Trong 100 câu chuyện khoa học năm 2013,
tiếp theo 100 khám phá cách đây 4 năm:
Vài khám phá Việt Nam nên chú ý hơn chăng ?
G S Tôn Thất Trình
1- Cung cấp tổng hợp thuốc trị sốt rét
Nhắc lại là thanh cao , lòai cho nhiều artemesin
nhất tên là Artemisia annua L. là một
lọai cỏ như ngãi cứu, thơm, nhất ( hàng ) niên cao đến
1m , lá không lông, chùm tụ tán cao mọc ở ngọn , hoa đầu- capitulum
cao 1.8 – 2 mm, có lông xanh, nhiều giống mọc hoang ở các tỉnh Cao Bằng , Lạng Sơn , Quảng Ninh… , nhưng
nồng độ artemisin không nhiều và rất biến thiên.
Việt Nam cũng tìm thấy ở các tỉnh Hà Nam
Ninh lòai cỏ nhất niên A. apicea
Hance ( tên cũ là A. carvifolia Wall.)
tên việt là Thanh cao Ngò- Hương cao, nhưng có thể không chứa artemisinin. Cũng trị sốt rét tốt như lòai A . annua và nhiều loại bệnh khác như nấm ngòai da , sán lãi , mô hôi trộm v.v…
Việt Nam cũng định danh được nhiều lòai thanh cao khác như thanh cao biển , đầm lầy, thanh cao chỉ - nhân
trần cao- ngải cứu lá kim , thanh cao tay , thanh cao rồng, ngải cứu rừng , ngải cứu đồng … , họ thực vật Cúc –
Asteraceae hay Compositae, nhóm tông chi Genus Ngãi cứu Artemisia cho lòai thuốc
cứu , ngải cứu- mugwort , armoise chánh hiệu . Ngày
nay Trung Quốc vẫn là quốc gia
trồng nhiều thanh cao A . annua
nhất, cung cấp artemisinin cho thế giới. Có lúc Việt
Nam khoe khoang là đã tuyễn chọn ra
những giống thanh cao chứa artemisinin
còn nhiều hơn các giống du nhập Trung Quốc( ? ), nhưng không thấy phổ biến
trồng ở đâu cả. Các đồi núi cao Tây
Nguyên hay Trường Sơn Đông-Tây, nơi sốt rét P. falciparum hòanh hành dữ dội, có lẽ nên khuếch trương mạnh mẽ trồng các giống thanh
cao chứa nhiều artemisinin và sản xuất các phối hợp tốt bán tổng hợp
cùng các đại công ty dược phẩm trong nước
hay ngọai quốc ?
Cuộc du hành trồng từ hột cây thanh cao đến khi thu họach chế
biến ra artemisinin chậm rì. Ở Trung Quốc, nông dân gieo hột đầu năm mà mãi đến
cuối hè mới thu họach. Rồi phải
chế biến, chiết trích artemisinin, gửi tới một công ty dược phẩm để làm thành
các thuốc phối hợp trị liệu. Tiến trình
trung bình cần 18 tháng trời, và thời gian lâu dài này khiến giá cả thay đổi
mạnh, gây ra nhiều xáo động cung cấp. Chẳng hạn năm 2007, giá cả đã lên xuống từ 200 dến 1000 đô la Mỹ một ki lô
.
Cho
nên kỷ sư sinh học Jay Keasling viện đại
học UC Berkeley, bắt đầu phát triễn những phương cách mới mẽ thay đổi di truyền mốc meo –yeast để
sản xuất artemisinin. Kealing nói : mục
đích chúng tôi là ổn định nguồn cung cấp và giá sản xuất artemisinin thấp nhất.
Thay vì thay đổi một gen ( e) một
lúc như khi làm công nghệ di truyền cổ
điển , ông đã sáng chế ra những cách thay đổi đại trà lề lối chuyễn hóa –
metabolic pathways của mốc meo để sản xuất acid artemisinic có thể chuyễn hóa dễ dàng thành artemisinin. Phương
pháp này được xem là “ bán tổng hợp – semisynthethic” vì giai đọan sản xuất acid là một tiến trình
thiên nhiên .
Công ty
dược phẩm Sanofi mua môn bài kỷ thuật Keasling và tuyên bố bắt đầu sản xuất
tháng tư năm 2013. Công ty hy vọng sản xuất 35 tấn dược phẩm artemisinin năm 2013 và tăng dần lên khỏang 50 – 60 tấn
một năm, kể từ năm 2014. Một số lượng theo công ty đủ chửa trị 80 – 150 triệu lần .
Đơn giản
thay đổi các nguồn cung cấp thiên nhiên
bằng các thay thế tổng hợp có thể là một cách sửa chửa mau lẹ đáng cố
công. Thế nhưng các nhà chế tạo không sản xuất đủ các thuốc bán
tổng hợp, hầu thay thế hòan tòan sản
phẩm thiên nhiên, theo lời Macolm Cutler, cố vấn kỷ thuật cho sáng kiến Hệ thống Bảo đảm Cung cấp
Artemisinin bất vụ lợi WHO ( Cơ Quan Y tế Quốc tế ) tài trợ. Đưa vào thị trường hợp chất mới quá nhiều, cũng
sẽ làm cho giá cả thêm bất ổn định và càng làm cho nguồn cung cấp artemisinin thêm phần khó tiên đóan. Cutler cảnh báo: “ nếu chúng ta làm lộn xộn
nguồn cung cấp, chúng ta có thể làm chết
thêm nhiều người đó.” Cutler nói rằng
artemisinin bán tổng hợp phải bảo đảm đường vào thuốc khẩn thiết này và
sẽ là một đại thắng đáng kể chống lại bệnh sốt rét.
Cuối năm 2013,
một thuốc chủng- vaccine mới do các nhà khảo cứu của các Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ và nhiều
nhóm khác nữa, phát triễn và thử
nghiệm chích ngừa nhiều nồng lượng gân
máu ( theo tĩnh mạch- intraveinously ). Thử nghiệm còn bé nhỏ năm 2013,
nhưng đã bảo đảm 100% chống lại lòai ký sinh trùng giết người nhiều nhất. Khi
phô bày cho muổi mang sốt rét đốt, không
một ai trong số 6 người đã chích 5 nồng lượng thuốc chủng ngã bệnh cả,
so với 3 trong số 9 người chích ngừa 4
nồng lượng ngã bệnh và 11 trong số 12 người không chích thuốc chủng. Hiện chưa rỏ ràng là các ảnh hưởng sẽ kéo dài
bao lâu và cách chủng ngừa này có thực tiễn hay không.
2- Viễn chuyễn hạt lượng- teleportation dữ liệu
qua chip siêu dẫn , cần thiết cho
tiến bộ tính tóan hạt lượng – quantum
computing .
Đây là một nhảy vọt cho tính tóan hạt lượng. Einstein gọi nó là
hiện tượng “hành động ma trơi cách xa – spooky action at a distance”. Ngay nay các nhà vật lý học gọi nó là ùn
tắc, vướng mắc – entanglement. Dù dưới từ nào đi nữa, nhà mô tả
nói tới mối liên kết ma trơi giữa các hạt tử phụ nguyên tử -
subatomic particles, hành động song đôi
dù khỏang cách giữa chúng xa bao nhau đi nữa. Hiện nay, các nhà khảo cứu đã tháo mở
vướng mắc để viễn chuyễn thông tin
tức khắc, xa đến hàng ngàn dặm Anh, hàng ngàn cây số. Nhưng áp dụng thực tiễn nhất, có thể là ngành
tính tóan hạt lượng , gọi tên như thế là vì
những máy computer này sẽ họat động đúng theo thể thức vật lý học các hạt tử phụ nguyên tử mệnh danh là cơ học hạt lượng – quantum
mechanics .
Các computer có thể viễn chuyễn thông tin, cũng có thể họat động theo những cường độ mau lẹ hơn các máy hiện hửu và thực hiện các nhiệm
vụ song song , một khéo léo cần thiết để đánh vở
những mã số an ninh khó khăn nhất hay phân tích ngữ pháp dữ liệu hệ gen- genomic data trong
vòng vài phút, những nhiệm vụ các máy computers thông thường cần nhiều năm mới
làm xong.
Viễn chuyễn thông tin trong phạm vi không gian giới hạn
một máy computer , tuy nhiên, đặt ra một thách thức kỷ thuật cho đến nay . Tháng
8 năm 2013, các nhà vật lý học Thụy Sĩ
đã thành công viễn chuyễn thông tin 6 millimét giữa hai góc một chip siêu dẫn làm bằng niobium , ngọc
bích xa phia- sapphire và nhom - aluminium ; chip siêu dẫn là khối xây cất căn bản cho máy
computer hạt lượng . Dữ liệu làm mã
số bằng cách thay đổi tình trạng năng
lượng mạch vòng: Năng lượng cao là các con
số hai đường– binary digit ( hay bit
) của số 1 và năng lượng thấp là giá trị
bit của số không O – zero.
Khoảng cách 6 mm có vẽ nhỏ mọn, nhưng
đây là một kỳ công đáng kể, khi dữ liệu
làm mã số phải nhảy vọt giữa các vật liệu siêu dẫn đặc cứng rắn, theo lời
trưởng nhóm Lars Steffen. Đây là một
nhảy vọt đủ sức giúp các máy hạt lượng hửu hiệu hóa. Mục đích kế tiếp của nhóm
là làm viễn chuyễn thông tin giữa hai
chip khác nhau. một bước tiến có cơ giúp các máy chạy mau lẹ hơn nữa.
3-
Thế
giới Vô biên, Không hề Chấm dứt – Worlds Without End
Sara Seager |
Giữa thập niên 1990, khám phá những thế giới xa hơn hệ thống mặt trời (
thái dương hệ ) chúng ta đã thay đổi hẳn ngành thiên văn học. The Sara Seager, hiện nghiên cứu các hành tinh ngọai- exoplanets
tại viện MIT, đọat giải Genius của Cơ
quan Mac Arthur năm 2013, thì cần có những dụng cụ, phương tiện mới, mới khám phá ra được thế giới mới.Tỉ như gần
đây nhất là Máy làm Hình ảnh Hành tinh Gemini Planet Imager ở Chí Lợi(
Chili, Nam Mỹ Châu ). Máy này chận đứng ánh sáng sao – starlight , giúp
chúng ta nhìn thấy trực tiếp được hành tinh và nghiên cứu khí quyễn nó. Máy cũng sẽ gíup làm hình ảnh trực tiếp của
các hành tinh khổng lồ cở Sao Mộc – Jupiterlike . Vệ tinh Nghiên cứu Hành tinh ngọai Nhất thời- The Transiting
Exoplanet Survey Satellite ( TESS) sẽ phóng lên năm 2017, sẽ nghiên cứu mọi khu trời cao xa, để tìm ra các
thế giới các ngôi sao M- stars sáng trưng và gần nhất ( những sao lùn đỏ thông
thường nhỏ hơn Mặt Trời và như vậy sẽ tiết lộ
bóng tỏa – shadows các hành tinh ném ra, nghĩa là chừng 500 000
ngôi sao. Viễn vọng kính Không
gian James Webb Space Telescope , phóng lên năm 2018 , sẽ giúp nhìn vào các khí quyễn các hành tỉnh nhỏ bé
này. Khi một hành tinh nào đó du hành trước mặt ngôi sao mìn , vài ánh sáng
sao đi ngang qua khí quyễn và một vài
khí của khí quyễn để lại những chữ ký nổi bật về ánh sáng sao. Bằng cách tách rời ánh sáng sao khỏi ánh
sáng hành tinh, chúng ta có thể xác định các phân tử của khí quyễn hành
tinh và tìm kiếm các khí phát sinh đời
sống tỉ như oxygen, ozone và nước đái quỉ - ammonia
Đời sống Viễn vọng kính Không Gian Kepler sau
khi hư hỏng, chết đi.
Trong 4 năm, Viễn Vọng Kính Không
gian Kepler đã quan sát hơn 100 000 ngôi sao, cố nhìn ra một dấu hiệu hết sức
mờ nhạt một hành tinh đang đi ngang qua
. Tháng 5 năm 2005, hai trong 4 bánh xe
phản ứng nhằm giúp viễn vọng kính nhắm
chính xác đã hư hỏng, khiến cho hai bánh
còn lại không còn đủ sức ổn định dò ra các hành tinh ngọai, quanh các ngôi sao sáng rực. Thế nhưng phân nữa
dữ liệu của Kepler vẫn chưa được phân tích. Phần cuối này là nơi các thế giới kích thước Trái Đất trên các qủi
đạo sinh sống được, có lẽ sẽ hiện ra, vì
hể sứ mệnh càng dài và dữ liệu viễn vọng kính càng thu thập được nhiều hơn, thì
các dấu hiệu từ các hành tinh này càng
mạnh mẽ hơn. Nhà khảo cứu chánh Bill Borucki thuộc Trung Tâm Ames Reasearch
Center của NASA nói : Sứ mệnh đang đi vào một giai đọan kích thích lớn.
Năm ngóai 2012, đã tìm ra vài chi tiết lạ lùng
cho khỏang 3500 thế giới ngọai lkiều , xa lạ. Sau đây là các hành tinh
ngọai-exoplanet đáng kể khám phá năm
2013 :
-
Kepler – 62 f: Hành
tinh đá này được xác định tháng tư năm 2013 kích thước cở Trái Đất hơn bất cứ
thế giới nào khác tìm thấy ở vùng sinh sống được ; là vùng quanh một ngôi sao nơi nước trên mặt không bị
đông giá đi hay bị sôi chảy mất đi . “ Siêu
Trái Đất – Super Earth” này chỉ lớn hơn Trái Đất chúng ta 40% thôi.
-
HD 189733b: “Sao Mộc
nóng bỏng – Hot Jupiter “này đã được tìm thấy từ lâu, nhưng năm ngóai, Viễn
Vọng Kính Không gian Hubble tiết lộ nó có màu
xanh dương, thành quả của các chất tựa như gương ánh sáng phân lìa ở khí quyễn
nó , rất nóng và quay cuồng .
-
Kepler
-37b : Đây
là hành tinh ngọai nhỏ nhất tìm
thấy quanh một ngôi sao giống như Mặt
Trời, vào tháng 2 năm 2013, kích
thước chỉ lớn hơn Mặt Trăng đôi chút .
-
Kepler -7b
: Tháng chín năm 2013, những phản chiếu
ánh sáng mắt nhìn được cũng như với các tia hồng nội, từ hành tinh nóng bỏng và đầy khí này, cung
cấp bản báo cáo đầu tiên một lọai thời
tiết ngọai ( xa lạ ): những đám mây về phía Tây và trời trong sáng phía Đông
.
-
GJ 504b
: Đây là hành tinh ngọai nhẹ nhất làm
hình ảnh trực tiếp được. Dữ liệu hồng nội từ Viễn vọng kính Subaru ở bang Hạ Uy
Di –Hoa Kỳ, tháng 8 năm 2013, gợi nó có màu đỏ magenta .
-
Kepler – 76b
: Mệnh danh là “ Hành tinh Einstein” ,
các nhà khảo cứu tìm thấy Sao Mộc nóng hổi này tháng 5 năm 2013., nhờ sử dụng
một kỷ thuật căn bản là lý thuyết tương đối đặc thù .Sức
kéo trọng lực của hành tinh nhgọai này
trên ngôi sao mình sản xuất ra những ảnh hưởng sáng chói sao nho nhỏ và hình
ảnh méo mó .
4-
Chạy đua chống
trả dòng cúm H7N9
Cấu trúc của H7N9 |
Khởi sự đâu đó ở Mông Cỗ hay bán đảo Triều
tiên – Cao ly – Đại hàn. Các nhà khảo cứu không lấy gì làm chắc chẳn cả. Một chim
nước di cư – migratory waterfowl, mang những dòng cúm đa dạng- multiple
influenza strains , huých nhẹ một
chim khác, loài chim này có một cốc ten
cúm khác biệt và các virus trao đổi
những mảnh mã số di truyền theo một tiến
trình gọi là tái hài hòa – reassortment. Lúc đó, một dòng cúm mới đáng lo
ngại H7N9 phát sinh .
Các nhà khảo cứu không biết chắc là khi
nào tái hài hòa xảy ra hay khi nào
H7N9 xâm nhập thị trường gia cầm ở miền Đông Trung Quốc,
nhưng tháng hai năm 2013, nó nhảy vọt đến con người. Tháng 10 năm 2013, Cơ Quan y
tế Quốc tế - WHO đã gom góp tài liệu cho 137 ca H7N9 tại Trung Quốc và Đài Loan với 45
người chết.
Các dòng cúm thường hay đột biến và hai
hòa lại, cho nên chích ngừa cúm mỗi năm là một tiến trình ức đóan rắc rối, phải
đóan nhiều tháng trước là chúng ta phải đối đầu những virus nào? Nhưng H7N9 rất
đặc biệt, vì đây là phối hợp các protein làm các nhà dịch tể học lo âu. Các dòng H7 lén lút điển hình gây ra viêm màng kết – conjunctivitis
hay đau mắt đỏ -pinkeyes . Ai đau
mắt đỏ không biết là mình bị lây nhiễm cúm.
Thế nhưng các dòng N9 rất là mới mẽ đối
với con người. Chưa bị lây nhiễm trước
đó, có nghĩa là không có cơ may nào xây đắp miễn nhiễm cả. Một virus mới mẽ có thể lan tràn trong dân gian
làm chết chóc nhiều người. Cũng có chứng cớ rỏ ràng là H7N9 thu được mau lẹ tính kháng các phép chữa trị chống virus hiện
thời. Nếu một bùng nổ lớn xảy ra, các nhà chuyên môn y tế có rất ít lựa chọn để chửa trị ai bị lây
nhiễm.
May thay, H7N9 hiện nay chưa lây truyền mạnh trên người, một
khẩn thiết gây ra dịch tể khắp nơi. Đa số các ca tra khảo là thành quả tiếp xúc
trực tiếp với gia cầm mhiễm bệnh. Tháng chín năm 2013, các nhà khảo cứu ở nhiều
vị trí Hoa Kỳ bắt đầu các thử nghiệm trên người, một thuốc chủng tiềm thế H7N9.
Tháng 10, một nhóm khác tìm ra một thực phẩm bổ xung có thể làm mất hết H7N9 trong các thử nghiệm la bô. Tuy nhiên , cũng trong tháng 10, hai ca H7N9 của mùa cúm 2013- 2014 đã được xác
nhận ở Trung Quốc .
5 – Làm trình tự Hệ gen Ô tít dơm – autism ( bệnh tự vùi minh vào cảm nghĩ mình )
Hệ gen Ô tít dơm – autism
Không rõ ở nước nhà, bệnh ô tít
dơm có trầm trọng hơn không; chứ ở Hoa
Kỳ mấy năm nay có vẽ tăng thêm ở giới
con em Việt Kiều . Các nhà khoa học đã làm trình tự tòan thể những hệ gen của 32 trẻ em mặc bệnh
ô tít dơm, tiết lộ điều kiện nền móng di
truyền bệnh một cách chi tiết chưa hề có.
Nghiên cứu xuất bản tháng 7 năm 2013 cho thấy là phân nữa các biến
thiên – variants nối kết với lo lắng xã hội – social anxiety, động kinh
– epilepsy , những dấu hiệu khác và
triệu chứng bệnh ảnh hưởng tới tương tác xã hội, ngôn ngữ và cư xử . Phân tích cũng xác định 4 gen (es), chưa bao
giờ biết là liên kết với ô tit dơm.
Nhiều gen tuồng như liên quan đến ô tít dơm là bệnh có nhiều lọai phụ -subtypes.
Một khi kỷ thuật phân tích tòan thể hệ gen
tiến bộ, nhiều đột biến –
mutations liên quan đến ô tít dơm sẽ được khám phá làm rỏ rệt hơn căn bản
di truyền của bệnh, theo lời Stephen Scherer, một nhà di truyền học tại bệnh
Viện Cho Trẽ em bị Bệnh tại TP Toronto ( thành phố kỷ nghệ lớn nhất
Canada) đã góp công vào nghiên cứu quốc
tế này.
6-
Đính hiệu gen, nay mau lẹ hơn, rẽ tiền hơn và chính xác hơn
Nếu một gen hư hỏng nào đó làm cho ai đau
bệnh, thì tại sao chúng ta lại không hiệu đính
các dịch bản sai lạc chức năng và thêm vào đó những gen
công hiệu? Đó là ý nghĩa bên sau phép
chửa trị bằng gen, nhưng phép này không tỏ ra tốt đẹp như hứa hẹn. một điều đáng nêu ra là kiểm sóat nơi
nào gen đã được thêm vào hệ gen thật rất
khó khăn và nhét gen ngẩu nhiên, có thể làm
gián đọan các gen khác làm sai lạc chức năng chúng hay gây ra ung thư. Đồng thời các phương pháp hiệu đính gen hiện
thời cũng không hòan tòan đóng cửa –shut down các gen xấu xa .
Một kỷ thuật căn cứ trên các hệ thống miễn nhiễm của vi khuẩn và
archaea, một lọai vi sinh vật khác, có
thể nay mai cung cấp các giải pháp. Những
vi trùng này, chủ yếu làm các thuốc chích nhăn mặt – mug shot các
virus nguy hiểm giữ lại trong DNA chúng, tồn trữ những mảnh cắt nhỏ các gen ( es )
virus giữa vài khúc lập lại-repeats
segments, theo một tiến trình sinh học tự nhiên tên gọi là CRISPR , cụm
lại đều đặn những lập lại xuôi ngược như nhau, cách xa nhau ngắn ngủi –
chustered regularly interspaced short
palindromic repeats. Khi sử dụng CRISPR, các vi sinh vật đơn bào –
single cell nhận ra các virus xâm lược và họat động hóa các protein, xé tan DNA ra thành nhiều mảnh.
Khởi đầu năm 2012, các nhà khảo cứu đã
học được cách sửa đổi cơ chế này để nhắm mục tiêu
các gen không mong muốn, chính xác hơn
là các virus. Nó hoạt động như thể một dao mổ phân tử - molecular scalpel, theo
lời Rodolphe Barrangu viện đại học bang North Carolina, một trong số nhà khảo
cứu đã khám phá ra chức năng miễn nhiễm
của CRISPR. Sau khi các enzyms của
CRISPR đã cắt DNA đúng vào nơi định làm, cơ chế sửa sang lại bình thường của tế bào nhảy vào, hầu bỏ
đi gen xấu xa này hay làm dính một gen mong muốn từ DNA mới các nhà khảo cứu
đã thêm vào tế bào.
Năm 2013 , CRISPR vượt qua hai thử nghiệm quan trọng : nó họat động
trong các tế bào người và nó có
thể nhắm vào nhiều gen một lúc. CRISPR
có thể dùng lấy đi những gen
chức năng sai lạc các bệnh tỉ như
bệnh Huntington , hay sửa đổi mùa màng ,
cây cối làm nhiên liệu sinh học, mọi thứ đều mau lẹ hơn và rẽ tiền hơn là các kỷ thuật đính hiệu khác
.
7- Tương
lai tế bào gốc: các mầm nuôi trồng gan – liver buds cứu nguy
Ở Hoa Kỳ hiện nay đang có 16 000 người chờ đợi
cấy gan. Nhưng vì thiếu thốn các gan có
thể sống được, có thể ít hơn 7000 người được thực hiện cấy gan năm 2013 . Tại Nhật, nạn thiếu thốn gan càng trầm trọng
hơn nữa: số người cần gan mới 10 lần cao hơn
số người chết có thể tặng dữ một lá gan.
Lỗ trống này đã kích động nhà sinh học tế
bào gốc Takanori Takabe và các đồng nghiệp
ở Phân khoa Y khoa tái tạo – Deparment of Regenerative Medicine ,
viện đại học TP Yokohama Nhật Bổn,cố tìm một giải pháp thay thế. Năm nay, họ đã
thành công làm ra những lá gan mini hay là mầm gan, từ các tế bào gốc trích từ
da người và lập trình lại thành một tính trạng phát sinh phôi – embryonic. Các tế bào gốc phát sinh phôi đáng chú ý vì
chúng có thể biến thành những dạng của bất cứ lọai tế bào trong thân thể. Khi
trộn lẫn cùng hai lọai tế bào khác, các tế bào gan nuôi trồng sơ khai tự tổ
chức thành những cơ cấu 3 chiều, hòan tòan có các mạch máu. Thật tế, nhóm
Takebe tái tạo lại tiến trình, trong đó một phôi người bắt đầu hình thành một
lá gan có chức năng, họat động được .
Cấy mầm gan người dài khỏang 5 mm vào
một con chuột, phô bày rất nhiều chức năng của bộ phận trưởng thành, tỉ như chuyễn
hóa đường và dược phẩm. Khi các nhà khoa học làm hư hỏng chính gan chuột, mầm
gan người vẫn giữ cho con chuột sống đến
2 tháng. Takebe nói: người nào đó bị hư gan sẽ cần một truyền pha hàng chục
ngàn mầm gan. Mãi cho đến khi nào các
mầm gan có thể tạo ra từ da của mỗi cá nhân bệnh, các người nhận mầm sẽ
phải trông cậy vào các thuốc bải bỏ miễn
nhiễm, hầu tránh khỏi đào thải, giống như khi họ cấy toàn thể cả một bộ phận
vậy.
Thay đổi các mầm gan, trong vòng 10 năm tới
hay ngắn ngủi hơn nữa, sẽ dùng được trên người. Cách đây vài năm, báo chí Việt
Nam đã đăng tải là các nhà khảo cứu Việt
Nam đã làm được các tế bào gốc từ da, phỏng theo phương pháp các nhà khoa học
Ba Lan. Vậy nay có làm được các mầm gan theo lề lối Takebe không ?
8 – Mức CO2 lên đến 400 ppm có đáng lưu tâm không ?
Tháng 9 năm 2013, các dụng cụ
trên núi lữa Mauna Loa, Hạ uy Di đánh dấu cọc là nồng lượng khí quyễn CO2- carbon dioxide, lọai khí góp phần
lớn nhất vào hiện tượng hâm nóng địa
cầu – global warming, đã trên 400 phần triệu –ppm đôi chút .
Peter Tans ,nhà khoa học chánh của Cơ quan Khí quyễn và Đại dương Quốc Gia - Hoa Kỳ và bạn đồng
nghiệp Ralph Keeling, giám đốc chương
trình CO2 ở Viện Đại dương Scripps, đã quan sát thấy rằng nồng lượng leo cao gần
tới 400ppm, một mức chưa từng thấy thiên
niên kỷ này. Họ nhận thức khi đến con số tròn to lớn này là “ một cơ
hội nhắc nhở thế giới là CO2 đang mau lẹ dâng cao và mức độ tăng
cao trong thập niên vừa qua đã là mức cao nhất đã được ghi chép.” Họ cũng dư biết là “ báo chí đang nhìn qua vai chúng ta và lẽ nhiên sẽ tuyên bố điều
này.”
Thế cho nên Tans và Keeling quyết định là
nói nó ra trước tiên, bằng cách tung ra một cặp
giải tỏa báo chí tháng 5 năm 2013. Báo chí thế giới nhảy xô vào, gọi mức
400 ppm là cột mốc “dễ sợ” và “lo sợ lâu
ngày rồi”.
Nhưng có đúng như thế không ?
Hâm nóng địa cầu là một tin tức giật gân phát biểu lần đầu tiên mùa hè nóng
nực 1988, khi nhà khoa học khí hậu NASA James Hansen, nay đã nghĩ hưu,
điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ là khuynh hướng không phải là thành phần của thay đổi khí hậu tự nhiên , mà
là thành quả của phát thải CO2 và các khí nhà kiếng khác do họat động con người
gây ra. Lúc đó chúng ta đã vượt qúa
350 ppm. Cho nên mùa xuân năm 2013, gần
tới 400 ppm có thể xem là một ngưỡng cửa mới đáng kể, mức đầu tiên chúng ta
đạt tới kểtừ khi thay đổi khí hậu bắt đầu được thường xuyên đăng trang
nhất.
Nhưng tượng trưng này là luôn cả hai
phương diện nhân tạo và mờ nhạt . Trên căn bản, không có gì thay đổi ở hệ thống khí hậu Trái
Đất khi chúng ta đụng tới mức 400 ppm.
Tans nhấn mạnh : “ Nó không khác biệt gì với mức 390 hay 410”. Và ngay cả khi các dụng cụ ở Hạ Uy Di
chứng tỏ là chúng ta đã đến cột mốc, trung bình nồng độ tòan cầu CO2 lại thấp hơn vài điểm . Vì
chưng Hạ Uy Di ở Bắc Bán Cầu, nơi đa số C02 từ đốt cháy nhiên liệu hóa thạch
đến đó. Càng làm cho mọi điều mờ nhạt
hơn nữa, nồng lượng CO2 ở Ha Uy Di mau lẹ rơi xuống dưới 400 ppm, khi cây cối Bắc Bán Cầu xanh tươi thêm vào mùa tăng
trưởng, lại hấp thu thêm CO2 qua hiện tượng quang tổng hợp - photosynthesis .
Trong dài hạn, C02 tiếp tục tăng thêm, khiến
thêm nguy hiểm mực nước biển dâng lên và phá hủy các mô hình thời tiết. Nhưng sẽ cần vài năm, mãi đến năm 2016, theo
Tans ước tính, mức CO2 tòan cầu trung
bình mới cao hơn 400 ppm. Theo James White, một nhà khí hậu học cỗ xưa tại viện đại học
Colorado, 400 ppm là một đánh đấu dặm đường bạn đã đi qua trên quốc
lộ liên bang – interstate , khi bạn bay 60 dặm Anh- mph một giờ
ngang đó . Và ông đưa ra vài nghi ngờ
con đường đang tiến tới.Chúng ta đã đánh văng cửa ở mức 400. Ông không ngạc
nhiên nếu chúng ta đến mức 800. “ Đây là cột
mốc mới to lớn và thế giới trên căn bản
sẽ khác hẳn.” Trải qua nhiều thế kỷ,
số lượng CO2 khí quyễn này sẽ hâm nóng đủ khiến
mọi nước đá đông gíá sẽ chảy tan trên lục dịa và đưa mực nuớc biển cao
thêm 80 msheeters, đủ làm chìm hết cá quốc gia Bangladesh và hầu như tòan thể bang Florida- Hoa Kỳ.
9-Máy phóng đại đa chiều-Amplituhedron tạo hình dạng tương lai cho vật lý học ?
Các nhà vật lý học từ lâu đã phải vật
lộn để hiểu chính xác cái gì đã xảy ra khi các hạt tử phụ nguyên tử đụng nhau. Nhiều chục năm qua, dụng cụ tốt nhất liên hệ đến các phác họa căn
bản tên gọi là các biểu đồ Feyman diagrams cho mỗi thành quả có cơ xảy ra . Trong mọi
kịch bản đơn giản nhất , phương pháp này tốn nhiều trang giấy hình vẽ và các phương trình . Một cách nhìn sâu bên trong máy điện tóan,
năm 2004 , đã giảm rất nhiều trang giấy
cần thiết để mô tả một đụng độ và những
công thức mới này phối hợp rất nhiều đồ biểu Feynmans thành một mớ tóan
học rối lọan xạ. Năm ngóai, Niam Arkani –Hamed, nhà vật lý học
viện đại học Princeton , đã phân tích các công thức tìm kiếm phương cách tốt hơn
đơn giản hóa những tính tóan hạt lượng này . Ông chỉ sử dụng cây viết và giấy
để khám phá ra một lọai hình dánh hình học gọi là máy phóng đại đa chiều
amplituhedron, một lọai ám chỉ tới
một thể thức mới nhìn vào vũ trụ.
Arkani – Hamed
lưu ý là công thức có thể xếp đặt lại và vẫn trả lời được như cũ. Như
các nhà cổ sinh vật học- palaeontologistas chải đi hết mọi dơ bẩn để làm lộ diện một
hóa thạch, ông và các đồng nghiệp tìm ra những mảnh của hình dạng trong tóan học, những mảnh này ráp lại nhau thành ra một máy phóng đại đa chiều, có nhiều hướng
. Các
chiều hình dáng – bề dài, bề
rộng, bề cao và các thông số khác ( cho nên gọi là đa chiều - multidimensional
) - đại diện thông tin về các hạt tử
đụng độ và phương trình mô tả thể tích cũng mô tả luôn các hạt tử
trổi lên từ cuộc đụng độ. Thành
quả này hay thể tích là từ duy nhất đóng
trọn không gian kích thước một khăn ăn.
Khác những
phương pháp khác cũ hơn thám hiểm các
đụng độ hạt tử , máy phóng đại đa chiề amplituhedron không bắt rễ trên một thế
giới , nơi hạt tử khởi sự ở một vi
trí và một thời gian trước khi di chuyễn
đến vị trí khác và lúc khác. Có nghĩa là hình dạng này không hiện diện trong không gian – thời gian, nó không dựa vào ý niệm của vũ trụ các nhà vật lý học lý thuyết nghi ngờ rằng có thể sai lầm. Khi họ cố dệt lại nhau những lực đại trà và kích thước nhỏ bé , tỉ như
trọng lực và những lực khiến các nguyên tử dính vào nhau, giả thuyết không gian – thời gian dẫn tới
những mâu thuẩn tóan học, một chứng cớ là điều gì đó đã sai với những
giả thuyết khoa học hiện hửu về vũ trụ.
Arkani – Hamed nói: “ chúng ta đã
biết nhiều chục năm rồi là không gian -thời gian đã bị kết án. Chúng ta đã
biết nó không ở đó, trên dịch bản kế
tiếp của vật lý học.” Dù rằng các dụng
độ máy amplituhedron mô tả vẫn còn xảy ra trong không gian – thời gian ,
chính ngay vật thể đã lọt ra ngòai ,
cung cấp một cách có thể làm được tưởng
tượng một thế giới không do vải này dệt
thành.
Hình dạng mới,
kích thích tòmò , theo lời Lance Dixon , nhà vật lý học tiền phong về lảnh
vực các hạt tử đụng độ nhau , nhưng Dixon cảnh báo là cho đến nay , chỉ có thể mô tả hạt tử đụng
độ trong thể thức một dịch bản đơn giản
của lý thuyết hạt lượng , các thành quả chưa chuyễn dịch ra thế giới thật sự được . Arkani – Hamed nhìn nhận nó là “ một thí dụ
em bé- baby example” . Ông gọi nó là “bước
tiến số không - step zero” trong cuộc du hành tạo ra một lọai vật lý học mới , một dự án
sánh ngang khám phá ra chính ngay cả các
dụng độ hạt tử cái nhiên ( có thể xảy ra ). Hiện nay , amplituhedron cống hiến
một ngụ ý là thế giới mới lạ lùng sẽ như
thế nào .
10- Thiên thạch rơi xuống ở Chelyabinsk – Nga
Khỏang 9 giờ 20 sáng- giờ địa phương, ngày
15 tháng hai năm 2013, một banh lữa sáng
hơn Mặt Trời trải dài trên không gian
gần Chelyabinsk, miền Tây Nam Xibêria
nước Nga. Nó nổ tan nữa phút sau, tạo ra
một làn sóng- sốc mạnh mẽ, phá hũy 4000
xây cất, đập vỡ tan chừng 328 000 bộ Anh vuông( #3166 m2 ) cửa sổ. Gương bể bay
tung tóe làm hơn1500 người bị thương .
Tàn phá
là thành quả một vì sao nhỏ-
asteroid tiến vào khí quyễn Trái
Đất ở biên cương Nga/ Kazakstan , khỏang
60 dặm Anh( # 97km ) phía Nam thành phố . Nhiệt lượng cường điệu tạo ra , khi
vì sao rơi rụng tự do theo tốc độ 42 000 dặm Anh một giờ - mph( #68
000km ) khiến nó nổ tung giữa không trung . Mọi năng lượng vụ nổ đụng nhằm
thành phố Chelyabink , 14.5 dặm Anh ( # 22.3 km ) phía dưới .
Sau khi tái xét tốc độ
và các dữ liệu kháng của tảng đá không gian này , các nhà khảo cứu NASA
ước lượng là năng lượng của nó tương
đương gần bằng 30 quả bom nguyên tử dội
xuống Hiroshima- Nhật năm 1945. Họ cũng
ước lượng là vì sao có đường kính là 59
bộ ( 17,7 m ) và cân năng 11 000 tấn .
NASA theo dấu các vì sao chạy
ngang qua Trái Đất nhờ Chương Trình Quan
Sát các Vật Thể Gần Trái Đất , đã theo dấu lối mòn trái banh lữa chạy qua ,
tiết lộ nó đúnglà thành quả của một vì
sao lạc đường, không phải là một sao
chổi hay là những mảnh vở không gian
khác.
Đa số
các vì sao nằm trong “đai – belt” giữa Sao Hỏa – Mars và Sao
Mộc – Jupiter , nhũng vì sao này
chứng tỏ chúng có thể rất nguy hiểm, khi chúng đến đủ gần. May thay, ảnh hưởng lâu dài nhất
của cuốc tiến sát gần hành tinh này ( phá hủy tan hoang nhất kể từ khi
Tunguska đụng năm 1908 ) lại có cơ làm công chúng tái tụ
điểm trên các tảng đả -thiên thạch không
gian nguy hiểm này.
11 – Bạn đã sẳn sàng
dành thời giờ xem vô tuyến nhiều nhất- prime time , đón mời các con số nguyên
tố- prime number chưa ?
Mấy ngày rày , ở
Hoa Kỳ báo chí Việt Kiều nêu danh một số
nhà tóan học trẻ tuổi Việt tuyễn dụng dạy tóan ở các đại học Hoa Kỳ. Sau đây là công trình của YiTang Zhang, viện đại học New Hampshire
và Harald Helfgott , trường Cao đẳng Sư phạm – Ecole Normale
Superieure de Paris, trường còn khó được tuyễn vào học, có khi còn khó hơn cả trường Bách Khoa –
Polytechnique nữa. M ột trong những thí sinh hãn hửu tốt nghiệp trường là “ Thạc sĩ Ngữ
Pháp” gs Phạm Duy Khiêm, anh của nhạc
Phạm Duy ( ? ), nỗi danh cùng thời với các tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, kỷ
sư cầu cống Bách Khoa Pháp Hòang Xuân Hãn …
Cả hai vào
tháng 5 năm 2013 đã tìm ra những giải
đáp nữa vời cho bài tóan căn bản về
các con số nguyên tố, chưa có giải đáp từ nhiều thế kỷ qua . Số nguyên tố - prime numbers là- các con số chỉ chia được với số 1 và số
chính ngay mình, tỉ như 5 , 11 hay 37 - giống như
những nguyên tử ngành tóan học.
Mọi con số này tạo ra bằng các nhân những khối xây dựng cùng nhau . Nhưng cái gì sẽ xảy ra khi cọng thêm một số với số nguyên tố ?
Vậy chớ tổng cọng có là số nguyên
tố không? Và ngược lại khi nào một con số là tổng cọng một cọng số nguyên tố .
Để tưởng tượng
giảp đáp cho câu hỏi thứ nhất , hãy bắt đầu cọng thêm số 2 vào số nguyên tố. Khi tổng số cọng cũng là số nguyên tố, cặp này có
tên là “số nguyên tố sinh đôi – twin
prime”, tỉ như 5 và 7 . Khi các con
số lớn hơn, các số nguyên tố trở nên
hiếm có. Bạn có thể chờ đợi khỏang cách
giữa chúng tăng trưởng cũng kiên định
lớn hơn, cho nên những số nguyên tố sinh đôi quá lớn có thể
không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên tính
trạng “ phỏng đóan nguyên tố sinh đôi
– twin primes conjectures” danh vang
nhưng chưa chứng minh là các số nguyên
tố khác nhau bằng số 2 vô hạn định , dù
bạn có đếm - tính tóan sâu xa đi mấy nữa, bạn không bao giờ chạy hết số nguyên
tố sinh đôi cả . Một phỏng đóan liên
quan và tổng quát hơn, gợi ý rằng có thể
có vô hạn định rất nhiều cặp số nguyên tố , khác biệt nhau bằng 4 , bằng 6 , hay bất cứ bằng số chẳng - any
even number nào.
Nhưng phỏng
đóan là tất cả khi vào ngày 13 tháng 5 năm 2013 , khi một
nhà tóan học chưa ai biết tiếng là Yitang Zhang, xé rách
trầm trọng phỏng đóan các số nguyên tố sinh đôi. Trong một cuộc nói chuyện tại đại học Harvard
, ông trình bày chứng cớ về phỏng đóan liên hệ và tổng quát là các con số nguyên tố tăng lên hướng về vô tận, khỏang cách giữa
chúng chống lại hiểu biết theo trực
giác– counter intituively, không
luôn giống như nhau : dù cách nào các
con số nguyên tố lớn đến thế nào đi
nữa, bạn luôn tìm thấy những cặp
khác biệt nhau lớn hơn hết là 70 triệu . Đáng công nhận 70 triệu là con số lớn hơn 2
nhiều, cho nên phỏng đóan các số nguyên tố sinh đôi vẫn còn chưa có giải đáp . Nhưng Zhang thiết lập lần đầu tiên bước tiến ( và siêu khó khăn ) cần thiết, trải dài giữa các con
số nguyên kế tiếp nhau, không tăng trưởng mãi hướng về vô tận.
Cùng ngày
Zhang trổi dậy từ bóng tối tiết lộ
chứngcớ đáng kinh ngạc, Harald Helgottt
đập rạn nứt một vấn đề lẫn tránh
danh tiếng khác liên hệ tới các con số nguyên tố, một biến thiên của phỏng đóan Goldbach , tuyên bố là mọi số chẳng (đều nhau) lớn hơn 2 là số cọng của hai số nguyên tố ( chẳng hạn 16= 5+11 ) . Thay vào đó , Helfgott nêu ra một chứng cớ của “ phỏng đóan số lẽ,
lạ lùng Goldbach” cho rằng mọi con số lẽ
lạ lùng trên 5 là cọng số của ba số nguyên tố (19=3+5+11 ). Đây là một bước tiến quan trọng
đúng hướng , vì lẽ phỏng đóan Goldbach tòan diện bao hàm
dịch bản số lẽ : nếu bạn lấy một số lẽ ( chẳng hạn số 19 ) , trừ đi số
nguyên tố 3 ( như vậy bạn còn 16 ) và áp dụng phỏng đóan Goldbach với con số
chẳng thành quả ( 16= 5+11 ).
Trong lúc chứng
cớ Helfgott không giải quyết tòan thể phỏng đóan , được xem là khó khăn hơn ,
nó chói rực một ánh sáng về lối múa nhảy
phức tạp các số nguyên tố thu hút
vào. Nay , thì phỏng đóan tòan diện , song song với phong đóan hầu như nhưng chưa hòan tòan
chứng minh của Zhang về các số nguyên tố
sinh đôi , vẫn còn là một công việc béo bở, đọa đày cho các nhà tóan học
tươnglai .
(chiếu theo
tuần san Khám Phá – Hoa Kỳ, số tháng Giêng- Hai 2014 )
( Irvine –
Nam Ca Li – Hoa Kỳ, ngày 21 tháng 12 năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét