Vai trò của Việt Nam ngày nay như thế nào ở Vùng Mê Kông ?
Cửu Long Việt Nam, khi nào đuổi kịp Thái Lan ?.
Cập nhật hiểu biết vùng Mekong: Sông Cửu Long
G S Tôn Thất Trình
Đông Nam Á lục
địa đã phải phấn đấu chống lại các quốc gia ngoai quốc từ thời thuộc địa đến
Chiến Tranh Lạnh, nay cuối cùng đã tự chiến đấu cho mình . Căm Bốt , Lào và Việt
Nam nguyên thuộc Đông Pháp đã tăng trưởng đáng kinh ngạc ,: hai quốc gia
sau lấy dấu hiệu của Trung Quốc , pha
trộn chủ nghĩa Cọng Sản với chủ nghĩa tư bản . Myanmar , trước đây là Miến
Điện- Burma, có lúc là một thành phần Ấn Độ thuộc Anh , đang mau lẹ mở
toang cửa cho thương mãi và đầu tư ngọai quốc, sau nhiều chục năm dưới ách độc tài quân phiệt ốc đảo . Thái Lan nước duy nhất chưa bị một cường quốc Âu Châu nào đô hộ ( có lẽ may
mắn làm một nước độn giữa hai Đế Quốc Anh và Pháp ? ) đã tỏ ra nhiều sức đàn hồi
dù bất hòa chánh trị kéo dài, sôi nổi biến thành một trung tâm chế tạo công nghệ , du lịch và dịch vụ.
Ngay cả lúc tiến tới, Đông Nam Á, một cách lạ lung, bắt đầu giống y hệt thành phần của quá khứ thuộc địa, khi các dân gian phần lớn là Phật Giáo, dọc ngang tự do trong vùng cố tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn , pha trộn lẫn lộn các tộc dân và
ngôn ngữ . Một khi các rào cản thương
mãi được gỡ đi và các biên giới được mở
toang , dân gian và thương mãi di chuyễn tự do hơn khắp vùng, gồm luôn cả tỉnh Vân Nam
miền Nam Trung Quốc. Kinh tế, văn hóa
Vân Nam trở nên nối kết chằng chịt với 5
quốc gia kể trên , như đã xảy ra trong quá khứ.
Hiểu biết tường
tận hơn hứa hẹn của Vùng, cần có một nắm chặc, không chỉ là mối chằng chịt lớn thêm giữa các quốc gia
mà còn về phía nhân khẩu học nữa. Chung lại
, các nền kinh tế Đông Nam Á lục địa
này tạo ra một thị trường tiêu thụ và lao động trên 300 triệu người lợi tức gia tăng mỗi ngày và tổng lợi tức GDP
phối hợp có thể lớn hơn 1 ngàn tỉ - 1 trillion đô la Mỹ vào năm 2020 . Nếu thêm vào các
quốc gia Đông Nam Á biển khơi: Brunêi, Inđônêxia, Mã lai Á, Phi Luật Tân và Singapore thì Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á – Association of
South Asian Nations ASEAN , thành lập đã
46 năm rồi, là gia thất cho trên 2.2 ngàn tỉ
tổng lợi tức GDP phối hợp và 620
triệu người. Các hội viên
ASEAN, dân số rất trẻ trung đang hoạt động, lại có
nhiều tài nguyên thiên nhiên từ đất đai thích hợp cho nông nghiệp và cho sản xuất gỗ đến những mỏ
kim lọai đồ sộ và các dự trữ dầu lữa và dầu khí to lớn . Với hội
nhập kinh tế lớn hơn qui họach cho năm 2015, các quốc gia Đông Nam Á lục địa sẽ bước vào một thời đại mới đầy hứa hẹn và
phồn thịnh .
Các cường quốc ngọai quốc vẫn còn đóng một
vai trò trong vùng , nhưng liên can này
có thể vừa đem lợi nhuận cho cả dân địa phương lẫn ngọai quốc . Như thể Trò Chơi Lớn- The Great Game thế kỷ thứ 19 ,khi các đế quốc Anh và Hoa Kỳ tranh đấu dành nhau Trung Á - Central Asia, ngày nay Trung
Quốc và Hoa Kỳ nổ lực chiếm
ảnh hưởng ở Đông Nam Á lục địa ,
trong khi Nhật vẫn đầu tư mạnh mẽ và Ấn Độ
cố tâm tạo ảnh hưởng văn hóa đáng
kể. Liên can các cường quốc chánh này là
dấu hiệu tốt cho vùng, nếu liên can làm tối thiểu căng thẳng bất cứ chánh trị địa
lý nào và làm tối đa các lợi nhuận kinh
tế. Trong lúc phần còn lại của nền kinh
tế tòan cầu tuồng như đỏng đảnh , không ổn định , không chắc chắn , Đông Nam Á
lục địa, với ổn định tương đối, đa dạng ,
có vị trí chiến lược, đang cố tình hút dẫn đầu tư xa - gần.
Hãy theo dòng sông
Căm Bốt, Lào,
Myanmar và Việt Nam chắc có thể duy trì mức tăng trưởng hàng năm từ 5 đến 7 % trong thập niên tới . Tăng trưởng Thái Lan hy vọng sẽ chao đảo từ 4
đến 6 %. Và tỉnh Vân Nam có một nền kinh
tế khiến nhiều quốc quốc gia độc lập
ghen tị: dân số tỉnh là 50 triệu người , GDP
là 150 tỉ đô la ( nghĩa lớn GDP Việt Nam gần 50% , trong khi dân số chỉ
hơn phân nữa đôi chút) và một họat động kinh tế trên hẳn trung bình quốc gia
Tàu . Ở mọi nền kinh tế này , lạm phát đã được kéo xuống dưới 2 con số, tuy rằng lạm
phát vẫn còn lớn nhất tại Việt Nam. Mọi
quốc gia kể trên đều có dự trữ tiền tệ
quốc tế lành mạnh, những trương mục ngọai quốc bền vững và các dáng hình nợ nần
xử lý được. Ngọai trừ Thái Lan có GDP
teo lại đôi chút năm 2009 , mọi nước Đông Nam Á lục địa đã giữ
cho mức tăng trưởng vẫn tăng , suốt khủng
hỏang tài chánh năm 2008 . Tuy nhiên tiềm
năng vùng vuợt trên các con số đăng hàng đầu trang nhất . Một cách nắm chặc tốt là nhìn vào địa lý đặc biệ
t là sông MêKông .
Chiều dài sông Mê Kông đứng hạng thứ 12 thế
giới. Chảy xuôi Nam , bắt nguồn từ tỉnh
Vân Nam đến Việt Nam, chiếm một triệu dặm Anh vuông( 2.59 triệu km2
) , nghĩa là hơn ¼ kích thước Hoa Kỳ. Từ năm 1992, Đại phụ vùng Mê Kông Lớn
Hơn – Greater Mekong Subregion GMS ,
một sáng kiến do Ngân Hàng Phát Triễ n Á Châu quản trị , đã cố công buộc lại
cùng nhau tiềm năng kinh tế của 6 quốc gia dọc theo sông , xuyên qua một lọat dự
án phát triễn đường bộ và đường xe lữa.
Những cố gắng tụ điểm vào nới rộng các liên
kết Đông Nam Á với miền Nam Trung Quốc.
GMS cũng gồm thêm Vùng tự trị Quảng
Tây Choang hay Tráng- Guang Xi Zhuangzu zizhiqu, Guangxi Zhuang Autonomous Region của Trung Quốc , nằm về phía Đông Vân Nam và phía Bắc Việt Nam
, nơi cũng có 50 triệu người sinh sống và một nền kinh tế
trị gía 200 triệu đô la Mỹ ( khỏang 2 lần Việt Nam và có nghĩa là lợi tức
GDP mỗi đầu người Tàu Choang tự trị Quảng Tây 4 lần cao hơn Việt Nam ) .
Hội nhập đòi hỏi
chuyên chở, và nay GMS đã có hơn 5 40
000 dặm Anh ( # 938 000 km ) đường bộ và
11 700 dặm Anh( # 19 900 km ) đường rầy xe lữa . Từ năm 2005 ,
mạng lưới đường bộ đã tăng thêm hơn 37% và mạng lưới đường rầy cũng tăng 10 % kể từ
năm 2001. Nhũng mạng lưới này không những nới rộng khắp vùng mà còn bên trong các quốc
gia cá nhân, khi nền kinh tế các quốc gia này
tăng . Chẳn hạn , Thái Lan dự
tính chi ra hơn 66 tỉ đô la trong vòng 7
năm tới , để tăng gấp đôi khả năng đường rầy. Theo Ngân Hàng Á Châu xây cất đang làm và xây
xất mới xa lộ trong vùng sẽ rút ngắn thời
giờ di du hành đã được rút ngắn chỉ còn
phân nữa trong các thập niên qua, làm
các phí tổn giao dịch kinh doanh và mở rộng
thêm thị trường và giúp đẩy mạnh tăng
trưởng các quốc gia GMS chừng giữa 1.1 và 8.3 % vào năm 2015 . Nâng hàng triệu người r a khỏi cảnh nghèo
khổ cay nghiệt, đặc biệt ở Căm Bốt và ở Việt Nam .
Những mạng lưới đường bộ và đườngrầy tốt hơn cũng sẽ nối các thị trường lao động suốt khắp
Đông Nam Á lục địa và di chuyễn đầu tư từ quốc gia này qua quốc gia kia. Hon 2.5 triêu dân lao động di cư , đa số từ
Myanmar , nhưng 250 000 lại từ Căm Bốt
đã đến Thái Lan , 70 % không có hồ sơ lý lịch
và họat động ỏ các dịch vụ và công nghệ chế tạo tiền lương thấ p kém
. Không có họ , nền kinh tế Thái sẽ
chìm xuồng . Cơ cấu chuyên chở tốt hơn
có thể cũng khuyến khích thêm đầu tư từ Thái Lan đến Căm Bốt, Lào và Myanmar . Khi Bang Kok – Vọng Các l à
trung tâm hàng không và du lịch trong vùng Vạng Các đã nhận nhiều lợi nhuận từ
các tăng trưởng tiếp tục các nước láng giềng , khi các du khách và ngọai giao
ngọai quốc (phần lớn là Tây Phương) và
các chuyên viên nhiều ngành phát triễn
và doanh nhân bị những cơ hội mới lôi
kéo, ở các nước đổi thay mau lẹ này viếng
thăm thủ đô Thái Lan.
Ưu điểm so sánh
Về phần mình,
Lào không chỉ gửi đến Thái các kẻ đi nghỉ mát biệt xứ . Được xem là “bình điện của Đông Nam Á” Lào là một nhà xuất cảng thủy điện chán và bán gần như toàn thể điện dư thừa cho Thái
Lan (
trị giá chừng 1 tỉ đô la năm 2013 ). Không có điện từ Lào, Thái Lan buộc sẽ trở lại thời gian đèn tắt tối om lăn cuộn thường xuyên thập niên 1960 và 1970
. Và Lào dự tính tăng thêm năng xuất: một đập mới khổng lồ đang được xây cất dọc theo hạ lưu Sông MeKong
và đảng cọng sản Lào đã chấp thuận
làm thêm một đập mới và dự án thêm chín đập khác .
Căm Bốt , một lân bang
phía dưới dòng sông Me kong của Lào đang
sử dụng công nghệ nhẹ chế tạo và
du lịch để thóat khỏi bú sửa viện trợ Trung Quốc mà họ chịu ơn;
Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất và là nhà viện trợ chánh cho Cam Bốt.
Công nghệ may mặc là nguồn thu nhập ngọai tệ lớn nhất nước , lên đến 75 % tổng số xuất cảng Căm Bốt.
2 triệu du khách nay thăm viếng nước này mỗi năm. Nằm kẹp giữa Việt Nam
và Thái Lan, Căm Bốt đã trồi phao, làm phồng lên viễn cảnh mình nhờ một
lực lượng lao động trẻ trung, đa số sinh sau khi hòa bình trở lại vào thập niên
1990 , chấm dứt những năm máu đổ tràn lan, dưới sự cai trị của Khmer Đỏ và chiến
tranh sau đó với Việt Nam.
Việt Nam có thể nới rộng được GDP của mình từ 6 đến 8% , vài năm tới, dù rằng tín dụng rối lọan , lạm phát 11.8%.
và giảm giả tiền bạc 3 lần các năm 2010
và 2011. Tuy phải phấn đấu cải cách kinh
tế , Việt Nam nhiều sức đàn hồi , có một
thị trường nội địa hơn 90 triệu người, làm thu hút đầu tư
ngọai quốc trực tiếp- foreign direct investment lớn nhất trong vùng và là một mục tiêu tăng trưởng hấp dẫn thập
niên này .
Trong lúc đó , Thái Lan không phải là
nước mới phất: kinh tế hướng về xuất khẩu tăng thêm trung bình hơn 7% mỗi
năm trong hơn 3. % thập niên qua mãi cho đến năm 1977, khi khủng
hỏang tài chánh Á Châu đã buộc lòng
Bangkok hạ giá đồng bath ( tiền tệ Thái
Lan ) và đưa Quỹ tiền tệ Quốc tế vào nước . Nhưng khi kinh tế Thái Lan phục hồi
, Thái Lan không rủ sạch được rắc rối với cạnh
trạnh, thành quả bị đấm đá giữa các quốc gia đồng lương thấp kém Trung Quốc và Việt Nam và các nước ngang hàng khéo léo chuyên môn Mã Lai Á và Hàn Quốc
( Nam Hàn ). Thiếu thốn lực lượng lao động chuyên môn cao cấp , được giáo dục- huấn nghệ giỏi giang đã khiến cho Thái Lan bị kiềm hãm ở “bẩy bắt
lợi tức trung lưu – middle income trap”
quanh mức 5000 đô la mỗi đầu người
. ( nhắc lại là nay lợi tức mỗi đầu người
Việt Nam khoảng 1500 đô la ? và Nam Hàn trên 20 000 đô la ). Thái Lan có thể thóat ra khỏi tình trạng
này bằng
cách tổ chức giáo dục tốt hơn, huấn
nghệ lao động lành nghề hơn và làm thị trường lao động Thái Lan cạnh tranh hơn,
đặc biệt ở lảnh vực dịch vụ .
Myanmar hiện
nay đang mở cửa dần dần, hòan tòan trái ngược tình cảnh Thái Lan
. Căn bản kinh tế thấp kém Myanmar giống
Căm Bốt đầu thập niên 1990 hơn, khi phụ thuộcvào ngọai viện ,cố đưa tới một vẽ
ổn định chánh trị xuyên qua cải cách hiến pháp và bầu cử , và nài nỉ đầu tư ngọai
quốc các công nghệ nhẹ chế tạo đầy cường tính lao động – labor intensive
, tỉ như tơ sợi và may mặc. Myanmar có
ưu điểm là sản xuất nhiều gỗ - timber, kim lọai và dầu lữa , khí dầu .
Nhưng tài nguyên cũng đem theo nhiều hiểm
nguy . Quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và ngọai viện có thể giúp tăng trưởng GDP dễ dàng , mau lẹ
nhưng làm nản lòng các đầu tư dài hạn trên các phương diện hạ tầng cơ sở , giáo dục
và kỷ thuật . May mắn thay ,các nhà lảnh
đạo Myanmar có nhiều lợi ích, có thể
nhìn xem cách nào các nước ở vào tình trạng tương tự, đã tiếp tục đeo đuổi
phát triễn kinh tế quá hạn từ lâu .
Một ưu điểm các nền kinh tế này chia sẽ là một dân số trẻ
trung ở tuổi họat động, cho nên khác hẳn Thế giới
đã Mở mang , họ có thể phát triễn tương lai tốt đẹp. Một khi mức lợi tức dâng cao , sức mua sắm lớn hơn, kể từ Myanmar đến Việt Nam, sẽ giúp các nền kinh tế này hút dẫn
các tổ hợp đa quốc gia và các công nghệ ngọai quốc, thích thú những thị trường nhân công rẽ mạt , lao động sẳn sàng và gần gủi.
Lợi tức cao thêm cũng sẽ giúp Đông Nam Á lục địa dựa vào hơn nữa các thị trường nội địa để tiêu thụ , giúp vùng tránh nạn ốc đảo bất ổn và thăng trầm các thị trường tòan cầu . Ngoài Thái Lan ra , các nước khác trên sông
Mê Kông sẽ leo lên hàng ngũ các lợi tức
trung lưu chậm rải hơn, nhưng lại có thể tránh rơi vào hầm hố năng xuất
lẻo đẻo dọc đường đi . Ngay cả khi các
quốc gia này thụ hưởng một thập niên
tăng trưởng , họ vẫn phải chống đở thêm
những nền tảng kinh tế và xã hội mình, nếu họ muốn nhìn
thấy nới rộng bền vững trong dài
hạn .
Nước sông cuồn cuộn
Thật thế ,
Đông Nam Á còn nhiều việc phải làm
. Đa số người tiêu thụ trong vùng ít có lợi tức sử dụng theo ý muốn, cho nên
các chánh phủ phải tụ điểm
trên việc nâng cao lợi tức này,
như thể là thành phần một phát triễn xã hội rộng lớn hơn . Giáo dục trong vùng cũng vẫn rất thấp kém .
Thái Lan là nước có những viện đại
học tốt nhất vùng cùng những cơ chế cao đẳng khác , nhưng ở xếp hạng tòan cầu mới đây thật là một vực thẳm, nói
lên sự cần thiết một khẩn cấp cải tiến giáo dục tốt đẹp hơn không những ở Thái Lan mà ở mọi nước trong vùng. Theo Ngân Hàng Thế Giới , ghi danh
học sinh trung học ở Căm Bốt , Lào và Myanmar chỈ mới ở mức 50% hay ít hơn ,dù cho tỉ lệ biết đọc biết viết dân trưởng thành trên
70% ở Căm Bốt và Lào , trên 90 % ở các
quốc gia GMS còn lại . Săn sóc y tế đáng
thương tâm là một vấn đề khác ở các quốc gia này, dù rằng tương đối Thái
Lan sáng sủa hơn chút ít. Các công dân
giàu có Căm Bốt ,Lào và Myanmar đi vào các bệnh viện Thái Lan khi họ cần chửa trị vì các lựa chọn y tê ở
ngay ước họ rất là thiếu sót. Các
chánh phủ cũng cần thu hẹp hố lợi tức cách biệt và phải bải bỏ cho được tình huống cực kỳ
nghèo khổ . Tại Căm Bốt, ước lượng 4 triệu người
sinh sống với lợi tức ít hơn 1.25
đô la/ngày : 37% trẻ em Căm Bốt dưới 5
tuổi , đau khổ vì thiếu dinh dưỡng .
Ccác hệ thống chánh trị
ở các nước trên sông Mekong, đã
được thử nghiệm . Như Thái Lan đã phô bày, khi lợi tức gia tăng , giới trung lưu trổi dậy đòi hỏi có một tiếng
nói . Điều này có nghĩa là áp lực dân chủ
hóa sẽ tăng gia cho các chánh phủ , thường quên bẳng điều này . Các tướng Myanmar và các bộ trưởng cọng sản
ở Lào và ở Việt Nam sẽ cần phải tìm ra một
phương cách tế nhị duy trì tính chất hợp
pháp chánh trị của họ , trong khi phải bổ sung thêm đủ đại diện quần chúng cho
các khối lượng dân gian , mỗi ngày mỗi đòi hỏi thêm lên.
Ngọai viện vùng vẫn còn phải dựa vào , có thể là một tai họa như thể là tài nguyên thiên nhiên vậy
đó . Các nền kinh tế mới mở và đang mở ở Căm Bốt , Lào và đặc biệt ở
Myanmar phải chú tâm đặc biệt đến mối đe dọa này : ngọai viện phong phú sẽ giảm áp lực trên chánh phủ cố tạo ra lợi tức xuyên qua tạo
công ăn việc làm , giáo dục và huấn nghệ tốt hơn cho lao động và những họat động
sản xuất khác . Tham nhũng cũng là một
căn bệnh bền bỉ ; các nước sông
Mekông xếp hạng rất thấp trên Chỉ số Trong sáng Quốc tế Cảm nhận Tham nhũng hàng
năm- Transparency International ‘s annual
Corruption Index.
Đập thủy điện 1,285 megawatt dự trù xây ở Xayaburi, Lào. |
Thái Lan xếp hạng
thứ 88 trên thế giới, cao nhất trong số
các quốc gia GMS . Myanmar hạng 172 và
Lào gần đó. Căn bệnh này sẽ không biến mất
qua đêm đâu , nhưng phải bớt đi theo thời gian . Nếu bệnh không chấm dứt
các quốc gia sẽ phải lao đao một hiệu năng kinh tế tê liệt và các chế độ sẽ
không còn bao nhiêu hợp pháp quần chúng nữa cả. Doanh nhân và các nhà đầu
tư sẽ nêu gương làm tốt, chảnh Hạn, nuôi
trồng một ý thức cai trị lành mạnh , tôn trọng điều hòa và luật lệ . Hiên Thái Lan đang lảnh đạo ở công tác này nhờ những chương trình tổ hợp trách nhiệm xã hội và các chiến dịch chống tham nhũng .
Cuối cùng , các
quốc gia Mekong phải cố chống lại, khỏi trở nên thành những kẻ thù tệ hại nhất của chính mình. Nước
có thể là một đe dọa thật sự cho vùng
trong thập niên tới: xây cất đập ở Lào đã đưa le6n quan ngại cho các láng giềng hậu bạn, để có được nước
và lo sợ về hủy họai, thoái hóa môi
sinh. Lào là chủ
nhân trụ sở , bản doanh Ủy Ban
Sông Mekong , một cơ quan của nhiều chánh phủ họat động với Căm Bốt , Lào, Thái Lan và Việt Nam, để phát triễn thủy điện
và quản lý nước. Nhưng chánh phủlào thường
hay miệt thị những luật lệ Ủy Ban ( một
phần vì các luật lệ này không máy giúp Lào và Việt Nam vì các chuyên viên quốc tế có phần thiên vị kẻ
đi trước là Thái Lan không bị chiến tranh làm tay sai cho các cường quốc tàn
phá đất nước hàng 3- 4 thập niên? ). Các làng giềng
phải cố tâm thuyết phục Trung quốc gia nhập Ủy Ban và tuân thủ các phê phán Ủy Ban .
Ánh sáng Mê Kong
Với phối hợp
các thị trường biên cương ( ở Căm Bốt , Lào và Myanmar ) và các nền kinh tế
đang trổi dậy ( Thái Lan, Việt Nam và tỉnh Tàu Vân Nam, Đông Nam Á lục địa khó lòng trở thành
một mục tiêu qui ước cho các nhà
đầu tư . Các thị trường biên cuơng – frontier markets điển hình là những đầu tư nhiều hiểm nguy nhất
, vì chưng chúng còn ít phát triễn hơn cả các thị trường đang trổi dậy và hay
thiếu những căn bản tỉ như tiền tệ ổn định và trao đổi hối đoái. Ngoại trừ hái Lan , vùng không
cống hiến những thị trường cổ phần chứng phiếu hấp dẫn. Nhưng vùng cống hiến bán lẽ ,
đón tiếp niềm nở ? , nông nghiệp,
ngư nghiệp , điện tử và lảnh vực xe ô
tô. Chẳng hạn Thái lan , quốc gia bị xe
hơi ám ảnh, ngành công nghệ xe hơi gồm các hảng chế tạo Nhật như Honda, Isuzu và Toyota đã tạo ra nữa triệu công ăn việc làm , chiếm
10 % GDP ( Việt Nam còn ở giai đọan xe gắn máy như Thai Lan cách đây 30- 40
năm và phát triễn xa lộ chưa đủ rộng rải để bị
xe hơi ám ảnh như Thái Lan hiện nay).
Tăng
trưởng ở mọi nền kinh tế
dọc theo Sông Mê Kông, gồm luôn cả kinh tế hai tinh Tàu Vân Nam
và Quảng Tây , phải bổ sung phát triễn lẫn nhau ở nhiều lảnh vực khác
nhau. Miền Nam Trung Quốc và Thái Lan có thể cung cấp tư bản , chuyên môn lành
nghề ( khi nào Viêt Nam đạt đến tình trạng này ?) và Căm Bốt , Lào , Myanmar và Việt Nam ( ?)
có thể đóng góp lao động , đất đai và tài nguyên thiên nhiên . Các dự án
hạ tầng cơ sở và chế tạo cống hiến cho các nhà đầu tư bên
ngòai những cơ hội tài trợ và các công ty ngọai quốc có thể cung cấp chuyên môn
và kỷ thuật rất cần thiết. Dù cho có những
lợi lộc ngắn hạn làm ra ởcác côngnghệ tỉ
như hầm mỏ ,lâm nghiệp , dầu lữa và khí dầu , các đầu tư dài hạn phải là danh
tánh các trò chơi tại đây . Mỗi tháng 10 ở Lào và Thái lan , dân gian tụ họp
hai bên bờ sông Mê Kong ca ngợi lễ hội Phật Giáo và chứng kiến điều họ
nhấn mạnh là một hiên tượng thiên nhiên không giải thích được là ánh sáng bùng lữa , có tên là “ banh lửa Rắn Hổ
mang – Naja fireballs” hay “ Ánh
Sáng Mê Kông” , bừng lên từ Sông . Tương tự như thế, sau khi
đã rũ sạch di sản thuộc địa và các tranh dành của các cường quốc
, các quốc gia Đông Nam Á lục địa đã đứng
dậy từ đại giang và cũng có thể bắt lữa nữa
đó . Họ có địa lý , tài nguyên thiên nhiên , và các dân cư mỗi ngày mỗi thêm nối kết nhau và hội nhập cùng nhau . Tương
lai là của họ đó và họ cần chụp, bắt nắm chặc lấy ?.
(Phần lớn là quan
điểm của Thitinan Pogsudhiral , giáo sư
kinh tế chánh trị quốc tế và là Giám đốc Viện Nghiên cứu An ninh và Quốc
tế tại Viện đại học Chulalongkorn ở Vọng Các – Bangkok, đăng tải
trên nguyệt san “Ngọai Giao” tháng 1- 2
năm 2014 )
( Irvine , Nam
Ca Li – Hoa Kỳ ngày 6 tháng 1 năm 2014)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét