Thử nhìn xem họ làm gì cho Phát triển tương lai Hoa Kỳ
và Việt Nam tiến
triển ở các ngành này đến mức nào rồi :
10 nhà khảo cứu trẻ tuổi sáng chế lỗi lạc Hoa Kỳ có thể thay đổi thế giới
G S Tôn Thất Trình
Sau đây là 10 nhà khoa học Hoa Kỳ
được nguyệt san Khoa Học Phổ thông- Popular Science Hoa Kỳ vinh danh năm 2012 trong số tháng 10 năm 2012
.
1- Chói sáng nơ ron – neurons để xem chúng bốc cháy lên như thế nào: Adam Cohen 33 tuổi, thuộc đại học Harvard.
Năm 13 tuổi, Cohen muốn có tiền mặt mua mua một máy hiện sóng dao động –
oscilloscope. Sau đó Cohen đã làm cha mẹ ngạc nhiên lang thang ở phòng
khách với một máy EKG- điện tâm đồ làm tại gia
dán liền vào ngực. Cohen nhớ lại
: cha mẹ tôi hơi lo sợ tôi bị điện giựt
chết, nhưng ngòai việc này họ ủng hộ tôi .
Nay Cohen là
giáo sư hóa học tại Harvard, vẫn còn bị lòe mắt
về các tín hiệu điện – đặc biệt
với học hỏi cách nào chúng truyền đi trong nảo bộ. Theo truyền thống , các nhà khoa học cấy các
điện cực hầu đo lường các họat động nơ ron, nhưng phương cách này chỉ đọc được vài tế bào cùng một lúc thôi .
Cohen muốn công nghệ hóa mọi nơ ron làm
chúng sáng rực lên khi chúng bốc cháy. Muốn
làm như vậy, ông biến một protein một vi trùng đem về từ Biển Chết – Dead
Sea ở biên giới Israel va Jordan
thương dùng để chuyễn hóa ánh
sáng mặt trời thành các electrons . Ông nghĩ rằng , có thể nó họat động ngược lại, biến các đẩy tới
điện thành những tia ánh sáng lóe lên. Một trong những tiến sỉ
làm việc với ông, nhét gen vào một virus và làm lây nhiễm các nơ ron chuột cấy vào, làm chúng sản xuất protein . Một đêm khuya
năm ngóai, các cố gắng của họ có kết quả : các nơ ron cách ly này, đi rất nhanh ở các điện cực để cảm ứng ra một
đẩy tới dây thần kinh, nhấp nháy như thể
những đèn bé tí xíu đêm Giáng Sinh.
Một khi Cohen cũng
cố xong tín hiệu protein, khiến nó họat động trên
cụm tế bào lớn hơn, các nhà khoa học dây thần kinh – neuroscientists
sẽ đủ khả năng sử dụng kỷ thuật này để
nghiên cứu những mạch vòng nơ ron phức tạp và thử nghiệm cách nào các
dược liệu ảnh hưởng đến nảo bộ. Nhưng
Cohen - cất giữ một liệt kê ý kiến các
dự án đang chạy kể từ khi ông mới lên 10 tuổi – hy vọng sẽ giải đáp các vấn đề khác nữa. Ông nói : “ nếu tôi có thể góp phần cho cung cấp năng lượng Hoa Kỳ, hay điều hòa môi trường , thì thật tốt lắm .
Tôi có vài hệ thống sắp đặt trước dỡ hơi.
2- Huấn
luyện máy vi tính – computers xác định dân gian: Deva Ramanan, viện đại học UC Irvine .
Năm nay 33
tuổi. Deva Ramanan bấm nút MacBook Air
của ông và một viđêô bắt đầu chơi : cô Michelle Kwan đang trựợt
nước đá ở Thế vận Hội Nagano năm
1998. Kế cận là một lập trình
computer chiếu ra cái gì máy “nhìn xem được” ở cảnh phim: đầu, chân cẳng, thân hình, cánh
tay trên và cẳng tay của Kwan: mọi phần
đều phân biệt bằng màu sắc khác
nhau. Ramanan, một nhà khoa học computer, viện đại học UC Irvine, đang huấn luyện máy computers nhận diện con người
theo 3 chiều- three dimensional
humans ở các hình chụp bằng phẳng.
Phần mềm nhận diện mặt, xác định chính
xác cách bố trí cổ điển mắt – mủi - miệng, đã được sử dụng từ lâu rồi. Nhưng dò ra thân thể người - bất cứ ai- là
một thách thức lớn hơn cho computers vì vô
vàn kiểu đứng ngồi, góc cạnh, kích thước
, trang bị khác nhau. Đa số các nhà khảo
cứu châm vào một lập trình hàng triệu hình ảnh để ghi nhớ, xây đắp một căn cứ
dữ liệu dân gian bao la. Thay vào đó,
Ramanan lại huấn luyện cho lập trình computer của mình xác định các bộ
phận thân thể và sánh chúng với khâu mẩu – template con người dễ uốn nắn. Ông nói : “ bạn có thể nghĩ đó là
một lề lối chia rẽ và chinh
phục”. Phần mềm chạy xuyên qua một bảng liệt kê : tay, thân mình và cẳng chân.
Dừng lại. Như vậy, đó là một con người. Phương
pháp Ramanan mau lẹ hơn và sử dụng ít
điện hơn là phương pháp truyền thống.
Ramanan hình
dung nhiều ứng dụng tiềm thế cho những algorithms tìm người của ông, kể luôn cả những hệ thống
mau lẹ và chính xác dò ra kẻ đi bộ ở các xe hơi không người lái( tự lái lấy
) và những hệ thống trò viđêô –
videogame theo dấu các chuyễn động tòan thân thể. Trong lúc đó , ông còn tụ điểm dạy cho computers cách nào đọc và hiểu ngữ cảnh , nói một cách
khác là làm computer suy tư. Ông hỏi: “ nếu bạn thật sự muốn hiểu ai đó đang làm gì; không phải chỉ hiểu đây là tay, nhưng là người đó đang chờ xe
búyt” . Nếu những dự án tương lai của ông thành công , khả năng lý luận của
computers sẽ tiếp tục đến gần hơn nữa đi vào chính ngay nảo bộ con người.
3- Tiết lộ bí mật của hê thống máu đóng cục trong thân thể: Christy Haynes, Viện đại học Minnesota.
Năm nay 35
tuổi. Các tế bào máu con người được hiểu
rỏ khá tốt đẹp. Nhưng không tốt với các bản máu – platelets, những đĩa
bé tí không có nhân – free nucleus
, di chuyễn trong máu và đóng một vai
trò then chốt điều hòa đóng cục – clotting. Bản máu chỉ ít hơn 1/5 kích thước một tế bào máu đỏ điển hình. Và
mãi cho đến khi nhà hóa học viện đại học Minnesota Christy Haynes khởi sự
nghiên cứu chúng, các nhà khoa học không có cách nào nhìn thấy cái gì đã xảy ra trong đó.
La Bô của
Haynes lần đầu tiên thành công cách ly
một bản máu cá nhân trong kính
hiển vi, đặt một điện cực bé nhỏ vào đó và
đo lường các phân tử chất truyền tin – messenger molecules, được giải
tỏa khi tế bào được kích thích hóa học. Kỷ thuật này giúp cho Haynes một cái nhìn
cách nào bản máu nói chuyện cùng
nhau và cách nào các nhà khoa học có thể
thao tác chúng để kiểm sóat hình thành
máu đóng cục , phát triễn những phép chửa trị các rối lọan bản máu, và có lẽ làm ngừng lan
tràn ngay cả u ung thư nữa. Haynes nói : “ nhiều người nghĩ rằng các bản máu
hành động như thể các ngựa thành Troy – Trojan horses . Chúng tuần hòan qua dòng máu bạn, khóat chòang
các tế bào ung thư và thân thể
bạn bạn không dò ra chúng được.”
Thêm vào
nghiên cứu các bản máu, Haynes còn cố tâm
tạo ra một kiểu mẩu hệ thống miễn nhiễm trong một chip – vi xử lý vi tính, sẽ
làm minh bạch cách nào các tế bào miễn
nhiễm liên lạc với nhau . Bà thành công, theo lời của cố vấn cho bà làm tiến sĩ Richard P. Van
Duyne của viện đại học Tây Bắc - Northwestern
University, là nhờ họa kiểu thí nghiệm
nghiêm khắc chặt chẻ và sáng tạo
của bà. Bà có một ghi chép theo dấu đồ sộ, có đủ khả năng làm thí
nghiệm họat động ngay từ lúc đầu.
4- Làm đồ bản chất liệu ở tận bìa vũ trụ : Anze Slosar, La bô Quốc gia ( Hoa Kỳ ) Brookhaven
Năm nay 34
tuổi. Phần xưa nhất vũ trụ, cách đây 10 tỉ năm ánh sáng – light year
bừng cháy với siêu sáng chói quasars và
các tập hợp khuếch tán – diffuse
aggregations khí hydrogen . Anze Slosar, nhà vũ trụ học - cosmologist tại La bô Quốc gia Brookhaven ở New York, muốn làm đồ bản bề trải rộng này theo 3-D.
Slosar tìm kiếm và vẽ mô hình
những dao động tỉ trọng tuần
hòan của chất liệu , cô đọng lại sau Nổ
Vang – Big Bang. Nhiều người
khác đã làm đồ bản cơ cấu này cách xa
đến 6 tỉ
năm ánh sáng bằng cách quan sát
cách nào các thiên hà – galaxies cụm
lại nhưng ở bìa vũ trụ xa xăm, thiên hà
quá mờ không nhìn thấy được.
Hầu vượt qua thách thức này, Slosar sử dụng một
kỷ thuật mới nhiều người hoài nghi là có cơ họat động được: thay vì vẽ đồ
bản ánh sáng con người nhìn được, ông và
các cộng tác viên nhìn vào bóng mờ các đám khí mây to lớn tạo ra, khi chúng ngăn cản
ánh sáng đến từ các quasars xa xăm. Những tháng đầu, dữ liệu tuồng như rất hổn độn
để làm đồ bản ,và Slosar lo lắng trong
cơn hỏang sợ thường xuyên rằng ông sẽ
thất bại . Cần đến nhiều vòng
vắt véo tóan học để dỗ
dành ra một tín hiệu hiện thời. Nhưng khi ông làm xong, dữ liệu của 14 000
quasars viễn vọng kính BOSS ở bang New Mexico giúp ông đủ khả năng sản xuất ra một bản
đồ lớn nhất từ trước đến nay của cơ cấu
vũ trụ xưa cũ- cách đây giữa 10 đến 12 tỉ năm ánh sáng- giúp cho các nhà khoa
học nhìn được bên trong những gì vũ trụ tuồng như thế , ngay sau khi nó bắt đầu.
Slosar nói: tôi nghĩ dó là cái gì vũ trụ trông tuồng như thế cách đây xa xăm. Tôi quá sung sướng, cho nên tôi mở ngay một lon bia và ngưng họat động cả ngày
còn lại .
5- Làm teo nhỏ các tế bào mặt trời xuống kích thước một lóe sáng lấp lánh: Greg Nielson La bô Quốc gia -Hoa Kỳ Sandia
Năm nay
Nielson 38 tuổi. Nielson đẩy một vò nhỏ
chứa đầy rượu cồn xoa bóp qua bàn ông ở La Bô Quốc Gia Sandia. Trong vò trôi nổi những tế bào mặt trời sáng
chói kích thước một lóe sáng lấp lánh. Ông
nói: nếu bạn có được những pannen như
thế trên chóp Walmart, bạn sẽ có hai lần nhiều điện hơn ( các photovoltaics qui ước ) và phí tổn hạ
xuống chỉ còn phân nữa. Sáu năm qua Nielson đã họat động đầy kịch tính, cố
làm giảm kích thước các tế bào mặt trời hầu làm chúng bền vững hơn, hửu hiệu hơn và phí tổn hiệu lực hơn.
Khi Nielson sinh ở bang Utah đến Sandia năm
2004, ông là một trong những nhà khảo cứu dẫn đạo của các hệ thống điện -cơ
học -vi tiểu quang học – optical microelectro-mechanical, sử dụng ánh
sáng đẩy chạy các máy móc bé tí xíu. Năm
2005, một số điện thọai sai lạc dẫn ông tới ngành điện mặt trời. Một trong số những nhà khảo cứu lảnh đạo mặt trời của Sandia là Vipin Gupta, ngẩu nhiên gọi sở
Nielson làm việc. Rồi thì hai nhà khảo cứu nói chuyện cùng nhau, Nielson cho
biết: tôi tìm thấy là các vật liệu silicon chiếm đến 40- 50% tổng phí các pannen mặt trời. Bằng cách dùng
các kỷ thuật chế tạo vi tiểu vay mượn công
nghệ điện tử, ông khám phá là ông có thể làm các tế bào mặt trời, sử dụng 100 lần ít silicon hơn, để sản xuất
ra một số điện tương tự .
Ngày rày, Nielson hướng dẫn một nhóm 30 nhà khảo cứu họat động trên lóe
sáng lấp lánh mặt trời, có thể cải thiện đáng kể hửu hiệu
của các photovoltaics mềm dẽo. Nielson cũng đang cố gắng hội nhập lóe sáng lấp lánh thành những điện tử tiêu
thụ. Ông nói: chúng ta có thể cung cấp điện nơi nào chúng ta cần điện, nếu bạn
không sống trong hang động không có ánh sáng ( mặt trời).
6- Dạy rôbốt học hỏi từ con nguời: Andrea Thomaz, Viện đại học Georgia Tech
Năm nay 36 tuổi. Rôbốt tên là Simon vừa học xong một
kỹ xảo mới: chuyễn một khối đỏ từ tay này qua tách cà phê cầm ở tay kia. Nhưng cũng như một trẻ em háo hức trước tuổi đi học,
Simon muốn biết nhiều hơn nữa: Hắn hỏi:
“ tôi có thể bắt đầu từ đây không ?” khi
nâng khối lên cao. Simon có 2 cánh tay, 8 ngón tay, mắt hươu cái và giọng nói
đều đều. Theo mỗi câu hỏi và trả lời, hắn đang làm cái mà nhà rôbôt học Andea
Thomaz gọi là “ bào chuốt ra xa không gian giả thuyết” hay lọai bỏ thông tin không khẩn thiết. Theo
lời Thomaz, “ ý kiến là nếu
bạn nói hắn điều gì, hắn sẽ hỏi vài câu,
bạn cung cấp vài thí dụ, rồi hắn xây đắp một kiểu mẩu. ” Nếu
trao đổi tiến bộ êm ả, thời gian sắp tới Simon
sẽ xếp áo quần bạn đó.
Dùng Simon làm sinh viên cho mình, Thomaz đang định nghĩa lại cách nào rôbốt
và con người tương tác nhau. Thomaz
nhìn thấy một tương lai nới đó bất cứ một “kẻ sử dụng ngây ngô – naive user” thế nào đi nữa ( hay một kẻ không biết làm
lập trình – non programmer ) có thể
mua một rôbốt đem về nhà và chỉ thị nó làm hầu như bất cứ điều gì. Nhưng nếu
điều này thi hành được, rôbôt cần
phải suy nghĩ như một kẻ sử dụng ngây
ngô. Cho nên Thomaz mời dân gian ngoài đường
vào dạy Simon ở la bô viện Georgia Tech. Các bài học gồm mọi điều, từ
dọn dẹp bàn ăn đến lựa chọn các vật thể theo màu sắc. Căn cứ trên thành quả, Thomaz
vặn véo những algorithms của Simon, biến hắn thành một kẻ truyền đạt và học hỏi
hửu hiệu.
Với số rôbôt lớn thêm mãi ở ngành
săn sóc y tế - health care và với
hứa hẹn là chúng ngày nào đó, sẽ trợ giúp người già cả và tật nguyền, sự dính
líu của rôbôt rất đồ sộ cho bất cứ ai và
cũng huấn luyện được trên bất cứ lọai
rôbôt nào. Thomaz nói: “ mọi người đều
khác nhau, mọi gia thất đều khác nhau, cũng như mọi phòng sở, mọi bệnh viện.
Tôi muốn là ai đó cũng có thể nói: Nè, robot, nơi đây là cách nào các điều đó đã
xảy ra ở đây.”
7- Lập trình các robot nanô DNA để giết ung thư : Shawn Douglas, viện đại học UC San Francisco
Năm nay 31
tuổi. Shawn Douglas lớn lên xây dựng R/C xe hơi và máy bay, sử dụng khéo léo
ông lượm lặt từ cha là một thợ sửa chửa
máy móc. Hai chục năm sau, ông vẫn còn
ráp máy móc, chỉ khác là nay chúng chỉ
là một phần tỉ kích thước làm từ DNA và vẽ kiểu ra để phá hủy các tế bào ung
thư.
Các la bô
khác đã họat động với DNA để xây dưng những dạng khác biệt nhau, một
tiến trình hội thọai gọi là xếp giấy
thành hình-origami DNA , nhưng đa số sản xuất ra những vật thể không có chức năng. Ở viện đại
học UC San Francisco cố gắng làm các xếp có một sứ mệnh. “ Ông là kẻ đầu tiên
thực hiện mơ ước một công ten nơ thực sự
, làm lập trình được để cung cấp các
phép chửa trị các tế bào một cách có mục
tiêu”, theo lời Paul Rothemund, một kỷ sư
hóa sinh tại viện Caltech.
Các máy nanô của Douglas trông như một vỏ sò, cả
hai mảnh vỏ xiết chặt vào nhau bằng hai bộ
của hai sợi kép DNA quấn nhau và bên trong chứa đầy các kháng thể -
antibodies hay các phân tử thuốc. Khi DNA nối dính vào các protein của tế bào mục tiêu, tỉ như ung thư, hai sợi kép này mở
phécmơtuya ( khóa kéo ) và vỏ sò
mở toang để giải tỏa chất tải. Cách chửa
trị bằng thuốc mục tiêu như thế sẽ đòi hỏi những nồng lượng các hóa chất giết
bệnh và như thế cũng sản xuất ít biến
chứng khó chịu hơn.
Douglas hy vọng kỷ thuật na nô sẽ hút dẫn
nhiều thế hệ mới kẻ sửa chửa. Ông nói: “ tôi
muốn được các sinh viên đại học đến đây với nhiều ý kiến mới lạ và làm
ra mọi lọai cái ngữ khích lệ. Năm ngoái,
ông tung ra BioMod , một tranh đua trong đó sinh viên tự xây đắp những máy nanô
của mình. Cho đến nay đã có 25 nhóm ký tên.
8- Vi khuẩn dây nóng để xây dựng bán dẫn : Mohamed El – Naggar, viện Đại học USC – University of Southern California.
Năm nay 32
tuổi. Mohamed El- Naggar nói : “ Mọi điều tôi làm là tìm xem điều gì vi trùng có thể làm mà chúng ta không làm được và rồi hình dung cách
nào chúng làm. Ông kéo lên những hình ảnh
của các vi khuẩn – bacteria
kỵ khí trên computer ông ở đại
học USC. Lọai bọ vi khuẩn này hết sức thông thường, theo lời ông: “ nếu bạn đào
vài cm đất mặt vườn nhà bạn, chắc chắn là bạn tìm thấy chúng.”
Hàng chục năm qua, các nhà khoa học đã
biết là các vi khuẩn kỵ khí đất vườn có
thể di chuyễn electrons đến đá tảng cứng
rắn và sự chuyễn giao này làm ra
một sạc- charge điện nho
nhỏ. Nhưng chánh xác cách nào chúng làm
như vậy thì hiểu biết rất nông cạn cách
đây ba năm, khi El-Naggar khám phá ra cách vi khuẩn nuôi dây nanô- nanowires protein
để chuyễn con thoi electrons qua
vùng xung quanh. El- Naggar cho biết đây là phẩm chất chúng ta quen thuộc với dây đồng
trong gia thất chúng ta. Nhưng với một phân tử sinh học làm được như thế , thì thật là điều bất
thường.
La Bô El- Naggar hiện đang cố gắng thu thập chuyễn hóa của vi trùng để chạy các linh kiện điện và xây dựng những cơ cấu nanô – nanostructrures. Họ đã chắt ra được khả năng vi trùng sử dụng electrons từ thạch tín( asen ) – arsenic
và lưu hùynh- sulfur để làm ra
các bán dẫn arsenic – sulfide
semiconductors sơ khai. Mục
tiêu kế tiếp là sử dụng chuyễn hóa này xây dựng những bán dẫn chế tạo
những kỷ thuật năng lượng sạch, tỉ như
tế bào mặt trời. Nhưng chính những con bọ mới làm lóe mắt El-Naggar. Ông nói: “ Điều kích thích tôi hơn
các ứng dụng nữa là ý niệm căn bản vài
sinh vật cổ xưa nhất trên hành tinh đã hình dung ra những kỷ xảo hửu hiệu để di chuyễn
đến xung quanh các electrons, lâu ngày trước khi con người xuất hiện.
9- Biến các điện thọai thông minh ( tinh khôn )
thành những linh kiện y khoa: Aydogan Ozcan,
viện đại học University of California Los Angeles- UCLA.
Năm
nay 34 tuổi. Độ nữa tá đồ gá – gadget
bằng plastic, kích thước bàn tay, la liệt
trên bàn Aydogan Ozcan ỏ sở làm UCLA.
Mỗi linh kiện là một lọai khí cụ chẩn đóan y khoa rẽ tiền khác biệt
nhau. Nhiều lọai chứa một kính hiển vi không
có lăng kính – lens free , Ozcan sáng chế ra. Và mọi linh kiện thảy đều
trông cậy vào sức mạnh của điện thọai tế bào.
Ozcan nói: “ nếu bạn cọng chung lại mọi
kiến trúc sau lưng một điện thọai tế bào- điện tử, quang học, phần mềm, liên
kết – connectivity -chúng chứa một hứa hẹn
phi thường để dùng làm ra một cương lĩnh diễn đàn.
Ozcan
là một kỷ sư điện, lớn lên ở Thổ Nhĩ Kỳ, nơi ông thấy những tiên tiến y khoa đôi khi không đến được các vùng nông thôn. Nhiều nơi trên thế giới, bệnh tật không bao
giờ được chẩn đóan cả. Các linh kiện y
khoa Ozcan có thể giải đáp điểm này. Chẳng hạn, một nhân viên săn sóc y
tế nông thôn có thể nhỏ gịot máu vào một bản kính – slide và chất tải nó vào một kính hiển vi, cài đặt
trên máy điện thọai kiểu Ozcan. Máy chụp
hình của máy điện thọai chụp bắt một hình ảnh của mẩu, sẽ được dùng để qui định
chẩn đóan. Một trong những linh kiện Ozcan
đọc những thành quả của các thử nghiệm chẩn đóan mau lẹ và một app ( ứng
dụng ) giải thích chúng gần như tức khắc
.
Dữ liệu
không những chỉ ích lợi cho các con bệnh cá nhân. Ozcan cũng đã phát triễn những bề mặt chung Bản
đồ Google Maps để ghi nhớ những
thành quả thử nghiệm, có thể dùng để theo dấu lan tràn địa lý các bệnh lây nhiễm. Theo lời Ozcan,
chúng sẽ cho chúng ta những dữ liệu
phong phú, sẽ giúp chúng ta hiểu biết
những điều trước đây chúng ta chưa hề biết.
10 – Tạo ra một đạo quân rôbôt tự trị: Edwin Olson, viện đại học Michigan.
Năm nay
35 tuổi. Ở một la bô rộng lớn đầy ánh sáng mặt trời tại viện đại học
Michigan, Edwin Olson ngồi có một đạo
quân rô bôt vây quanh. Đa số ngày, 16 xe phiêu bạt dày đặc – compact rovers tương tự những hộp bánh mì có gạch mã số -
bar coded, lăn quay, đang ngũ khì trên các
kệ thép. Nhưng chỉ một búng vặn nhẹ là Olson biến chúng thành một nhóm quân trinh sát, làm bản đồ một vị trí một cách tự trị và xác định những món có ích, dù đó là các
nạn nhân động đất , những mục tiêu quân sự hay nhưng IED ( linh kiện xác định chất nổ ?)
Olson nói: “ so sánh với con người, một rôbôt duy nhất là một kẻ tìm kiếm và một
kẻ quyết định đáng kinh hải. Khi bạn có một nhiệm vụ phức tạp, cách duy
nhất rôbôt thắng cuộc là nếu bạn có nhiều rôbốt hành động chung nhau. Đối nghịch
với các hệ thống kết đàn hay họp
bầy, hệ thống Olson dùng một phương thức
đa tác nhân – multi-agent. Mỗi rôbôt có một máy chụp hình và một kẻ tìm kiếm
laser rặng dài , nó dùng để tạo ra các bản đồ nhỏ - maplets 3-D của môi trường mình. Nó rađiô những bản đồ nhỏ này đến một trạm kiểm sóat ở mặt đất; nơi đây
một algorithm vá chúng lại thành một bản đồ chủ trì. Rồi một algorithm khác giao những mục tiêu cho các rôbôt cá nhân chịu trách nhiệm, rà
quét ( rà dò ) – scan vùng này, gở bom đi. Mảnh này đến mảnh khác, các
rôbốt hòan thành nhiệm vụ chúng.
Năm 2010, Olson thắng giải MAGIC, một
tranh đua rôbôt học tự trị, khi các rôbôt
của ông đánh hơi tìm ra 8 quả bom giả .
Nay ông đang họat động với Bộ Giao thông Hoa Kỳ. Cài đặt trên các xe kiểm tra theo dấu, những máy
cảm nhận – sensors của ông có thể rà quét những đường xe lữa giao cắt nhau, lúc chúng gây ra nhiều vấn đề cản
trở, làm yếu kém đi lại, trước khi gieo
ra hổn độn to lớn.
( Irvine, Nam Ca Li ngày 14 tháng 9 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét