Có gì đáng nói thêm về nông nghiệp Hoa Kỳ
và Ca li năm 2013?
G S
Tôn Thất Trình
1 - Hãy cứu các cây cam bằng công nghệ di truyền và bằng thuốc trừ sâu nhóm “ neonic”
Cam trồng miền
Bắc chưa bị nhiễm một bệnh cây hiểm
nghèo nhất ngành trồng cam quít ( cây có múi ) – citrus là bệnh tiếng Anh gọi là greening disease, Việt Nam gọi là bệnh vàng bạc lá ( tuy từ greening có nghĩa là xanh đi vì dùng để
chỉ trái hư khi chín nhưng bị xanh một phần nào thay vì tàn màu vàng, trái nhỏ bé hẳn và đắng nghét không còn ăn được nữa ). Cây nhiễm bệnh sống èo ọt , 5 năm sẽ chết .Bệnh
này rất nặng ở cây có múi miền Nam, chúng tôi đã nhận diện từ đầu thập niên 1960
đặc biệt ở các tỉnh vùng Hậu Giang, ĐBSCL , trước đó được xem là dấu hiệu
của cây thiếu dinh dưỡng , thiếu các tế
nguyên – bần tố minor elements nutrients
cần thiết.
Bệnh vàng bạc
lá, Tàu gọi là hòang long bing – bệnh rồng vàng – yellow
dragon disease đã phát hiện
từ đầu thế kỷ 1900 ở Trung Quốc. Sau đó tìm ra rất nhiều cây mắc bệnh này ở Á Châu: Ấn Độ, Bangladesh, Phi Luật Tân, Đài
Loan, Hồng Kông, Nhật Bổn, Myanmar , Thái Lan, Mã lai Á , Cam
bốt, Lào, Nepal , Hồi Quốc, Inđônêxia, Việt Nam … và ở Phi Châu Cameroun ,
Ethiopia , Somalia , Nam Phi,
Zimbabwe, Yemen, Tanzania v.v… Phần lớn bệnh greening lan tràn do hai lòai sâu – rầy chổng cánh
– psyllids gây ra . Một lòai ở Á
châu là lòai rầy chổng cánh Á Châu tên
khoa học là Diaphorina citri đã biết là hiện diện ở
miên Nam bang Florida , Hoa Kỳ từ năm
1998 . Tháng 7 năm 2004, khám phá bệnh lần đầu tiên ở Brasil. Nay bệnh lan tràn khắp mọi quận ( tỉnh ) trồng citrus thương mãi. Bệnh
cũng được biết là hiện diện ở bang California, nhưng chưa lan tràn ở bang Hoa
Kỳ này. Lòai Phi Châu tên khoa học
là Trioza
erytreae . Khác hẳn cách truyền bệnh
cây tàn lụi dần dần hay mau lẹ bệnh Tristeza , do các rầy mềm aphis ( nâu , xanh , đen , rầy mềm, bông vải … ) , nhất là rầy mềm nâu có tên là Toxoptera citricidus truyền bệnh rất nặng , nhất là
ở miền Bắc . Dấu hiệu lá, cây ở hai bệnh hay lẫn lộn nhau và cả hai bện có thể
hiện diện cùng lúc trên một cây Citrus . Ở Mỹ châu đã biết bệnh hiện diện ở
Cuba, Cộng hòa Dominique, Honduras ,
Guatemala , Mexixo và gần đây ở Brasil . Greening chưa được báo cáo là
hiện diện ở các vùng sản xuất Citrus ở
Úc Châu và các nước Địa Trung Hải.
lòai sâu – rầy chổng cánh – psyllids |
Bệnh do một
lọai vi khuẩn – bacterium lây nhiểm ở các mạch libe – phloem gây ra , tuy rằng trước đây nghi là do một mycoplasma
– nấm nguyên sinh gây ra. Thường phân biệt hai dòng- strains vi khuẩn
, một dòng Á Châu và một dòng Phi châu .
Nhưng mới đây một dòng mới khám phá ở Brasil đã được mô tả. Dòng vi khuẩn tàn phá các vườn Citrus bang Florida tên khoa học là Candidatus
Liberibacter asiaticus, như đã nói do rầy chổng cánh lan trạn
Những phương cách, “ kỹ thuật mới” sử dụng chống bệnh greening, vàng bạc lá vi khuẩn Citrus.
Công nghệ làm nước cốt
cam –orange juice ở bang Florida trị giá 9 tỉ đô la Mỹ , và công
nghệ này cũng quan trọng ở hai bang Texas và Cali . Trước đây không biết cách nào chửa trị cho lành bệnh
cả, tuy nhiên nếu phun những số thuốc lớn lao trừ rầy chổng cánh th
giúp bệnh lan tràn ít hơn, chậm hơn.
Nay Ủy ban Chỉ huy Thống nhất bài
trừ bệnh ở Florida đã tìm ra một phương
cách trị bệnh greening dựa trên công nghệ di truyền – genetic engineering an
tòan và hửu lý và những sáng kiến ứng dụng các thuốc trừ sâu bệnh dẫn truyền ( tòan thân)- systemic pesticides
neonic - neonicotinoid .
Đã có nhiều
chiến lược sử dụng kỷ thuật công nghệ di
truyền cố gắng sản xuất những giống cây cam kháng C. Liberibacter, vì mức kháng
nay không xảy ra trong thiên nhiên trên các giống lòai Citrus trên thế giới nên
không thể dùng kỷ thuật lai giống tuyễn
lựạ di truyền qui ước được. Phải hội nhấp một gene kháng của rau cải
bina, xì pi nát- spinach haytừ heo
vào các cây cam , bằng cách sử dụng
virus, thể thực khuẩn – bacteriophages bắt mồi các vi khuẩn – bacteria , nhưng
hòan tòan vô hại cho các lòai sinh vật khác. Vài chiến lược này đã thành công
tốt đẹp trên các lòai cây trồng , mùa màng khác
để tăng cường mức đối kháng sâu – bệnh
và để đưa vào những đặc điểm
khác , Đa số bắp ( ngô ) , bông vải, dầu
hột cải – canola, củ cải đường – sugar beets và đậu nành ( đổ tương ) trồng ở Hoa Kỳ đã được công nghệ di truyền với các kỷ thuật phân tử molecular techniques cận đại .
Hơn 10 năm qua, các đu đủ Ha uy di đã được công nghệ di truyền hầu làm ra
cây đu đủ chống kháng lại được một dịch bệnh ( bệnh đốm vòng – ringspot ? ) tàn
phá sản xuất đu đủ bang này ở thập niên 1990. Trái với Âu Châu, cả nông dân và người tiêu thụ Hoa Kỳ đã biết những lọai thực phẩm sửa đổi di truyền
một cách nào đó rồi . Cũng khác với các
lòai thú hoang dã trò chơi săn bắn – wild game, gồi – berries hoang
dã, nấm ăn mushrooms hoang dã và cá và sò- nghêu, đa số thực phẩm ở chế
độ ăn uống Hoa Kỳ đều đã được cải thiện
công nghệ di truyền, cách này hay cách khác, kể cả trái cây và rau đậu gia truyền . Từ thập niên
1930, các nhà tuyễn chọn cây – plant breeders đã thực hiện cách lai rộng rải – “wild
cross” hybridizations, trong đó một
số lớn genes ngọai – alien được chuyễn từ một lòai – species hay tông
chi – genus đến lòai, tông chi khác , đểt ạo ra nhưng giống cây không có
thể hay không có trong thiên nhiên .Các giống thương mãi thông
thường gồm cà chua, khoai tây, lúa yến mạch – oats, avoine , lúa
gạo và lúa mì – wheat, blé ; không
làm ai sợ hải là các “Thực phẩm Ma quỉ- Frankenfoods”
cả .
Tuy nhiên ngay cả khi dùng các kỷ thuật phân tử cận
đại, công nghệ di truyền cây cối là một
tiến trình chậm rải, trong khi các nhà
vườn trồng citrus đang yêu cầu có cấp
bách các giải pháp , giúp họ thêm thời
giờ, cho đến khi họ mua được các cây đối kháng bệnh phát triễn, thử nghiệm xong xuôi và ra trái được. Một phương thức đầy hứa hẹn là
tụ điểm vào cách giết chết, diệt trừ rầy chổng cánh sinh sản qúa mau lẹ. Hiện
tại chỉ có một cách trị liệu hửu hiệu : đổ một lượng thuốc neonicotinoid ( neonic ) phát sinh
từ nicotine xảy ra tự nhiên trong cây cối, vào đất, ngay tại gốc các
thân cây citrus còn trẻ . Điều này giúp cho hóa chất được rễ hút vào, không
làm thuốc độc hại cho các sâu bọ có ích như các sâu làm thụ phấn-
pollinators như khi phun thuốc vào cây.
Một khảo cứu quan trọng khác đang làm, có thể nới
rộng sử dụng trị liệu bằng neonic đến
các cây trưởng thành to cao, đang ra trái
hay trên cây còn nhỏ tuổi, một khi
trị liệu an tòan và hửu hiệu đã
được chứng minh cho Cơ quan Bảo vệ Môi sinh – Environtmental Ptotection
Agency Hoa Kỳ. Nó phải trình bày là
bảo vệ được cây cả hai phương
diện, từ tấn công của rầy chổng
cánh đến lây nhiễm greening .Và nó cũng
phải không độc hai cho ong, không chứa
những số lượng hay có những ảnh
hưởng khác tai hại môi trường.
Cho đến nay,
các kết quả đã tỏ ra rất hứa hẹn cho các nông dân trồng citrus ỏ bang Florida . Các cây công nghệ di truyền chống kháng greening chắc chắn sẽ là giải
pháp cho tai họa này, nhưng có thể phải cần
cả chục năm hay lâu hơn nữa phát
triễn những cây cam đối kháng đáng tin cậy và nhân giống thêm
nhiều được, làm căn bản cho ngành công
nghệ. Trong lúc đó, nếu không có sự bảo vệ
vườn citrus , công tác trị
liệu đổ trên đất gốc cây citrus bằng thuốc nicotinoid cống hiến, ngành công nghệ citrus Hoa Kỳ sẽ biến tan đi
mất, lúc mà các cây citrus công nghệ di truyền trở thành sinh tồn vững
bền thương mãi.
( chiếu một phần theo tài liệu của Henry I. Miller ,
một bác sĩ y khoa , nguyên là giám đốc Cơ Quan Kỹ thuật Sinh học của FDA- Food
and Drug Administration và nhân viên Viện Hoove , Viện đại họcc Stanford , Bắc
Ca Li).
2-
Các trái
ngon ở các chợ trời nông dân – farmers markets Ca Li
a-
Tiền thù lao
cho tuần lễ đầu tháng chín
trái mận tây ở chợ trời |
Đó là trái mận tây – plum Emerauld Beaut , ngọt ngào , mọng
nước – juicy và cứng chắc của Ken Lee
ở Torrance và Nam Pasadena . Hay trái chà là – dates giống Halaway ẩm ướt , gần như trong suốt , giai đọan vàng
nghệ- rutab stage, mùi vị như
caramels do gia đình Bautista trồng ở
Long Beach Marina, Hollywood và Culver
City . Hay giống khoai
lang tía ( ruột tím ) OKinawa , Tony
Chu trồng ở Torrance .
b-Giống chanh
Nhật Sudachi thêm đậm đà ( mắm muối )
cuối hạ và vào thu Ca Li
Keiko và Frank Wells ở nông trang Westfield được biết
nhiều hơn về sản xuất trái bơ -avocado
mà Keiko với một nụ cười đáng yêu , xếp hạng một các kỷ luỡng theo độ chín cây ở chợ trời nông dân Beverly Hills . Tuy nhiên, trong vài tháng cuối hạ và tiết thu ở đây, họ cũng bán sudachi , một lọai trông như trái chanh xanh Nhật bổn – Japanese
lime liên hệ đến yuzu , một lòai citrus Nhật , nhưng trái
nhỏ hơn , nhiều nước hơn , ít hột hơn và
hơi chua – acidic hơn đôi chút.
Với một hương vị gia vị đặc biệt
, nhắc nhở đến chanh xanh , thì là, và nghệ
Ai Cập - cumin , lọai chanh sudachi được sử dụng làm mùi vị cho xúp- cháo ,
các đĩa cá và nấm matsutake . Khác yuzu,
nước cốt có giá hơn là võ trái . Sudachi cũng như_ yuzu là một tuyễn chọn lai giống – cross giữa quít mandarin và ichang papeda , một loài citrus
sơ khai gần gủi chanh Kaffir lime, nông dân Nhật trồng hàng trăm éc ta ( ha ) sudachi ở tỉnh
Tokushima, cách Osaka không xa mấy và là nơi sinh của Keiko. Mãi đến gần đây sudachi rất hiếm hoi ở bang Ca Li, nhưng cách
đây 5 năm các cây con sudachi được bán ra
ở các vường uơm giống đia phương. Keiko
và Frank đã trồng vài cây ở
nông trang của họ ở Camarillo . Nay họ bán trái sudachi theo giá khiêm tốn là
3 đô la một công teng nơ. Như ở Nhật,
họ hái sudachi khi trái còn xanh,
kích thước bằng quả banh pingpong vì lẽ lúc đó là mùi vị mạnh mẽ nhất, nhưng
họ cũng hái sudachi vào tiết thu, khi
trái lớn hơn và màu vàng tươi. Một
nông trang không theo qui tắc khác là Mud
Creek Ranch ở Santa Paula đã trồng 30 cây sudachi và thỉnh thỏang đem
trái bán ở chợ Santa Monica vào mỗi thứ tư
và ở chợ trời nông dân Hollywood,
nơi các đầu bếp thiện ngự - chef và
các con buôn mau lẹ chụp giựt chúng, theo lời đồng chủ nhân nông trang Robin Smith
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét