, tiêu thụ từ một lựa chọn các hợp chất tác động đến trí tuệ cư xữ các thiếu niên nhảy nhót thử mẩu, đến những
ma túy lõi cứng các biến đổi tổng hợp
các kẻ nghiện ngập ma túy ngấu nghiến. Các người tiêu thụ thí nghiệm
những pha trộn hóa học không được điều hòa này
cư trú tại những thế giới khác
biệt nhau : sân thể dục, kẻ thèm khát điên cuồng và những gia thất tạo kết quả
một thời gian ngắn nhất, nhưng các thuốc ma túy thường lại được sản xuất với các tiền chất mua tại cùng nơi và phát sinh từ những công thức mua bán nhiều
cùng những vị trí web – websites. Chúng cũng mang theo vài hiểm nguy như thế .
Mức khéo léo và thái độ
cũa những nhà hóa học bồn tắm
thay đổi rộng lớn, không những gồm
các stuđiô ( xưởng nhỏ ) lọai hướng về khảo cứu
như Arnold, cũng như của những kẻ bất chấp nhẫn tâm và kẻ ngu si
tội đồ. Danh sách những hợp
chất chế tạo ở nhà có thể sai lạc thật
là dài dòng. Một thí dụ ghê rỡn đến
từ những thám hiểm hóa chất do Internet
hướng dẫn của những người tham vọng dùng methamphetamine.
Trong cố tâm tổng hợp meth tinh thể, các tay DIY này đã gây ra một
bừa bải nổ tung các xe móoc công
viên và thường thiếu sắc sảo
sản xuất ra thuốc ma túy phủ đầy các chất độc hại như acid hydroiodic. Cách tốt nhất lấy đi những phó sản độc hại
này là rữa sạch thuốc trong rượu cồn
– alcohol sử dụng một phểu Buchner, một thiết bị la bô làm chân
không đặc thù. Thế nhưng đa số nhà hóa học phòng bếp lại chưa bao giờ nghe nói đến nó cả. Khi
giai đọan thuần nhất hóa cuối
cùng này bị bỏ qua, các chất độc tố sẽ ăn mòn hết lợi, răng và màng bên trong má
người dùng: thành quả là điều kiện không
còn răng, hổng lỗ hết, có tên là “ mồm-
miệng meth mouth” .
Khuynh hướng đang tiến triễn mau lẹ là một
hạng hợp chất phức tạp các nhà hóa học đã được huấn luyên như Patrich Arnold
đang cố gắng tìm kiếm những steroids lạ lùng hay những hợp chất ma túy mới
mẽ. Chỉ trong 2 năm qua, sử dụng các
chất kích thích tổng hợp sản xuất ra
các chất tương tự meth cao độ, bán ra thị trường dưới tên “ muối tắm – bath salts” bùng nổ mạnh mẽ. Trong năm 2010, 41 chất
ma túy – psychoactive substances mới
đã được các quốc gia Âu Châu báo cáo, nghĩa là gấp 3 lần số lượng xác nhận năm
2008, chiếu theo báo cáo của Trung
tâm Theo dõi Ma túy và Nghiện Ma túy Âu
châu – European Monitoring Centre for
Drugs and Drug Addiction. Hoa Kỳ
không có thống kê tương tự nhưng những
chất ma túy này cũng cuối cùng hiện diện ở Hoa Kỳ. Những chất mới gồm những dẫn xuất – derivatives của PCP và cocaine – côcain cũng như
các dạng mới của cần sa – cannabinoids tổng hợp, những hợp chất tương
tự tetrahydrocannabinol,
thành phần tích cực của cần sa – marijuana .
Rất nhiều các chất ma túy này là những hợp
chất ít ai biết tới, chọn lọc từ những
tạp chí khảo cứu tăm tối , lọai những tuần san Thụy Sĩ Arnold tham khảo. Trong khi vài steroids đã đăng tải nguồn gốc một đường mòn khảo cứu, đa số các chất ma túy mới chưa bao giờ được thử
nghiệm trên con người, mãi cho đến khi
chúng xuất hiện trong các câu lạc bộ hay các tiệc tùng. Khi những công thức này lọt vào dòng chánh, chúng
thường biến thành virus xuyên qua các vị trí web nơi các nhà hóa học và các doanh nhân mọi màu sắc
trao đổi công thức.
Cuối cùng ra, những thuốc ma túy này có thể được các nhà hóa học thuê mướn ở Trung
Quốc sản xuất đại trà ( số lượng lớn ), quảng cáo trên trang web là “ tổng hợp hửu
cơ thường lệ - custom organic synthesis” và nhận đặt hàng từ nhóm các nhà hóa học
vô lại xuyên quốc gia – transnational
đang trổi dậy.Theo Nathan Messer, chủ tịch tổ chức bất vụ lợi Dancesafe, cung cấp thử nghiệm ma túy tại các
lễ hội và tiệc tùng,” ở đây có rất nhiều
người khôn ngoan biết cách nào đọc các trang hóa học. Họ thường bắt đầu tự làm và
nếu thành công họ sẽ kiếm khế ước
ở Trung Quốc, thiết lập một dây chuyền phân phối, mua từng khối và bán ra”.
Ảnh hưởng của những thuốc ma túy mới không được điều hành trên thân thể như thế nào thì điển hình cũng chưa ai biết rỏ. Chúng thường được lựa chọn vì các cơ cấu hóa
học giống như các thuốc ma túy bất hợp pháp, tỉ như MDMA ( thuốc
xuất thần, mê ly – ecstasy ), “nhạy cảm – speed”, hay côcain, nhưng
cũng đủ khác biệt hầu được xem là hợp
pháp hay có thể mua bán ở Hoa Kỳ “ như thể
không cho người dùng” với một
thóang tín nhiệm . Vài người bán chúng hy vọng
là phân biệt này sẽ giúp họ tránh khỏi một luật 1970, cho phép chức quyền khởi tố những thuốc gần như tương tự các chất bị cấm lưu hành, nếu chúng chủ tâm cho con người dùng. Đối với các nhà
hóa học ngầm, hướng cố gắng vào thị
trường song song cho các thuốc sinh cường hiệu quả, vặn xoắn vài phân tử hay nung nấu một hợp chất mờ tối, đa số dân
gian không biết rỏ hiện diện, làm cho
một chất cấm dùng các nhà thể dục chuyên nghiệp không dò ra được, vì chưng họ cần một mẩu quy chiếu mới nhận ra nó. Lọai hóa học phòng bếp này có những thành quả rất tai hại. Suốt 2 thập
niên 1970 và 1980, hàng tá các người sử dụng thuốc đã tiêu thụ nhiều mẻ thuốc
làm tại gia lọai thuốc phiện tổng hợp tên gọi là MPPP gây cho chúng những triệu chứng của bệnh run rẫy Parkinson.
Nguyên nhân là một sai sót hóa học thú vui thế tục. pH
trên một phản ứng quá thấp bé nhỏ, khiến cho thuốc ép ra một
phân tử duy nhất nhỏ của acid
propionic, biến nó từ một chất ma
túy uy vũ thành một thuốc độc để lại phế
thải ở các chất nhận –receptors dopamine
nảo bộ .
David Nichols, giáo sư khoa dược học Viện
đại học Purdue biết rỏ điều gì sẽ xảy
ra, khi khảo cứu các hóa chất len lõi
vào các la bô ngầm. Ông đã mất hàng chục
năm cho chuột ăn LSD , mescaline, các dẫn xuất MDMA trong một cố gắng làm đồ bản các chất nhận của nảo các chất ma
túy hành động trên đó. Ông họat động bằng cách vặn
xoắn các cơ cấu hóa học của thuốc, đôi
khi thay đổi chỉ vài phân tử để xem ảnh
hưởng là gì trên tương tác giữa thuốc và các chất nhận của nảo, các hợp chất bà con thường hành động trên đó.
Thọat tiên Nichols nhận thức là
các nhà hóa học bậy bạ ( bừa bải ) đã theo dỏi khảo cứu của ông làm cách
đây hơn 10 năm rồi, khi một dẫn xuất chất xuất thần- mê ly tên gọi
là 4- methyl thioamphetamine ( MTA) xuất hiện tại một câu lạc bộ Âu Châu. Trên
một bài bản đã đăng tải, Nichols báo cáo là
chuột thử nghiệm đã được huấn luyện
ấn vào một đòn bẩy khi được
cho MDMA , cũng
đụng vào nút khi cho MTA. Điều này tuồng như đã đủ gây chú ý
nhà hóa học bậy bạ đang tổng hợp thuốc
tái mệnh danh nó là flatliners và bán nó ở Hòa Lan. Lựa chọn tên này là một báo hiệu bệnh họan.
Đến năm 2002, flatliners đã giết chết ít nhất là 6 người. Nichols tin
rằng họ chết vì dùng quá liều serotonin, một chất phát truyền dây thần
kinh, có thể đưa tới giảm nhiệt nguy hiểm – hypothermia , bắp thịt suy nhược,
và lên cơn động kinh. Thật ra flatliners
không giải tỏa dopamine và norepinephrine phần lớn tạo ra ảnh hưởng
sảng khóai của ngất ngư -mê ly. Nhưng
như chất làm xuất thần mê ly, nó giải tỏa ra những nồng lượng lớn serotonin, và can
thiệp vào các cố gắng làm suy nhược thân thể. Tuồng như đúng là những phản ứng
Nichols ghi trên chuột, khiến chuột nhận thức ra, chạy lẹ đến serotonin do MDMA
gây nên. Nichols tin rằng khi một lượng đầu tiên của flatliners thất bại
không sản xuất được sảng khóai như
xuất thần mê ly, các người dùng ma túy
mong chờ, họ tăng thêm nồng lượng và tăng mãi cho đến
khi thuốc giết chết họ.
Dù chết chóc có
bi thảm mấy đi nữa, Nichols lại lo âu về
điều gì sẽ xảy ra khi các hợp chất ngầm gây
ra các biến chứng ít rỏ rệt hơn và khá lâu hơn mới phô bày ra. Ông nói: đây là lo sợ lớn nhất của tôi. Hãy
giả thiết là ai đó đang chế tạo một thứ
gì như thể thuốc xuất thần- mê ly ? Và
đó là một thành công lớn cho họ.
Nhưng không biết được cách gì thuốc phản
ứng trên phần còn lại của thân thể. Hãy giả thiết là nó giết chết tế bào lá
lách – pancreas hay một bộ phận nào khác ? Và giả thiết
là dân gian dùng thuốc này mỗi cuối tuần ? nếu một cặp nào đó chết thì vẫn gần như không giống thảm kịch, khi cả trăm ngàn người bổng nhiên cần phải cấy tim.
Mike Cole,
nhà khoa học ngành pháp y ở viện
Anglia Ruskin, Cambridge ,
Anh Quốc đã làm khảo cứu cho thấy là
Nichols đúng lý lo âu vấn đề.
Cole đã nghiên cứu một lọai thuốc phát triễn chống lại sâu ký sinh trùng ở ngành chăn nuôi
súc vật. Nay thuốc đã được sản xuất khối lượng lớn ở Đông Á và được
rao bán tại các buổi tiệc tùng Cựu
Kim Sơn – San Francisco và vài nơi
khác như thể là một thay thế “ hợp
pháp” và “an tòan” cho thuốc xuất thần –
mê ly. Tên thuốc là benzylpiperazine, chế tạo ra không khó khăn gì mấy. Chỉ cần một
nhà hóa học khởi động một phản ứng giữa hai hóa
chất trong một chai lọ -flasks làm nguội chúng cho đến khi
các hợp chất phối hợp thành các tinh thể và
thuốc kết tủa ra ngòai .
Nhưng thuốc kết tủa, Cole đã chứng minh ở
la bô, có thể rất độc hại cho thận. Cole
nói: “ nếu bạn gíup việc cho một công ty
hóa học, , bạn sẽ phải làm sạch cho sản
phẩm cuối cùng. Nhưng các kẻ ngòai đường phố
không lý gì đến điều này cả . Chúng đang cố tâm làm lời tối đa và bạn có thể
phải chịu những ảnh hưởng độc hại, khi không thực hiện tiến trình làm sạch sản phẩm. Trong khi đó, rất nhiều steroids xây dựng thân thể lực lưỡng đã cho
thấy là gây ra các rối lọan gan và
thận và
đàn ông không sinh con được.
Những biến chứng này xảy ra tùy
thuộc về sức mạnh và liều lượng tiêu thụ các hợp chất, và ai ít biết rỏ các lọai sreroids này thì lại càng khó
dùng cho đúng liều lượng. Ảnh hưởng sau
nhiều năm dùng các ma túy mới này cũng
rất khó qui định. Theo Charles Yesalis, giáo sư danh dự Viện đại học
Penn State ,
một chuyên viên sáng giá nhất về
steroids, chúng ta chưa làm nghiên cứu tính cách dịch tể
ảnh hưởng dài hạn. Và nếu chúng ta
không biết các ảnh hưởng dài hạn
của những thuốc “đã biết” của
những công ty dược phẩm thì chắc chắn là
chúng ta sẽ không biết các ảnh hưởng của các thuốc “chưa biết”.
Tiếp
tục câu chuyện Patrick Arnold ...
Một tuần sau khi Arnold
dùng nồng độ đầu tiên mestanolone lỏng, đời sống hắn thay hay đổi hẳn. Số lượng hắn dùng tăng mãi đến
gần 15 ki lô. Chẳng bao lâu áo quần hắn chật ních, và bắp thịt hắn phồng
to lên cao, trỗ nhiều gân xanh mới. Biến đổi lý học này không còn dấu diếm được
nữa, ai cũng thấy, nhưng hắn bất cần. Arnold trở về lại bang Connecticut và học cao học Hóa học ở viện đại học tiểu bang.
Hắn cũng gia nhập nhóm bàn cải trên
Internet về thể dục sung sức và cử tạ. Dân gian bắt đầu tìm kiếm các
lời hắn khuyên răn. Nhất là
tay xây dựng thân thể Dan Duchaine, tác
giả Sách Sổ tay Hướng dẫn Steroids Ngầm - The Underground Steroids Handbook . Duchaine đã bị ở tù 2 năm, vì buôn bán
steroids. Duchaine giới thiệu Arnold
với Ramlakhan Boodram, một doanh nhân xứ
Trinidad, có xí nghiệp chế biến đậu nành và nông
cơ ở thị trấn Champaign, bang Illinois
và chế tạo các bổ sung dinh dưỡng
cho bạn Duchaine. Arnold
di chuyễn về miền Trung Tây Hoa Kỳ, thiết
lập một la bô ở đồng trồng bắp ( ngô ), cố tụ
điểm trên một môn bài hắn tham khảo qua các
trích yếu hóa học. Môn bài đến từ
một công ty dược phẩm Đông Đức tên gọi là Jenapharm , sản xuất đa số các hợp
chất steroidal, dùng làm chương trình quốc gia kích thích – ma túy cho các lực
sĩ quốc gia nguyên là Cọng sản này. Môn bài Jenapharm là hợp chất androstenedione, môt tiền chất tự
nhiên của testosterone các tuyến thượng thận – adrenal glands , nghĩa
là ngọc hòan ( hòn dái ) và buồng trứng sản xuất ra. Andro tổng hợp đã được sử dụng rộng rải như
là môt tiền chất steroids ở các la bô.
Môn bài lưu ý là nếu nuốt hormon
này, chính các enzymes của thân thể sẽ
xúc tác các phản ứng chuyễn hóa andro thành
testosterone , trên lý thuyết
cung cấp các lợi lộc sinh cường hiệu năng - performance enhancing, tương tự các steroids xuất dẫn
từ chất này ở la bô.
Khi Andro Arnold bán ra thị trường, uy vũ của Andro
lan tràn mau lẹ ở cộng đồng các lực sĩ, và danh tiếng Arnold nổi lên như cồn. Arnold đã lợi dụng danh vang này để kiếm
tiền. Hắn tham khảo lại các tạp chí, rà dò các trích yếu làm các chuyễn
hóa xảy ra tự nhiên, có cơ biến
thành testosterone khi nuốt vào họng.
Hắn sản xuất ra được nhiều tiền hormon. Năm 2003, hắn và đồng bọn thiết lập một la bô khảo cứu tân
kỳ lớn, có máy phép sắc ký khí – gas
chromatograph và nhiều khí cụ phân
tích khác. Năm 2004, lợi tức la bô lên đến 12 triệu đô la Mỹ một năm.
Xì
can đan các lực sĩ chóp bu dùng ma túy – steroids…. tổng hợp dễ dàng
Tammy Thomas |
Đúng như Arnold nghi ngờ, norbolethone quá mờ tối khiến cho các chương trình ( dò) ma túy
chuyên nghiệp không có mẩu quy
chiếu và như vậy không thể dò ra nó. Chính Victor
Conte, một doanh nhân táo tợn, đã đẩy xa hơn các giới hạn mờ tối này.
Ông làm chủ một trung tâm thể thao- dinh dưỡng ở thị trấn Burlingame , bang Ca Li có tên là Balco – labô hợp tác xã vùng Vịnh
Cựu Kim Sơn. Qua Balco, Conte bán các bổ sung hợp pháp kẽm – magnesium , hiệu quả đáng đặt vấn
đề và chiêu mộ các lực sĩ
chóp bu đề xướng các bổ sung. Trong
số các lực sỉ siêu sao thực sự phải kể ra Marion Jones, sau đó trở thành nữ lực
sĩ chạy lẹ nhất thế giới và đọat 5 mê
day ở một cuộc thi đua Thế Vận Hội và Barry Bonds sau đó phá kỷ lục ghi bàn ở bóng chày – base ball
trong một mùa tranh đua. Ngòai cung
cấp các thuốc bổ sung cho các lực sĩ này, Conte cũng cống hiến những steroids bí mật, bất hợp pháp bên cạnh
thuốc bổ sung.
Conte nghe phong phanh là chức quyền
đã kề cận và yêu cầu Arnold
tìm một hợp chất thay thế. Arnold liều đánh cờ bạc
làm một di chuyễn hiếm có và táo
bạo ở ngành hóa học ngầm. Hắn chế tạo một steroids hòan tòan mới mẽ. Hắn tra
cứu Chỉ dẫn Merck Index, một cẩm
nang quy chiếu tiêu chuẩn cho hóa chất,
thuốc ma túy và nhiều hợp chất khác và
đọc chương nói về hạng hormon liên quan tiền chất
norbolethone. Hắn hy vọng tìm ra
một tiền chất khác có thể biển thành một steroid, sử dụng cùng một tíến
trình phân tử dùng làm ra norbolethone.
Ngoại
nguồn ngày nay các chất steroids , ma túy tổng hợp …. là ở Trung Quốc
Don
Catlin, thiết lập viên La Bô Phân tích
Thế vận hội của viện đại học UCLA ở los
Angeles, và là người cuối cùng đa xác định chất “trong sáng” của Arnold
nói rằng hiện có hàng trăm steroids đã biết rỏ và ai đó có thể suốt đời
ra công tìm kiếm chúng, thao tác chúng
và biến chúng thành dạng có thể dùng trên con người. Arnold nói là khi thao tác
các chất bổ sung riêng mình, hắn và
Boodram là những biệt lệ trong ngành công nghệ này. Hầu như ngày nay
không còn một ai chế tạo steroids hay các chất bổ sung nữa, vì công việc
ngọai nguồn -outsource job đã làm ở Trung Quốc. Trên tư thế là một
nhà hóa học ngầm được kinh nễ, vài
khi Arnold
được vài người khác trong ngành công
nghệ mời thử các sản phẩm họ đã làm ra ở các xưởng máy Trung Quốc. Hắn nói rằng các xưởng Trung Quốc hay thay thế các steroids rẽ tiền cho các steroids
đắt tiền; đôi khi còn bán các sản phẩm vô nghĩa - crap mà ngay chính Arnold cũng không tìm ra các
đặc điểm ở các dụng cụ phân tích của hắn.
Vấn
đề tương tự cũng phát hiện cho một làn sóng mới
các chất hóa chất ma túy tổng hợp
đại trà ở ngòai Hoa Kỳ. Ít nhất là đã có
5 người chết và hàng tá phải nhập bệnh
viện, hợp chất tên gọi là Bromo-
Dragonfly ( Rồng Bay ), phát minh lần đầu tiên ở labô Purdue của Nichols và
nay chế tạo ở miền Tây Trung Quốc. Trên
một mẽ chết người năm 2009, một
người ở thành phố San José, Bắc Ca Li chết,
sau khi dùng Bromo chế tạo ở Trung
Quốc, chứa đựng “những dơ bẩn -
impurities tổng hợp không đặc thù”
Cho nên
góp phần vào tính cách độc hại của sản phẩm, chiếu theo trang web Erowid người dùng
thuốc ngầm. Kẻ phân phối nó đã
gửi thêm nhiều chất mẽ này đến các người tiêu thụ khác ở Đan Mạch và Y
pha Nho, gây ra ít nhất một người chết
khác và nhiều người phải chở đi bệnh
viện. Tháng 5 năm 2011, một nhà chế tạo Trung Quốc gửi đến một sinh viên ỏ bang
Oklahoma, một mẽ dán sai nhãn hiệu của Bromo, khi sinh viên này đặt mua một sản
phẩm ít uy vũ hơn. Thành quả là có thêm
hai người chết và nhiều nguời khác phải đi bệnh viện, khi họ dùng quá liều.
Thực tế thay đổi của một thế giới mà khảo
cứu hóa học hợp pháp có thể bị bất cứ ai
cướp đi, chỉ cần có một đĩa nóng hổi và một mối nối Internet, đã khiến cho
Nichols phải tái xét tài năng mình. Ông họat động gần gủi Cơ quan Cưỡng bức Thuốc Ma túy – Drug
Enforcement Agency để theo dõi các hợp
chất mới và biết rỏ hơn những hậu
quả khảo cứu của ông khi trở nên công cọng. “
nay khi tôi đăng tải, tôi phải suy tư là liệu chúng có trở thành vấn đề
không đây ? nếu chúng tôi đăng tải
một chất tương tự LSD , 10 lần mạnh hơn
LSD , tôi cam đoan là sau 6 tháng nó sẽ tràn đầy trên Internet. Nichols tin rằng
công trình ông sẽ giúp giải thích trí nhớ , trầm kha, ngay cả tính chất của hồi
tỉnh. Ông nói : khoa học phải tiếp tục và
ông không thể ngừng xuất bản. Nhưng nay ông biết là ai có thể đọc bài ông xuất bản” .
( Dịch xong ngày 29 tháng 2 năm 2012 ở Irvine, Nam Ca Li – Hoa Kỳ )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét