8 công ăn việc làm tệ hại nhất (và 3 vĩ đại nhất ), ở ngành khoa học ngày nay.
G S Tôn Thất Trình
Bạn hãy cùng chúng
tôi khám phá 8 công ăn việc làm đáng càu
nhàu nhất, các nhà khảo cứu thực hiện và học hỏi tại sao họ lại chịu đựng,
nhân danh khoa học, những điều kiện
thiếu vệ sinh, không làm lóa mắt, và đôi khi không an tòan
như thế ?
1-
Nhà phát
triển mùi vị kem ( nước đá ) – ice cream
Chris Rivard
có một chức tước chính thức cầu
kỳ: chánh chuyên gia khoa học thực phẩm
cho các họat động R& D ( Khảo
cứu và Phát triển) tòan cầu. Ở hảng Ben
và Jerry, ông được mệnh danh là : “ thầy tinh thần mùi vị - flavor guru”. Rivard sử dụng bằng cấp ông về khoa học thực
phẩm và dinh dưỡng để phát triễn mùi vị cho kem
hảng to lớn này. Trung bình mỗi
ngày, ông sẽ thí nghiệm các dịch bản kiểu mẩu đầu tiên cho kem đông lạnh cổ điển cũng như vài
lọai kem lạ lùng mùi vị được nhóm R&D thử nghiệm, tỉ như nước
chấm trại chăn nuôi – ranch dressing, tỏi chiên và nấm ăn. Muốn hòan tất
phối hợp cần nhẫn nại và một thích thú thèm ăn mạnh mẽ, nhưng đó là những
hy sinh ngành doanh vụ làm kem đòi hỏi. Một năm một lần, Rivard và các gu ru mùi
vị làm một chuyến thăm viếng ngòai trời.
Lịch trình theo ông là “ đi vào một đô thị đã lựa chọn, hầu tìm cảm hứng cho những mùi vị và sản phẩm mới”. Sau khi trở về, ông làm chiến lược cho nhóm
thị trường của công ty về mùi vị nào phải phát triễn trên thị trường ngọai quốc. “ Làm việc
cho nhóm toàn cầu có thêm được một tiếp cận thích thú.” Với những ngôn
ngữ khác biệt, đây là một thách thức độc đáo. Chúng tôi phải giải thích, ở một
điểm nào đó , rằng chúng tôi thật sự không bỏ thêm những khúc lòai khỉ - chunks of monkeys vào kem Khỉ
Từng mảnh – Chunky Monkey.”
2- Kỹ sư hiệu năng xe Corvette
Alex MacDonald được trả tiền lái
xe Corvette. Là một kỷ sư hiệu năng chuyên môn về kiểm sóat khung gầm ô tô cho hảng General Motors ( GM ) và nguyên là một tài tử lái xe đua
McDonald thử nghiệm xe trên những mắt phẳng cực đoan; nước đá, sỏi và cát , hầu
định giá hiệu năng các hệ thống thắng xe
và theo dõi những phần mềm của chúng.
Điển hình , ông chạy thử nghiệm trên những đường cao tốc. Phần mềm ghi
chú hàng ngàn biến thiên, trong khi một
kỷ sư định cở thứ hạng, sử dụng súng ngắn có tem thì giờ- time stamps ghi các dữ liệu và các phê bình nhập sản vào một computer để
đùi. McDonald , phải thử nghiệm hiệu năng các xe GM khác tỉ như xe Camaro, thường 2 năm trước khi chúng
được sản xuất. Ông nói : “ Nhiều ngày đó là công việc tốt nhất thế giới
“ chính tôi cũng muốn trả tiền làm việc
này .”
3 – Kẻ thử nghiệm sản phẩm cực đoan
Trên diện tích mặt phẳng, công việc
của Mark Gammage có vẽ khá buồn chán .
Gammage là xử lý nhóm của La bô Armway ‘s Reliability Lab, chỉ huy một nhóm 4 kỷ sư họa kiểu những thiết bị và phần mềm thử nghiệm sản phẩm phức tạp. Nhưng
định hướng thật sự cho nhóm là những
cách sáng tạo để tra tấn và phá hủy những gì công ty làm ra. Các thử
nghiệm la bô, tên gọi là “ Phòng của
Diệt Vong – The Room of Doom” gồm luôn cả soong nồi, các linh kiện y khoa
và các sản phẩm khác .phô bày ở những nhiệt độ quá xá và áp đảo chúng dưới điện
8 000 volts , hầu bắt chước tiếng sét đánh. Gammage nói rằng
thử nghiệm ông yêu chuộng là để
dò ra sự yếu kém trong các thùng trị nước, liên quan đến tăng áp lực , cho đến khi nào chúng nổ tan. Ông giải thích: “ Bạn có thể nghe nó và nhìn nó khi nó nổ tan bên trong bao bảo vệ nó. Nhiều lần, các khách mời được trao danh dự làm như thế và làm tăng dần áp lực. Điều này luôn
luôn làm nở trên mặt họ một nụ cười tươi.
Và sau đây là những công ăn việc làm tệ hại :
3-
Kỹ sư “ đường
Tàu hầm “ – subway engineer
Đường tàu hầm - subway ở Thành phố Nữu Ước –
New York City chuyên chở mỗi ngày 5.4 triệu, người ngang qua 660 dặm Anh (#
1062 km ) phần lớn ở sâu dưới thành phố ở những đường hầm –
tunnels ẩm thấp , đầy sâu bọ. Những
người di chuyễn đi qua những ngã đường
không ngờ đến, và một đám nhỏ kỷ sư chuyễn vận công tác mệt nhọc, đang thử
nghiệm các tín hiệu , bảo đảm là các
đường tàu chạy đã được đặt chính chắn.
Dù Cơ Quan Chuyễn vận Đô thành – Meropolitan Transportation
Authority ( MTA ) đã huấn luyện họ rộng rải, sâu đậm, không có cái gì sửa sọan tốt cho các kỷ sư họat động ở đường hầm cả. Mùa hè nhiệt độ có thể trên100 độ F ( 40 độ C ). Chuột cũng như những kẻ vô gia cư , trốn chạy khắp nơi. Rồi đến các câu chuyện đường sắt thứ ba, nguồn điện cho
xe tàu đường hầm, chuyễn dịch cao thế đến
600 volt DC ( điện một chiều ), đủ điện để làm tổn thương hay giết người.
Các tàu nặng 400 tấn và chạy liên hồi
tốc độ 30 dặm Anh ( 48km ) một giờ hay
mau hơn nữa. Joe Leader,
quyền phó chủ tịch Cơ quan Chuyễn dịch TP- ban
đường hầm, nói : “ khi tuyễn dụng
ai đó chưa bao giờ biết một môi trường tương tự ,
bạn phải mở to mắt, đưa họ xuống đường
hầm và giải thóat họ khỏi lo sợ trước đã
.
4-
Giải phẩu
Nai sừng tấm Bắc Mỹ
Rất ít nhà khảo cứu trên thế giới lại có bao tử mạnh mẽ hơn John Vucetich. Ông là phó giáo sư sinh học của Viện đại học kỷ thuật Michigan và đang nghiên cứu dân số động lực học giữa chó sói xám và nai Bắc Mỹ
ở Isle Royal , một công viên quốc gia,
ngay khi vừa rời khỏi phía Đông Bắc TP Minnesota ở Đại Hồ - Lake
Superior. Dù có vẽ lãng mạn, công việc Vucetich thường là một nhiệm vụ tàn nhẫn, tìm kiếm các thịt thối rữa của nai
sừng tấm. Điễn hình, săn bắt khởi sự bằng mùi ngửi thấy: mùi bệnh tật của thịt thối rữa. Khi họ tìm ra một xác chết, Vucetich và nhóm
ông bắt đầu chặt xác với búa hay dao ( Vucetich khuyên nên lấy hàm
ra khỏi sọ, như vậy dễ mang đi hơn ).
Hầu muốn đến tận xương, họ phải đi qua hàng đàn ruồi bu và ve –
bét. Một thây
xác có thể mang theo hơn 50 000 con bét
, thảy mọi bét đều tìm kiếm một gia cư máu
nóng mới .
Rồi còn phải chuyên chở. Các nhà
khảo cứu phải kéo lê 40 cân Anh xương , thường
dưới cả mét tuyết, đến la bô để phân tích. Họ cũng phải thu thập gần như
một lô phẩn chó sói cho các nghiên cứu
di truyền và sỉ số dân cư. Vucetich nói
: “ bạn giống như Ông Già Noel vậy. Khi
bàn làm xong, bạn có cả bao tạ
rác rưới này chứa đầy đồ tặng phẩm ?” Khi đã đến la bô ở công viên, các nhà khảo cứu
sửa sọan tồn trữ vĩnh viễn cất xương, bằng cách xối lên chúng một thùng
nước sôi lớn , đốt tan hết thịt và lông nai sừng tấm hầm còn sót lại. Dữ liệu Vucetich thu thập, giúp các nhà sinh học hiểu biết cách nào ăn uống
thiếu thốn thuở ban đầu, có cơ làm cho nai sừng đủ
khả năng tránh khỏi các thú bắt
mồi giết chết, những thời sau .
5-
Nhà thu
thập dữ liệu thị trường thịt thú rừng- bush meat
Chắc chắn là có nhiều người thích khỉ. Nhưng
ít ai thử nghiệm yêu thương này cho bằng được Jake Owens. Là một thí sinh cấp bằng tiến sĩ ngành khoa học môi sinh, viện đại học Drexel
University, nghiên cứu cư xử và sinh học của khỉ mặt xanh – drill
monkey . Điễn hình là những chuyến viếng thăm đảo Bioko
ngòai khơi vùng bờ biển Ghi nê nhiệt đới, nơi ông nơi ông phải bò qua những đám cây cỏ đầy rắn để thu thập phẩn
khỉ. Năm 2010, Owens phải nghiên cứu một
thị trường thịt thú rừng bất hợp pháp ở
nước Phi châu Ghi nê Nhiệt đới , nơi các
thương gia bán thịt các linh trưởng đang bị nguy cơ tuyệt chủng. Giữa mùi hôi thối thịt thối rữa, ông lấy hàng
trăm mẩu lông và mô ( tissues ) khỉ, để phân tích đồng vị phóng xạ - isotope analysis .
Owens sử dụng dữ liệu này để định vị trí những nơi săn thú trộm nóng hổi. “ Đa số dân gian ở thị trường thù ghét tôi hay cố gắng chận đứng săn thú trộm mà tôi đại diện và họ không che dấu vụ thù ghét này”. Các thương gia thường xuyên dùng chổi đánh đập ông, nhỏ nước bọt ở chân ông , xoay
qua xoay lại bó đuốc và dao rựa đuổi ông đi.
Phần thưởng kiên trì của ông là
một tháng trời đau ốm, khiến tóc ông rụng hết.
6-
Kẻ làm
kiểu mẫu hệ thống tiêu hóa
Cho rằng công
việc của Glenn Gibson thối hoắc là một lời nói còn dè dặt. Gibson là giáo sư vi trùng học của viện đại học Vương Quốc Anh Reading và ông nghiên
cứu các vi khuẩn tìm thấy trong ruột con người,
hầu phát triễn những phép chửa trị những rối lọan tỉ như hội chứng ruột
bị khó chịu, đau rát. Muốn làm khảo cứu này, Gibson phải đổ vào mỗi khúc mô hình tiêu hóa con người, một chất lỏng làm từ các mẩu cứt- phẩn người thiện nguyện . Rồi giáo
sư phải quan sát các mẩu vi khuẩn theo phép sắc ký lỏng – liquid chromatography.
Mùi hôi thấm đầy la bô , luôn cả
tòan thể khu xây cất và vùng chung quanh . Gibson cố hết sức tự bảo vệ mình khỏi bị nhiễm trùng, đeo găng tay và miệng bịt mặt nạ , nhưng không tránh hết được mọi đụng
nhằm. Có khi ông bị tạt đầy phẩn chứa máu, khi mở một gói thư đưa tới la bô. May mắn thay, không phải mọi sự cung cấp đều phiền hà như thế, ít nhất là đối với ông .
Ông cho biết: “ cách đây vài năm , chúng
tôi đang chờ đợi giao hàng hàng trăm mẩu phẩn
từ Hoa Kỳ, nhưng thay vì nhận mẩu phẩn , chúng tôi lại nhận một hộp thịt
sườn heo. Tôi hy vọng là người chờ đợi thịt heo sẽ không nhận được hộp phẩn đánglý phải gửi đến chúng tôi” .
7-
Nhà thiên
văn học Mùa Đông Nam Cực
Năm 2005,
Cynthia Chiang- Tưởng, một thạc sĩ vật lý học tốt nghiệp ở đại học Caltech, Bang Ca Li Hoa Kỳ (năm
2013 vừa được xếp hạng nhất về giáo dục
thế giới trên hẳn đại học kỷ thuật MIT và đại học Harvard, đaihọc Oxford …
) có một lựa chọn họat động trên một viễn vọng kính tại Hawaii
hay ở Nam Cực- Antartica . Bà nói : khỏi cần suy nghĩ vì bạn có thể mua
vé máy bay từ Nam Cực đến Hawaii
bất cứ lúc nào .” Thế cho nên từ trạm Amundsen –Scott Nam Cực, bà
trải qua một mùa hè nhiệt độ -40
độ F( - 14 độ C ) đến -10 độ F ( - 8 độ
C ). Ăn những bửa ăn hạn chế và nhiều ngày dài nghiên cứu phóng xạ vũ trụ phía sau , xuyên qua viễn vọng kính “ Hình ảnh Phía sau của Phân cực Vũ trụ Ngọai Thiên hà- Backgrond Imaging of Cosmic Extragalactic
Polarization. “ Các điều kiện
rất cực nhọc nhưng không ghê rỡn.
Rồi năm 2012, Cynthia Tưởng trở lại đây vào mùa Đông.
Ở Nam Cực,
mặt trời hiện ra ngày 21 tháng ba và và
không hiện lại, mãi cho đến tháng chín.
Nhiệt độ mùa Đông là từ -70 đến - 90 độ
F (# -20 đến – 30 độ C ) nhưng thường
xuống dưới – 100 độ F ( # - 40 độ C ). Các nhà khoa học vẫn thường xuyên phải
ra ngòai trời để sóat lại thiết bị và cho dầu mỡ vào các hộp số nâng viễn vọng kính . Khi ra ngòai, các
lông mì thường đông gía lại với nhau,
khi nhíu mắt. Vì không khí lạnh không
thể nào giữ lại nhiều hơi nước; khí hậu
ngay cả bên trong trạm quá khô, nên mũi Tưởng chảy máu cam ( mủi) và da đầy gàu. Và vì chỉ có chừng 50 nhà khảo cứu và nhân viên hổ trợ
được lựa chọn mùa Đông Nam Cực ( so với
170 người mùa hè ), đóng đô tại đây có
phần cô đơn hơn. Một vòi hoa sen nóng có
cơ giúp chịu đựng thiếu thốn, nhưng dù sỉ số người bé nhỏ mùa đông, cư dân
bị giới hạn chỉ được dùng vòi hoa sen hai lần mỗi tuần lễ, hai phút mỗi
lần. May thay, không có giới hạn nào dùng phòng tắm hơi – sauna của trạm .
8-
Người bốc
bùn- mud logger
Kurt
Vanderyt phải trải qua một năm sau khi
nghiên cứu địa chất học ở một trường đại học – cao đẳng cho biết là ai đó bốc bùn là làm một công việc bạc bẻ ,vô ơn . Trong mọi công việc trên một giàn khoan dầu, kẻ bốc bùn đứng hạng chót ở dây chuyền thực phẩm . Và
không ai làm cho bạn quên hết chuyện đi.
Công việc tự mình rỏ ràng dữ tợn: thu thập và và
xem xét các mẩu đá từ một giếng đang khoan bị buộc đưa lên và ghi chú
mọi thành phần kim lọai mọi mẩu và tiềm năng hydrocarbon. Đúng vậy, lần này qua lần khác : 12 giờ nhìn vào một kính hiển vi, nhiều tuần lễ cho
đến cuối. Các tay bốc bùn làm việc từng
cặp đôi, cho nên khi một kẻ bốc bùn thì
kẻ kia đi ngũ. Điển hình họ thay phiên
nhau ngũ một giường.
Làm thân trâu
ngựa cũng có thể chịu nổi. Nhưng bùn nghẹn có thể đòi hỏi các tay bốc bùn nghiêng vai sâu vào trong thùng chứa bùn khoan gọi là bụng
thú đuôi quấn- possum để làm sạch nó. Vanderyt nay là Phó chủ tịch thám
hiểm tại hảng Brigadier Oil & Gas , cũng đã thấy những nguy hiểm bất trắc ở công việc khác.
Ông nhớ lại “ Có khi tôi tìm thấy một lớp bùn
còn thiếu nhiều trăm mét đáng giải thích . Tôi sóat lại khu thảo luận và tìm ra mô tả tình huống là “ bò đã ăn mất
mẩu rồi”.
….
( chiếu theo Doug Cantor, Khoa học Phổ thông – Hoa kỳ số tháng 11,
2013)
( Irvine
, Nam Cali ,
ngày 27 tháng 10 năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét