AN
GIANG
A
n Giang, Long Xuyên- Châu Đốc, một phần đất Tầm Phong Long ,
năm 1757 thuộc đạo Châu Đốc sông Sau- Hậu Giang, vùng đất miền Tây gần như mảnh
đất cuối cùng chấm dứt cuộc Nam Tiến của dân Việt, ngòai đa số dân Kinh, còn
dân Việt gốc Miên –Khmer Krom đông nhất nước , dân Chăm( Chàm ) hồi giáo – Chà
Châu Giang, xứ tín ngưỡng bà Chúa Xứ,
đạo Phật Thầy Tây A-Bửu Hương Kỳ Soơn, tu thực hành Tứ Ân , nguồn gốc
Phật giáo Hòa Hảo, có nhiều đồi núi không cao nhưng nổi tiếng ( núi Sam , núi
Cấm , Thất Sơn , núi Cô Tô ) , cảng xưa Ba Thê văn minh đô thị Ốc Eo, sớm nhất
Đông Nam Á, xứ lúa gạo , nuôi cá Pangasius, nhưng cần phát triển công nghệ mạnh
mẽ hơn nữa, tăng gia giao thương và hợp tác Miên- Việt…
|
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời,
Chớ Năm Non , Bảy Núi vậy thời ở đâu ?
Năm Non ở tại xứ Đà ( Nẳng ),
Bảy Núi Châu Đốc gọi là Thất Sơn.
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc
Dốc nào cao bằng dốc Nam Vang,
Đói no em chịu cùng chàng,
Xuống sông ra biển, lên ngàn cũng theo .
( Ca Dao miền Nam )
Giòng An Giang sông sâu sóng biếc
Giòng An Giang cây xanh lá thắm
Lả lướt về qua Thất Sơn
Châu Đốc giòng sông uốn quanh
Giòng An Giang cây xanh lá thắm
Lả lướt về qua Thất Sơn
Châu Đốc giòng sông uốn quanh
Soi bóng Tiền Giang Cửu Long
...
Nắng vẫn chiếu trên làn sóng nhấp nhô,Nắng vẫn chiếu trên gò má hây hây mơ màng, ngây thơ.
...
Nắng vẫn chiếu trên làn sóng nhấp nhô,Nắng vẫn chiếu trên gò má hây hây mơ màng, ngây thơ.
(Giòng An Giang, nhạc phẩm Anh Việt Thu)
Trong thực tế thì An Giang còn bờ sông phía Tây Nam của dòng sông Trước ( Tiền Giang ). Bờ phía Tây và luôn cả Cù lao Tây trên sông Tiền thuộc tỉnh Đồng
Tháp , còn Cù lao Giêng phía dưới thuộc
An Giang, nhưng bờ
phía đông Cù lao Giêng lại thuộc
Đồng Tháp. Thị trấn Chợ
Mới gần
nơi hai nhánh sông Tiền nhập một, gần Cù Lao Tây. Hai đô thị lớn nhất
Châu Đốc và Long Xuyên đều nằm trên sông Hậu .
Vị trí, phân chia hành chánh ngày nay
Tọa độ tỉnh An Giang là 10030’ vĩ tuyến Bắc và 105010’ kinh
tuyến Đông. Phía
Tây Bắc, An Giang chia sẻ 100 km biên giới với Căm Bốt thuộc 3 tỉnh
Pray Veng ( không phải là tỉnh kế cận Svay Rieng) có thị
trấn lịch
sữ Miên- Việt là Ba Nam, Kang Dan và Tà Keo ( ? ). Phía Đông, giáp tỉnh Đồng Tháp . Phía Đông Nam giáp
TP Cần Thơ.
Phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang. Diện tích An Giang năm 2001 ghi là 3 406.2 km 2 (
1 315,1 dặm Anh vuông) nhưng tài liệu năm 2010 lại cho biết diện
tích này là 3 536.8 km2 .
Năm 1999 dân số An Giang là 1970 100 người; năm 2001 là 2099 400; năm 2004 là 2 170
100 ; nhưng năm 2010 lại ghi chỉ còn 2149 500? và năm
2011 là 2 151 000 . Thủ phủ
là TP Long Xuyên. Châu Đốc là thành phố thứ hai của tỉnh. Một thị trấn
lớn là Tân Châu.
Về
phương diện
hành chánh, An Giang hiện
có 9 huyện là An Phú ( 2
thị trấn và 12 xã nông thôn) , Châu Phú
- Cái Dầu ( 1 thị trấn
và 12 xã ) , Châu Thành - An Châu ( 1 thị
trấn và 12 xã), Chợ Mới
( 2 thị trấn và 16 xã ), Phú Tân- Chợ Vàm ( 2 thị trấn
và 16 xã ), Tân Châu - Phú Châu ( 5 phường
và 9 xã ), Thọai
Sơn- Núi Sập
( 3 thị
trấn và 14 xã ), Tịnh Biên- Nhà Bàng ( 3 thị
trấn và 11 xã ), Tri Tôn ( 2 thị trấn
và 13 xã ). Các tộc dân An Giang gồm Kinh - Việt, Khmer, Chăm (Chàm ) và Hoa. Vì gần Căm Bốt
nên Khmer Krom là tộc
dân đông nhất tỉnh nhà không thuộc nguồn
gốc Kinh - Việt. Kế
tiếp theo là tộc dân Chăm ( còn có tên là Chà Châu
Giang, không phải là Chà Và -
Java tuy từ Chà là tên rút gọn của
Chà Và ) theo đạo
hồi giáo Sunni Islam, khá đông, tuy ít hơn dân Kinh- Việt, ở
thành phố Châu Đốc .
Suôi dòng lịch sử
An
Giang ( và Châu Đốc ) là một trung tâm quan trọng của
nền văn minh Ốc Eo - Phù Nam xưa cũ, cách đây một ngàn năm, đã biến mất
một dạo
và sau đó nhiều vùng đất đai Phù Nam đã bị một
tiểu quốc
là Chân Lạp xâm chiếm, đô hộ.
Vì văn mình Ốc Eo- Phù Nam đã được đề cập
nhiều ở
các bài về tỉnh
Long An, tỉnh Đồng
tháp … nên không nói thêm ở đây nữa .
Công
lao mở nước Nam Tiến của công nương Ngọc Vạn lớn hơn công chúa Huyền Trân
nhiều.
Năm 1620,
Chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên , nghĩ đến Đồng
Bằng sông Cửu
Long, gả người con gái thứ nhì Nguyễn
Phước Ngọc
Vạn cho vua Chân Lạp là Chey - Chetta II trị vì từ
1618 đến 1628. Năm
1623, nhờ sự vận
động của Hoàng hậu
Ngọc Vạn, vua Chân Lạp nhường
lại khu dinh điền vùng Mô Xòai- Bà Rịa
cho người Việt khai thác. Năm 1658, Thái hậu Ngọc
Vạn chỉ cách cầu
cứu chúa Nguyễn cho hai hòang thân So và Ang Tan đánh
vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân ( trị vì 1642- 1659) .
Một góc trong hoàng cung vua Chân Lạp tại Nam Vang (ảnh Wiki) |
Chúa Hiền
Nguyễn Phước Tần
cử Phó tướng
dinh Trấn Biên ( Phú
Yên lúc đó ) là Tôn Thất
Yến, đem 3000 quân qua
giúp, bắt được Nặc
Ông Chân ở vùng Mô Xòai, đem về giam ở
Quảng Bình. Nặc Ông Chân từ
trần năm 1659. Chúa Nguyễn phong So lên là vua Chân Lạp tức
là Batom Reachea , trị
vì 1660-1672. Năm 1672, vua Baton Reachea bị giết.
Vợ Batom Reachea sát hại được
kẻ đã giết chồng
mình, đưa con Batom Rachea
lên ngôi là Ang Chai, sử
Việt gọi
là Nặc Ông Đài . Ông Đài
liên kết với Xiêm La đưa quân phòng thủ
Sài Côn, chống lại Đại
Việt. Năm 1674, Chúa Hiền cử
Cai cơ Nguyễn Dương
Lâm thuộc dinh Thái Khương, đem quân đánh chiếm Sài Côn và tiến lên Nam Vang, Nặc
Ông Đài trốn vào rừng rồi
bị thuộc quyền
giết chết.
Ang Tang cũng tử
trận, trao quyền lại
cho con là Ang Non, tức
là Nặc Ông Nộn, đóng quân ở Oudong-Long Úc . Em Nặc Ông Đài là Ang Saur, sử Việt
gọi là Nặc
Ông Thu, đuổi Nặc Ông Nộn
xuống Sài Côn. Chúa Hiền nhận Nặc
Ông Thu làm chánh quốc
vương đóng ở
Oudong và lập Nặc Ông Nộn
làm đệ nhị quốc
vương, đóng ở Sài Côn.
Thành lập chánh thức tỉnh An Giang năm 1832
Năm 1698,
chúa Minh Nguyễn Phước
Chu cử Nguyễn hữu Cảnh
(hay Kính) kinh lược đất
Chân Lạp. Nguyễn hữu Cảnh
lấy đất
Đồng Nai đặt thành huyện Phước
Long lập dinh Trấn Biên ( nay là Biên Hòa ), lấy đất Sài Côn đặt thành huyện Tân Bình lập dinh Phiên Trấn ( Gia Định ngày nay ). Năm 1735, tổng
binh đất Hà Tiên là Mặc Cửu thần
phục Đại
Việt năm 1708, từ trần. Chúa Minh phong cho
con là Mạc Thiên Tứ ( Tích) thay cha làm đô đốc trấn Hà Tiên. Năm 1744, Chúa Võ
Nguyễn Phước
Khóat, cầm quyền
từ 1738 đến 1765, chính thức xưng
vương hiệu,
chia Xứ Đàng Trong ra làm 12 dinh, có
3 dinh thuộc đất
Chiêm Thành cũ là dinh Phú Yên, dinh Bình Khương
( Khang ) và dinh Bình Thuận và 3 dinh
thuộc đất “ Chân Lạp cũ” là dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long Hồ .
Năm 1757, vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm
Phong Long ( nay là tỉnh An Giang và hai huyện Tầm Đôn và Xuy Lạp tỉnh Vĩnh Long ). Chúa chia đất này thành 3 đạo: đạo
Đông khẩu ở Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang và đạo Châu Đốc đạo
ở Hậu
Giang. Theo Lâm văn Bé( Dòng Việt 2005 ) đến năm 1768, cuộc Nam Tiến của dân Việt Nam coi như chấm
dứt. Lảnh
thổ Nam Kỳ lúc này chia thành 3
tỉnh : Đồng Nai ( bao gồm các tỉnh miền Đông ) Sài Gòn ( bao
gồm các vùng đất từ sông Sài Gòn đến cửa Cần
Giờ ) và Long Hồ ( bao gồm các vùng đất miền Tây ). Theo Phan Khoang (
Việt sử
Xứ Đàng Trong- Quyển Hạ ), năm 1769, vua Tiêm ( Xiêm La -
Thái Lan ngày nay ) Trịnh Quốc
Anh tổ chức
một cuộc chinh phạt lớn
để diệt
hai con vua cũ, đánh chiếm Tô Châu và Hà Tiên, đuổi Thiên Tứ và các con chạy xuống Kiên Giang - Rạch Giá, Trấn Giang- Cần Thơ. Lưu
thủ Long Hồ Tống phước
Hợp đem binh thuyền tới cứu,
kéo thẳng tới
sông Châu Đốc chống cự. Năm 1772, Chưởng cơ Nguyễn
cửu Đàm ( con Nguyễn cửu Vân ), khâm sai chánh thống xuất và Trần phước Thành tham tán quân vụ, đem 10 000 quân thủy bộ
hai dinh Bình Khương và Bình Thuận và 30 chiến thuyền vào Gia Định đánh Chân Lạp. Tháng 6 năm 1772, Tống
phước Hợp
tiến đóng giữ Châu Đốc. Nguyễn khoa Thuyên đem 3000 quân và 50 thuyền đánh Tiêm, nhưng thua phải rút về Kiên Giang; sau đó tiến lên Nam Vang phá được quân Tiêm, vua Tiêm và Nặc Nộn đều bỏ chạy.
Quân Việt thu phục các phủ Nam Vang, La Bích và Nặc Tôn trở về
nước. Năm 1775, Nặc Tôn nhường ngôi cho Ang Non II, tức Nặc Vinh, trị vì 1775 - 1779. Nặc Vinh không ưa người Việt
và thân Tiêm. Sau khi quân Tây Sơn nổi
dậy, quân nhà Nguyễn Phước Gia Định yêu cầu Nặc
Vinh giúp đở , nhưng
Nặc Vinh từ chối, và cũng không nạp cống nữa.
Năm 1776, chúa Duệ Tông Nguyễn Phước Thuần
sai Nguyễn Phước
Ánh đem quân đánh. Nặc Vinh biết nên đem quân chiếm Mỹ
Tho và Vĩnh Long, nhưng không giữ được lâu. Từ năm 1780, Đại Việt
đã kiểm sóat gần như hòan tòan 6 tỉnh Nam Kỳ ngày nay. Năm 1832, Vua Minh Mạng đổi tên trấn thời vua Gia Long và lập 6 tỉnh (Nam Kỳ Lục tỉnh ) thay cho 5 trấn thời vua cha; trong số 6 tỉnh này có tỉnh An Giang.
Vào thế kỷ thứ 19, nước Căm Bốt tiếp tục là nơi hai quốc gia Việt Nam và Tiêm La tranh
dành ảnh hưởng, can thiệp vào nội tình Chân Lạp. Triều đình Chân Lạp chia ra làm 2
phe phái đối
thủ : một phe thân Việt- Nguyễn và một phe thân Xiêm- Chakri .
Dù vua Chân Lạp
năm 1806, có gửi
triều cống sang cả hai thủ đô Vọng Các - Bangkok và Huế đi nữa, vua cũng không đem lại hòa bình lâu dài
cho xứ sở ông . Tranh chấp giữa vua và các anh em
vua, khiến
năm 1813, cả Tiêm lẫn Việt đều gửi quân đến Cam Bốt. Tiêm La chiếm các tỉnh Tonlé Repou,
Stung Chen và Mlu Prey. Đại
Việt khi đặt Nặc Ông Chân lên ngôi
lại đòi quyền chánh thức bảo hộ Chân Lạp. Năm 1833 , quân
Tiêm tấn công Việt Nam trên 5 chiến tuyến ở Lào và ở
Cambốt . Khi bị đẩy lui , bảo
hộ Cam Bốt biến thành xâm chiếm . Năm 1834, vua Minh mạng biến Căm Bốt thành “ Trấn Tây Thành” , chia ra
làm 32 huyện
và thi hành một
chánh sách đồng hóa
triệt để . Chánh sách
gây ra nhiều óan hận nên dân Miên nổi lọan khắp nơi , đặc biệt do hòan thân Nac
Ông Duang - Nặc
Ông Dương lảnh đạo, có Xiêm La
ủng hộ sau lưng . Vua Thiệu Trị năm 1841 , phải ra lệnh rút quân . Nhưng rồi Xiêm La lại khai thác Căm Bốt , khiến Căm Bốt phải cầu cứu Việt Nam. Căm Bốt thành chư hầu của
cả hai nước Xiêm La và Việt Nam. Tình
trạng này kéo dài
mãi cho nên năm 1863, sau khi Pháp đã chiếm
Sài Gòn . thành lập
nền bảo hộ Căm Bốt. Thỏa hiệp này do vua Norodom
cha vua Sihanouk ký ngày 11 tháng 8 năm 1863, lại không đề cập gì đến
biên giới Việt- Miên, dù rằng chính nó là
nguyên nhân vua Norodom xin Pháp bảo
hộ . Theo nhà
khảo cỗ học Pháp Franois Maspero ( tài liệu số 8, năm 1975 ),
chánh quyền
thuộc địa Nam Kỳ đã định ranh giới hai nước một cách độc đóan, không hỏi gì hai nước này gì cả. Chẳng hạn biên giới giữa Miên và Xiêm La
thay đổi , tùy
thuộc thời kỳ và lực lượng quân sự giữa Pháp và Tiêm . Trong
phiên bàn cải
ngày 9 tháng 3 năm 1949 tại
Quốc Hội Liên Hiệp Pháp - Union
francaise , phái đòan Căm Bốt
tỏ ra chia rẽ nhau, và việc Căm Bốt đòi lại các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên và một phần các tỉnh Rạch Giá, Sa Đéc,Tân An,Tây
Ninh , đảo
Phú Quốc, bảo vệ các thiểu số Khmer, sử dụng cảng Sài Gòn và quốc tế hóa sông Mê Kong,
theo bà Marie -Alexandrine Martin ( Le mal Cambodgien, 1989 ),
không được mấy ai ủng hộ , ngọai trừ vài dân biểu đảng xã hội Pháp. Năm 1953, khi
Căm Bốt dành lại quyền độc lập nước nhà, cũng không
đòi hỏi thêm gì hơn được, phải theo các đường ranh giới đã vẽ ra từ năm 1870 đến năm 1914. Tháng 8 năm
1959, vua Norodom Sihanouk đến
Sài Gòn đề nghị với tổng
thống Đệ Nhất Cộng Hòa chịu bải bỏ “ quyền hạn lịch sử - droits
historiques” đòi lại
các tỉnh miền Đông và miền Tây, nếu Việt Nam chịu công nhận nhận các ranh giới hai nước . Nhưng tổng thống Diệm lại phản đề nghịranh giới Sihanouk đưa ra và Sihanouk không chịu. Vào đầu thập niên 1960, quân đội Cộng Hòa miền Nam thi hành “ quyền đuổi theo- droit de
suite” quân Giải
Phóng miền Nam FNL
và quân Bắc Việt, đặc biệt ở “vùng Mỏ Vịt- Bec de canard, Viêt
Nam lại gọi là Mỏ Vẹt” tỉnh Tây Ninh, năm 1870
thống đốc Nam Kỳ đã đề nghị nhập vào lảnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa miền
Bắc lẫn FNL, đều nhìn nhận các ranh giới thuộc địa hay ranh giới “ hiện hữu -actuelles “. Nhưng Đường mòn Hồ Chí Minh dùng chở người và vật dụng đánh Cộng Hòa Miền Nam, đồng thời cũng là căn cứ trú ẩn, bệnh viện, kho dự trữ lương thực
võ khí, các trung tâm huấn
luyện, trên đất Căm Bốt gần các tỉnh biên giới Việt Nam Cộng Hòa, nên nhìn nhận không có giá trị tí nào cả. Miền Tây Bắc Cam Bốt thuộc các tỉnh Stung treng, Ratanakiri,
Mondulkiri thực tế do các Cọng Sản Việt Nam và đồng minh lúc đó là Khmer Đỏ kiểm sóat. Sau năm
1972 và đến
năm 1975, một
số Khmer Đỏ, tinh thần quốc gia qúa khích, bắt giết hay đuổi cư dân Việt Nam khỏi vùng này.
Sau khi Pol Pot thắng
chánh phủ Lon Nol,
năm 1975, Bắc
Việt vẫn cố tâm xâm nhập các tỉnh biên giới Miên - Việt, nhưng bị chống đối khó khăn lớn. Riêng về tỉnh An Giang, phải kể
đến vụ Khmer Đỏ tàn sát dân làng Ba
Chúc. Theo Wikipedia - tháng giêng 2014 ( “ chronologie Cambodge de1960 à
1990”- Khmercanada.site.voilà., ngày 02 tháng 6 năm 2013 ), khi Khmer Đỏ khởi sự đột kích vào các tỉnh từ
Tây Ninh xuống
đến Hà Tiên và các đảo Biển Tây , ngày 15 tháng tư năm 1975, Ba Chúc là một làng nhỏ an lành, có 3500 người. Trong 2 tuần lễ, kết thúc ngày 30 tháng tư năm 1978, Khmer Đỏ giết chết hết những ai thở được, chặt
tay chân trẻ em và
chặt người lớn ra làm nhiều khúc . Khi Khmer
Đỏ rút lui, làng Ba
Chúc chỉ còn 2 người sống sót . ...
Địa hình, địa danh tỉnh An Giang
Địa hình An Giang thuộc ĐBSCL gồm phần lớn là đất thấp khó thóat nuớc, cao độ trung bình 4- 10m .
Vùng núi thấp là Bảy Núi - Thất Sơn
thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên và núi Sam . Núi cao nhất Bảy Núi -Thất Sơn là núi Cấm, cao 710m cũng là núi rộng lớn nhất
gần làng An Hảo huyện Tịnh
Biên.
Núi
Sam, cao gần 1000m ( ? ) có tài liệu ghi chỉ cao 241m ( ? )
và rộng 280 ha
ở xã Vĩnh Tế , thị xã Châu Đốc, cách trung tâm
thị xã 5km .
Tên gọi là Sam
vì nhìn từ xa
trông núi tựa
một con cua lớn hình rau sam đen
- Black Portulaca King Crab, dán vào ngay chính giữa một cánh đồng bao la xanh ngắt. Một truyền thuyết khác thì đây là một hòn đảo giữa biễn có nhiều cây rau sam mọc nên đảo có tên là Hòn Lảnh Sơn hay Hòn Sam. Đường lên đỉnh núi, cây cối mọc xanh tốt ở các sườn
núi. Du khách có thể
đi bộ hay thuê xe tắc xi chở lên núi. Từ đỉnh núi có thể
nhìn thấy
thị xã Châu Đốc, một bức tranh vẽ nhà cao ráo, xây cất dọc theo kênh đào thuần khiết và thơ mộng . Nhưng
nổi tiếng hơn hết là núi có Miễu Bà chúa Xứ , chùa Tây An và lăng Thọai Ngọc Hầu.
“
Cầu tất ứng, thành tất linh, mộng trung chỉ thị,
Xiêm
khả kính, Thanh khả mộ, ý ngọai nan lường”
Núi Cấm
là một
trong Bảy
Núi - Thất
Sơn.
Bảy núi là Núi Két -
Anh Vũ Sơn, Núi Giày 5
giếng - Ngũ Hồ Sơn,
Núi Gấm hay Núi Cấm - Thiên Cẩm Sơn,
Núi Tượng - Liên Hoa
Sơn, Núi Nước gần
Núi Tượng - Thủy Đài Sơn,
Núi Dài - Ngọa
Long Sơn và Núi Tôi -
Phụng Hòang Sơn. Năm Non là 5 cái chỏm
cao( còn có tên là Vồ
) cuả Núi Cấm là Vồ
Bò Hong , Vồ Đầu , Vồ
Bà , Vồ Ông Bướm và Vồ
Thiên Tuế. Thất Sơn
nằm trong tam giác Tịnh Biên - Nhà Bàng - Tri Tôn,
choán một khu vực dài 30 km, bề ngang 17 km, 1/7 diện tích Châu Đốc,
là một pháo đài vô cùng
kiên cố bên cạnh Kampuchia và Thái Lan, nơi trú ẩn
- mật khu những anh hùng chống Pháp cuối
thế kỷ
thứ 19 sang đầu thế
kỷ thứ
20 và là cái nôi của
Phật Giáo miền
Nam - Bửu Sơn Kỳ Hương
. Truyền thuyết thứ
nhất là Núi Cấm có nhiều
thú bắt mồi rất
nguy hiểm nên cấm người
lai vãng. Truyền
thuyết thứ hai là Chúa Nguyễn Phước
Ánh trốn núp Tây Sơn truy nả
ráo riết ở vùng núi này, cho nên vì lý do
an tòan cấm mọi người
đến gần
núi . Trên cao nguyên rộng
của Núi Cấm
, những thắng cảnh
nổi tiếng là dòng nước sông Thanh Long an bình, Động Thủy
Liêm bí ẩn, Vồ Bạch
tượng ( Hòn đá lớn hình Con voi Trắng ) và chùa cũ Vân Linh .
Một
thắng cảnh
khác của An Giang là khu
rừng
tràm Trà Sư,
ở xã Vân Giao thị trấn
Tịnh Biên. Thời gian thích hợp
nhất viếng
thăm lọai rừng đặc
thù của ĐBSCL này là
từ tháng 9 đến tháng 10. Lúc đó, nước
trong rừng tràm cao 3- 4 m ,
ngập cả
mọi đường
mòn và mặt nước phủ tràn đầy
2 lọai bèo nhỏ nhất
là bèo phấn
Wolffia, lòai Wolffia Arrhiza xoan tròn, lục đậm
và lòai Wolffia globosa, tròn dài, lục
trong nhiều quốc gia trồng
để ăn. Tông Wolffia thuộc họ
thực vật
bèo cám - Lemnaceae. Đến
khu rừng tràm Trà Sư bằng
hai cách : hoặc lái xe mô tô trên đường kinh hay chèo thuyền “ Vồ lái” còn có thể
nhìn thấy
hoa điên điển
vàng Sesbania sesban một
trong số 8 lòai Sesbania
sp. hiện diện ở
nước nhà ( lòai dân Việt thị
thành biết nhiều nhất
là So đủa
Sesbania grandiflora , hoa trắng
)...
Núi
Cô Tô, cao 614m gần
thị trấn Tri Tôn nhất, theo một truyền thuyết khi mới lập thiên lập địa, Trời Đất còn tăm tối, một Lão Tiên từ Núi Cấm và Núi Giày
mang những tảng đá xếp chồng chất nhau cho đến rạng đông thì xây
xong Núi Cô Tô. Một
truyền thuyết khác lại cho hình dáng núi giống một tô ( chén, bát )
úp , nên mới có tên
là Tô. Trên núi, có một
nơi nổi danh tên gọi là SânTiên, theo truyền thuyết là dấu chân Đức Phật Tổ . Đường lên núi đẹp đẽ này, có những góc che lấp những căn nhà lợp lá , thỏang gió thổi mùa hương lúa gạo . Cô Tô đẹp nhất đêm sáng trăng.
Lúc đó mỗi phiến lá trông tựa mỗi lá bạc gắn
vào, dọc
theo các dòng suối
Ô Thum , Ô Thoa , hồ
Ô Soài So (? ).
Cổ vật tượng trưng văn hóa Ốc Eo |
Giang
(như đồi Tức Dụp, phía Đông Nam Tri Tôn
ghi là thuộc
An Giang, nay thuộc
Kiên Giang ? ), cách Biển
Tây hơn 30 km,
xưa kia có thể là một đô thị vừa là thương
cảng ( đã buôn bán với Đế Quốc La Mã) của một nền văn minh vương quốc Phù Nam trải rộng cả vùng Đồng Nai - Cửu Long qua tận Kamphuchia phần đất Xiêm Lào, thời gian từ thế kỷ thứ
I đến thế kỷ thứ
VII của thiên
niên kỷ thứ nhất.
Văn minh đô thị
- thương cảng Ốc Eo Ba Thê An Giang, có
thể xem là tiêu biểu cho một quốc gia cổ xưa, hình thành sớm nhất
Đông Nam Á …
Danh nhân An Giang
Ngoài công đầu mở cõi của Công nương Ngọc Vạn; kế tiếp là Lễ Thành Hầu Nguyễn hữu Cảnh ( Kính ), tuyên bố chủ quyền
pháp lý Việt Nam ở các tỉnh Miền
Đông và miền Tây, làm thống binh tiến tận
Nam Vang và nhiễm bệnh
nặng khi ngừng quân tại Cù Lao Tiêu Mộc - Cồn Cái Sao, Chợ Mới - Long Xuyên ( sau đó đổi tên là Cù lao ông Chưởng -chưởng cơ thống
xuất; thống binh Trần Đại Định con của tướng Long Môn Trần Thượng Xuyên năm 1731, đánh chiếm Bà Nam, khi người
Lào Sà Tốt và quân Chân Lạp tràn xuống Gia Định tàn sát nguời Việt;
Mạc thiên Tứ ( Tích ) mở mang đất Tầm
Phong Long, sau khi Nặc Tôn dâng đất này và Chúa Võ thiết lập
đạo Tân Châu và đạo Châu Đốc; Thọai Ngọc Hầu và vợ là Châu thị Tế đốc thúc đào hai đào kinh lớn công đầu bảo vệ,
mở mang vùng
tứ giác Long Xuyên, tưởng cũng không nên quên Quản Cơ Trần Văn Thành
( 187 67 - 1873 ) rút quân về
Láng Linh chống giữ
vùng An Giang Châu Đốc, như
Quản cơ
Nguyễn Trung Trực chống giữ
Rạch Giá, Phú Quốc . ...
Trên phương diện
chánh trị là :
-Nguyễn Ngọc Thơ người thị xã Long Xuyên, từ năm 1957 đến tháng 11 năm 1963 là
Phó Tổng thống Đệ Nhất Cọng Hòa; các năm 1945 - 54
( ? ) là tỉnh trưởng Long Xuyên,
chuyên viên cố
vấn cho tòan quyền Decoux phát triển kinh tế cho Miền Nam ( như Đòan Thêm lúc đó là
chuyên viên cố vấn cho Decoux phát triển kinh tế miền Bắc) và có một thời gian ngắn làm thủ tướng chánh phủ
cho chánh quyền
tướng lãnh đạo đảo chánh năm 1963 Dương Văn Minh
-Tôn Đức Thắng, quê ở Mỹ Hòa Hưng
- Long Xuyên , trước
tháng tư năm 1975 là
chủ tịch ( Tổng Thống ) Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa miền
Bắc và sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 là chủ
tịch - tổng thống đầu tiên của Việt Nam Thống nhất- Việt Nam Cộng hòa Xã hội- Socialist Republic of
Việt
Nam .
Về văn hóa, văn chương nghệ thuật…,
có lẽ nên kể
ra vài nhân vật sau đây:
- Nhà
văn Nguyễn Chánh Sắt ( 1869 -
1947 ) sinh ở Tân
Châu - Châu Đốc, tác
giả 10 cuốn tiểu thuyết lý tưởng, trinh thám, nghĩa hiệp. Phổ biến nhất là tập Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên (
1919 - 1920 )
- Nguyễn Trọng Quyền bút danh là Mộc Quán sanh năm
1876 tại
làng Thạnh Hòa , huyện Thốt Nốt ,tỉnh Long Xuyên cũ ( nay
thuộc tỉnh Cần Thơ ?) trút hơi thở cuối cùng tại nhà thương Châu Đốc năm 1953. Là sọan giả, trong 50 năm ,sáng tác
được 85
vở tuồng cải lương được nhiều đòan hát sử dụng như
Phụng
Nghi Đình, Mạnh
Lệ Quân thốt hài, San Hậu, Tây Sương Ký, Tái Sanh
Duyên , Vạn
Huê Lầu…
và 3 truyện thơ . Mộc Quán sử dụng lối
ước lệ và tượng trưng của Hát Bội, rút kinh nghiệm của lọai hát tiều và lối hát của Hý Khúc thời Nhà Nguyên ( Mông Cổ ), biến chế thành một lối hát tuồng Tàu cho các nghệ sĩ Việt Nam như Phùng Há, Năm Phỉ, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Thới … ( Nguyễn Phương - 2006 ).
- Nguyễn Hiến Lê (
1912- 1984 ), sinh ở
Hà Nội , viết văn tại Sài Gòn, nhưng sau 1945 lại dạy học lâu ngày ở Long Xuyên, vợ thứ hai là Yên thị Thiệp người Long Xuyên, cho nên
khi chết, cốt tro tàn cất giữ ở Long Xuyên , trước khi di dời
về Sài Gòn . Sách
liên quan đến
An Giang nhất là Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, xuất bản năm 1954.
- Vương Trung Hiếu, sinh năm 1959 ở Long Xuyên, năm 2011 còn sinh sống tại Bangkok Thái Lan. Bắt đầu tập
viết văn năm 1987. Các tập truyện phổ
thông của ông là Tình Khúc Hồng ( 1991 ), Ngày
chúng ta quen nhau ( cũng năm 1991 ), Hương Quỳnh (1992),
Đầu Tóc Rối ( 1993).
Các thi nhân , văn sĩ họa sĩ khác là nhà văn Nguyễn Quang Sáng ( Chợ Mới
), nhà văn Anh Đức ( Châu Thành ), nhà văn Trịnh Bửu Hòai ( Châu Đốc ), nhà thơ Viễn Phương ( Tân Châu ), họa sĩ hài hước Chóe ( Chợ Mới
)...
Về phía ca sĩ đáng kể nhất
sinh quán An Phú - Long Xuyên (năm 1945 ?) là ca sĩ cải lương giọng ngọt ngào Bạch Tuyết . Năm 1961
đã nổi danh với bài ca “ Lá Thắm Chỉ Hồng” và đã được xem là “ Cải Lương Chi Bảo”. Năm 1963, đọat giaỉ thưởng
Thanh Tâm. Bạch Tuyết đã hát 400 bài ca cải
lương, trong đó nên nhắc thêm các bài “ Kiếp Chồng Chung” “ Tiếng Hát Mường Then” (của Út Trà Ôn ). Bạch Tuyết đã đi trình diễn học
thêm ở Vương
Quốc Anh , Bulgaria … và là người độc nhất
đậu bằng
Tiến sĩ Nghệ Thuật nước
nhà về ca hát cải lương. Các nghệ sĩ khác , nguồn gốc An Giang, là ca sĩ Đức Tuấn, ca sĩ Phương Trinh, ca sĩ Đông
Đào ( Phú Tân ) và các nhạc sĩ Hòang Hiệp
( Chợ Mới
), Song Ngọc
( Long Xuyên).
…
Sơ lược vài đô thị - thị trấn An Giang : Long Xuyên, Châu Đốc, Châu Thành, Tân Châu
Long
Xuyên là thủ phủ
tỉnh An Giang, cách Hà Nội về phía Nam 1950 km,
cách Sài Gòn - TP HCM 189 km, cách biên giới Cam Bốt 45 km . Chia ra làm 11 phường
và 2 xã nông thôn. Dân số Long Xuyên năm 2013 trên 368
376 người, và diện tích chỉ có130 km2. Long
Xuyên là thành phố phát đạt nhất miền
Tây Nam Việt Nam, ngay sau TP Cần Thơ. Đặc
điểm thứ
nhất Long Xuyên là Viện Đại học
An Giang và Trường Đại
học Sư Phạm đào tạo giáo viên. Viện Đại học An Giang đứng hàng thứ nhì ĐBSCL, chỉ sau Viện Đại
học Cần
Thơ, hiện
có 8000 sinh viên.
Khởi sự
là Trường Sư
Phạm, được
công nhận là Viên Đại học từ
năm 2000 . Viện hiện
có các khoa Giáo dục, Nông nghiệp, Kinh tế học,
Kỷ thuật
Thông tin - IT và Chủ Nghĩa Marx - Lê Ninh. Long
Xuyên có 3 trường trung học chánh yếu : các trường Thọai Ngọc
Hầu, Bình Khánh và Long
Xuyên. Trường Thọai
Ngọc Hầu
nguyên là trường Trung học Long Xuyên, nay có 2000 học
sinh, chuyên khoa về các môn Anh văn, Tóan, Hóa học, Vật lý , Văn chương và Sinh học. Long Xuyên là trung tâm của Phật Giáo Hòa Hảo. Nhưng cũng có nhiều nhà thờ Thiên chúa Cơ Đốc. Ngòai ra, còn nhiều dân Long Xuyên theo các phái Phật giáo hay tôn giáo khác . Dân địa phương thường
đi siêu thị ngày thứ bảy và ngày chủ nhật. Ngày sinh của cựu chủ
tịch Tôn Đức Thắng được tổ chức
hàng năm ở Mỹ
Hòa Hưng ( Đảo Hổ, Cọp
- Tiger Island ). Các món ăn ngon gồm các món tiêu chuẩn Việt Nam thường lệ
hay vài biến đổi các món đặc biệt
An Giang, như các món cá ba sa, mắm thái và dừa
Thốt Nốt.
Mỗi năm du khách đi ngang qua Long
Xuyên trên đường đi Châu Đốc là nơi dừng
chân chánh viếng thăm Căm Bốt, nhưng ít khi nghỉ đêm tại Long Xuyên…
Châu Đốc
là một thị
xã tỉnh An Giang ngày nay, nằm trên nhánh Sông Hậu ( Sông Sau ) và kinh Vĩnh Tế, cách TP HCM- Sài Gòn 250 km về phía Tây. Từ Sài Gòn đến Châu Đốc cần
6 giờ đồng
hồ xe buýt . Chia ra làm 4 phường và 3 xã . Dân số năm 2013 là 157 298
người, chưa
bằng phân nữa Long Xuyên, trên diện tích 105.29 km2
, có phần nhỏ
hơn thị
xã tỉnh lỵ
Long Xuyên đôi chút. Về lịch
sử, Châu Đốc nguyên là lảnh thổ
Vương Quốc
Phù Nam, nhập vào nước nhà cách đây chừng 300 năm. Nằm gần Núi Sam, nơi thờ phụng
bà Chúa Xứ, mỗi
năm vào tháng tư âm lịch.
Ba tộc dân Việt, Chăm ( Chàm - Chiêm Thành ) và Khmer Krom sinh
sống hòa thuận cùng nhau . Có lẽ nên nhân tiện nói rỏ thêm tộc dân Chàm Châu Đốc, vì đã đề cập phần
nào khi nói đến tộc dân chàm ỏ bài Ninh Thuận - Phan Rang. Theo g. s. Nguyễn Thành Liêm ( Châu Đốc, tháng giêng 2006 ) , tòan tỉnh Châu Đốc cũ có 7 thôn ấp cũ người Chăm ở: Koh Ta Boong ( Pháp âm là Kotampong ), Hà Bao,
Vĩnh Trường, Phum Sòai, Khánh An, Khánh Bình
và Châu Giang .
Người
Việt
miền Nam gọi
họ là Chà Và hay Chà
Châu Giang. Thật ra họ là người Chàm gốc miền Trung. Vì trốn tránh chiến tranh, họ đã sang sinh sống ở
Cam Bốt. Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ họ về
vùng Tây Ninh , Hồng Ngự
và Châu Giang - Châu Đốc. Năm 1832 , một số người
Chăm Phan Rang - Phan Rí theo Lê văn Khôi chống lại triều
đình Huế. Thất
bại, một
số bỏ
trốn qua Căm Bốt, một số
rút lên Tây Nguyên, một số
đến nương
ngụ cùng đồng bào Chàm Châu Đốc. Thấy
họ giao thiệp với Mã Lai, sang học đạo ở
Pattani, lầm tưởng
họ là người Mã Lai, mới gọi
họ là Chà Và ( Java ) hay Chà
Châu Giang.
Ba tôn giáo chánh
Châu Đốc là Phật Giáo Đại Thừa-Mahayana Buddhism
( hai tộc dân Việt và Hoa), Tiểu thừa - Theravada Buddhism (
Khmer - Căm Bốt ) và Hồi Giáo Sunni Islam (
Chăm ) . Năm 2003, trên diện tích 100 km2,
lúc đó chưa thành lập phường Vĩnh Ngươn, dân số là 112 155 người , đa số đã là tộc dân Việt và Chăm, chỉ có chút ít Khmer Krom. Kinh tế Châu Đốc chuyên sản xuất nhiều
lọai nước
mắm và “mắm thái Châu Đốc”, nay là nơi xuất cảng
cá basa - catfish , du lịch và là một trung tâm buôn bán sầm
uất nhờ
kế cận
biên giới Căm Bốt. Miếu Phước
Điền, một
vị trí lịch sử chánh thức cũng thuộc thị
xã Châu Đốc, là nơi có một khách sạn đáng kể cho vùng . Trong thị xã có nhiều khách sạn khác gần chợ
chánh, tiếp đải
ân cần với
giá phải chăng. Núi Sam nay cũng có
nhiều khách sạn, và trên đường lên núi Sam nay cũng có
vài khách sạn. Đáng cho bạn nghĩ tới ngũ lại một hai đêm là một trong hai khách sạn nổi - thủy tạ ( floating hotels); một phải qua cầu - foot bridge chỉ đi bộ được
và một phải
đi đò tới nơi.
Có lẽ cũng nên biết là số du khách đến An Giang ( nhất là ngang qua Long Xuyên và nghỉ đêm tại Châu Đốc năm 2005 là
3.8 triệu người,
năm 2010 tăng lên đến 4.6 triệu người, chú trọng du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng
thu hút nhiều du khách hơn hết…Nhờ
du lịch và thương mãi, nay ngành dịch vụ
chiếm đến 59,5 % GDP An Giang, trong khi nông nghiệp( nông lâm ngư)
chỉ còn 28.4 % .
Thị trấn Tân Châu là huyện
lỵ huyện
Tân Châu, tỉnh An Giang ngày nay. Thành lập năm 1757, Tân Châu là quận huyện lớn
nhất tỉnh
Châu Đốc cũ. Năm 1929, tách rời ra khỏi quận
Hồng Ngự,
nay thuộc tỉnh
Đồng Tháp. Năm 1968, tách rời khỏi huyện Phú Tân (? )- Chợ Vàm và thành lập huyện Tân Châu thuộc tỉnh An Giang. Nâng cấp thành thị xã năm 2009. Thị xã Tân Châu gồm 5 phường và 9 xã . Dân số năm 2009 là 184 000 người, diện tích 159 km2,
còn lớn hơn
diện tích thị xã Long Xuyên, tuy dân số chỉ
bằng phân nữa. Dân số năm 2003 là 159 719,
tăng trên 24 000 trong vòng 6 năm. Như vậy,
năm 2013 dân số Tân Châu có thể đã trên 200 000. Tân Châu nổi tiếng nhất về tơ tằm. Các làng mạc đều trồng dâu nuôi tằm, đặc
biệt ở
các xã Vĩnh Hòa, Tân An, Vĩnh Xương, Long Phú. Hàng lụa danh tiếng Tân Châu là lảnh “ Mỹ A”, lọai lò nhuộm bằng trái măc nưa đươc ưa thích, vì hàng đen mướt và không phai màu. Trái mạc
nưa, các thập niên 1955- 75, phải mua ở Căm Bốt, nhưng
sau này bắt đầu
trồng ở
nước nhà, không rỏ nay trồng nhiều ít ở Phan Rang , ngòai vùng Châu Đốc. Tên Khoa học của
mặc nưa
là Diospyros mollis, họ hồng trái thị,
trái ka ki Ebenacea, một đại
mộc nhỏ
thân to 30 - 40cm, trái tròn xanh 1-2m. Gỗ cũng là một lọai gỗ
mun tốt.Trái và lá chứa poliquinone, dùng để nhuộm lảnh đen Mỹ A như vừa
nói. Nguyễn Thanh Liêm cũng cho biết là Tân Châu có đường tên là Phan Văn Vàng, người Việt mua bán cá sấu ở
Miên, đã du nhập khỏang năm 1920 giống
lúa nổi, sạ
( rải hột
giống ) trong ruộng, mọc cao dần theo mực nước
“mùa nước nổi
“ từ 1.5m đến 4.5m, không bị ngập
chết hết
. Nay thì miền
Nam không còn trồng
lúa nổi nữa,
nhờ
phát triển kinh mương
ngăn ngừa ngập
lũ và phổ biến
các giống lúa cao năng ngắn
ngày hơn nhiều,
và làm nhiều vụ một
năm. Miệt Tân Châu - Hồng Ngự
vùng Châu Đốc cũ, còn bắt cá linh, một giống cá trắng có vảy nhỏ
xuất phát từ Biển Hồ
Cam Bốt, cứ
ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch thì nở con linh tinh trôi dạt theo dòng nước Cửu Long về miền Châu Đốc -Long Xuyên, xuống tận
miền Hậu
Giang. Lúc nước hạ
vào thượng tuần
tháng 10 âm lịch thì chúng ngược dòng Cửu Long trở về Biển
Hồ. Cá linh nhiều đến nổi
phải dùng làm phân bón,
vì ăn không hết, làm mắm hay nước mắm
cũng không hết. Cá linh có thể nướng, nấu
chua, kho hầm, làm gì ăn cũng béo cũng bùi.
Đầu cá linh kho hầm ăn với cơm
cháy thì ngon tuyệt.
Huyện Châu Thành là
huyện đáng kể nhất các huyện An Giang ngày nay. Năm 2003 ,dân số huyện là 171 498 người, với diện
tích 347km2 . Huyện lỵ
là An Châu. Tháng tám 1979, huyện Châu Thành X , thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, chia ra làm
hai huyện Châu Thành và Thọai Sơn. Huyện nhà bao gồm thị
trấn huyện
lỵ An Châu và 12 xã. Ranh giới giáp 4 huyện khác tỉnh nhà là huyện Tịnh
Biên, huyện Châu Phú- Cái Dầu, huyện Chợ
Mới và huyện Thọai Sơn
- Núi Sập; kế
cận là thị xã Long Xuyên. Đất rất
bằng phẳng
và sông Hậu chia đôi huyện. Các tộc dân huyện , theo thứ tự
nhiều ít là Việt Kinh, Khmer Krom, Chăm và Hoa. Hòa Hảo là tôn giáo nhiều
người theo nhất huyện nhà.
Tăng
gia giao thương, Hợp
Tác Căm Bốt -Việt Nam, thay vì hiềm
khích chém giết nhau thời
Khmer Đỏ
Việt Nam và Căm Bốt
chia sẻ 1270 km biên giới
chung. An Giang là trung tâm cho ba thành phố - đô thị
lớn là Sài Gòn - TP HCM
, Cần Thơ và
Nam Vang - Phnom Pênh. Và cũng là tỉnh
biên giới ĐBSCL, đi đến
thủ đô Nam Vang gần
nhất, chừng 80 km
đường sông từ
cửa khẩu quốc
tế Vĩnh Xương trên sông Vĩnh Xương ngang qua tỉnh
Căng Đan - Kandal ( Căm Bốt ) hay từ
đường bộ từ
hai cửa khẩu: quốc
tế là Tịnh
Biên ngang qua tỉnh Takeo - Căm Bốt
và quốc gia là Khánh Bình nay có cầu
đã khánh thành đi đến Chrey Thom tỉnh
Căng Đan. An Giang có cả thảy là 3 cửa khẩu đường bộ và 4 cửa khẩu đường sông đến Căm Bốt , nhưng chỉ cửa khẩu
Tịnh Biên là để xe ô tô qua lại và Vĩnh Xuơng là để chuyên chở đường sông. Thỏa
thuận kiểm sóat xe
cộ, quan thuế
v.v... ở cửa khẩu
Mộc Bài- Ba Vẹt
thuộc tỉnh Tây
Ninh vẫn còn khó khăn chưa
dứt quyết.
Cửa khẩu Dak Rue
giữa hai tỉnh
Đắc Lắc và Mondulkiri
đến
cuối năm 2013, vẫn
chưa hòan tất
hạ tầng cơ
sở như dự
liệu.
Năm 2001, giao
thương Căm Bốt - Việt Nam chỉ đạt 169 triệu đô la Mỹ- USD và năm 2006 là 980 triệu USD. Năm đó, Căm Bốt đứng
hàng thứ 16 của các nước nhập
khẩu hàng hóa Việt Nam và Việt Nam đứng hàng thứ ba nhập khẩu hàng hóa Căm Bốt, sau Thái Lan và Trung Quốc.
Xuất khẩu
hàng Việt Nam qua Căm Bốt năm 2006 là tơ sợi
và áo quần, plastics, máy computers, đồ điện tử
và bộ phận,
rau đậu, trái cây, hải sản và đồ điện gia thất. Nhập khẩu
thuốc lá, cao su, gỗ và vải vóc. Hai tỉnh An Giang và Tây Ninh chiếm
95% thương mãi ngang qua các cửa khẩu của
10 tỉnh biên giới chung giữa hai nước. Riêng tỉnh An Giang chiếm 87 % tổng số,
trị giá 600 triệu USD. Năm 2010, đạt 2.3 tỉ USD. Năm 2011 tăng
lên đến 2.8 tỉ USD và năm 2012 là 3.1 tỉ USD. Năm 2013, đạt 3.5 tỉ USD và hy vọng lên đến 4 tỉ USD năm 2014 và 5 tỉ năm 2015. Trên hẳn giao thương Việt - Lào năm 2012 là 866 triệu USD và trong 10 tháng đầu năm 2013 là 817 triệu USD . Việt Nam xuất khẩu
sang Căm Bốt gồm có các lọai hàng hóa tiêu thụ, thực phẩm
biến chế,
mì ăn liền, cà phê, nước mắm, rau đậu, hoa và trái cây, phân bón hóa học, các dụng cụ
nông nghiệp và thuốc bảo vệ
mùa màng. Việt Nam nhập cảng từ
Căm Bốt chánh yếu là các sản phẩm
thô- nguyên liệu nông nghiệp như hột
điều - đào lộn hột, khoai mì ( sắn ), đậu xanh, đậu nành ( đổ tương
) và mũ cao su. Phải cố
gắng đầu tư thêm vào các doanh vụ tại vùng phát triển kinh tế rộng 26 538 ha, gồm 3 cửa
khẩu Việt
- Miên là Vĩnh Xương, Khánh Bình và Tịnh Biên, nâng giao thương
hai nước lên hàng nhất - hàng nhì, mau đuổi kịp
Thái Lan và Trung Quốc.
Trên
phương diện
Hợp tác phát triển, ở phiên họp ngày 27 tháng chạp năm 2013 tại Nam Vang - Phnom Penh giữa hai thủ tướng Hun Sen và Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Hun Sen kêu gọi Việt Nam khuyến khích thêm nhiều nhà đầu tư Việt
làm doanh vụ ở
Căm Bốt, giúp đở hòan thành xây cất đường
O’Yadav ở tỉnh
Ratanakiri, chia sẽ các nguồn nước sông chung cho hai quốc gia, đặc biệt
chung sức định giá ảnh hưởng
xây cất các đập thủy điện
hai nhánh sông Sre Pok và Sesan. Ngòai ra, thủ tướng Hun Sen còn yêu cầu Việt Nam bán mức điện hai bên đã thỏa thuận và tiếp tục giúp thiết lập thêm 7 trạm ra điô ở các tỉnh Căm Bốt và hòan tất kiểu nhà thương “ Chợ Rẫy”
ở Nam Vang ( ?). Thủ tướng Dũng cũng yêu cầu Căm Bốt tăng gia bảo vệ các đầu tư Việt
Nam ở Căm Bốt và thông báo cho thủ
tướng Hun Sen biết tình trạng điều
đình với Trung Quốc về xụ
xây cất đường
xe lữa ASEAN - Côn Minh, đặc biệt khúc đọan Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước - Việt Nam tới Căm Bốt.
Các khó khăn cho nông nghiệp An Giang
Năm 2013, GDP An Giang tăng thêm
6,58%. Mức tăng nhỏ nhất là lảnh vực nông lâm ngư chỉ tăng 1.52 %, trong khi công nghệ xây cất là 6.34% và dịch vụ 9. 57 %. Trên bình diện cơ cấu
kinh tế, năm 2013 nông lâm ngư chiếm 28.74 % GDP tỉnh nhà, cao hơn lảnh
vực công nghệ và xây cất chỉ
là 12.4% , nhưng thua xa lảnh vực dịch
vụ, chiếm đến 59. 13 %. GDP mỗi đầu người
là 1 572 USD ( 33 .077 triệu ĐVN ). Cũng nên nhớ tỉ xuất
lạm phát tăng 2.72%
năm 2013, tuy rằng chưa
đến ⅓
tỉ xuất
lạm phát năm 2012. Đặc biệt trong qúy đầu 2014, nông lâm ngư lại
giảm đi mất 0.66%, công nghệ xây cất tăng 2.84% và dịch
vụ tăng 6.54% .
Lúa gạo
Như đã đề cập
ở bài khảo
luận về tỉnh
Kiên Giang - Rạch Giá - Hà Tiên, hòan thành hệ
thống tưới tiêu,
thóat thủy đê điều
( và đường xá ) chống
lũ lụt Tứ Giác Long Xuyên , diện tích tổng
cọng là 470 000 ha,đã giúp tăng gia
nhiều sản xuất
lúa gao An Giang. Nhắc lại Tứ
Giác Long Xuyên đã thực hiện 64 kinh
chánh dài 1056 km, 2 313 kênh thứ cấp và tam
cấp dài 7347 km, 38 cống
lớn và cở
trung bình, 1915 cống nhỏ, 319
trạm bơm nước bằng điện cở
trung bình , 4 458 km đường đắp cao
và đê chống lụt … Hệ thống đê điều
Tứ Giác Long Xuyên có hai lọai
đê: đê kiểm sóat lũ tổng
quát và các đê đường đắp cao chống
lũ tháng 8. Đa số các đê chống lũ phần lớn nằm trong vùng thích hợp cho sản xuất lúa, nơi lũ không qúa lớn, như các vùng Thọai Sơn, Châu Thành, Châu Phú …. tỉnh An Giang. Tỉnh nhà có 103 cơ cấu kiểm sóat lũ cả năm, bề dài đê đường là 1020 km, bảo vệ được 40 899 ha làm 3 vụ lúa một năm. Thay vì
chỉ trồng được một vụ (
mùa ) lúa nổi từ năm 1955
- 57 đến năm 1990 ( Chương trình Tứ Giác Long Xuyên khởi
công năm 1988 ), ngày dài, năng xuất kém, 1.0 - 1. 5t/ ha , phẩm
giá gạo xấu. Tiềm
năng diện tích trồng
lúa An Giang vụ Đông Xuân ( năm 2012 năng xuất
đã là 6- 7t/ha ở An Giang ) có tưới tiêu mùa nắng vào khoảng
220 - 230 000 ha, cho thấy còn có thể
mở rộng thêm
thủy nông, thủy
lợi kiểu tứ
giác : đê điều, đường xá, cống
rảnh, trạm
bơm... làm 3 vụ
một năm, chú trọng
hơn nữa
về vụ Đông
Xuân. Bộ Nông nghiệp
dự trù tăng thêm, đến
năm 2020 ở các tỉnh
ĐBSCL , chừng 800 - 900 000 ha vụ
lúa Đông Xuân cao năng, siêu năng. Năm 2010, An Giang đã sản
xuất hơn
3.5 triệu tấn lúa (
thóc), xuất khẩu
600 000 tấn. Năm 2013, An
Giang sản xuất 4 triệu tấn lúa và hy vọng tiếp tục xuất khẩu 600 000 tấn gạo( 900 000 tấn lúa ), trong tổng số xuất khẩu là 6.6 triệu tấn gạo .Ngòai tăng cường hệ thống đê điều,
kinh mương chống lũ, trạm
bơm nước điện
tưới tiêu mùa nắng
làm vụ Đông Xuân nhiều
nơi năng xuất
lên đến 10 t/ ha, ngành trồng
lúa theo sát các khảo cứu
lúa gạo tiên tiến
nhất cho tiểu
điền Á Đông, được Trung tâm Lúa Gạo Quốc Tế
IRRI, Trung tâm Lúa Gạo Ô Môn và Trường Cao Đẳng Nông nghiệp
viện Đại học
Cần Thơ v.v...ủng
hộ liên tục
đằng sau, nông dân An Giang thực
thi mọi kỷ thuật
mới ( cập nhật
, bổ sung quan điểm
cỗ truyền xưa
cũ Nhất Nước , Nhì Phân- phân chuồng,
Tam Cần, Tứ Giống ), tăng năng xuất
theo khuôn khổ “ Canh tác Tốt Việt Nam hay tòan cầu- Good Global Agricultural Practices, GAP” ,
bớt
phí tổn sản xuất,
hợp tác cũng cố
nới rộng điền
địa cá nhân, da dạng
sinh thái ruộng lúa … Chẳng
hạn chương trình khuyến nông “ Một Phải ( làm, là dùng giống chứng nhận- certified seed )- Năm Giảm (giảm số lượng hột giống gieo
trồng, giảm
bớt phân đạm hóa học - nitrogen, giảm
thuốc sát trùng, giảm
bớt nước tưới tiêu và mất
mát hậu thu hoạch -postharvest losses ) các năm 2007 - 2011;
chương trình “ Ba Giảm- Ba Tăng “ : sạ thưa 80-
120kg hột giống /ha, hạn
chế bón phân đạm
hóa học đầu vụ
dể tạo ruộng
lúa khỏe, giảm số
lần phun thuốc
trừ sâu nhất
là không phun thuốc trong 30 ngày đầu
sau khi sạ lúa để
bảo vệ thiên địch
trong ruộng lúa ( chương trình thành công này ở An Giang đã được IRRI tổng kết để
áp dụng ở Thái
Lan; từ năm 2010 đến
năm 2013, Thái Lan mất 1 triệu
tấn lúa mỗi
năm vì nạn rầy nâu - brown planthopper ... ). Từ
năm 2009, An Giang lại áp dụng
thêm chương trình mô hình “ Cánh Đồng Mẫu Lớn” với sự tham gia
tích cực qua “ Hợp tác Bốn Nhà” là nhà
doanh nghiệp tạm
ứng vật tư
cho sản xuất,
đến nhà đầu
tư máy móc thu họach,
các nhà cơ sở biến
chế - tồn trữ
- thu mua nông sản. Tưởng cũng
không nên quên phong trào kiến thiết đồng
ruộng theo “ Công nghệ sinh thái”, trồng hoa trên bờ
ruộng nhằm thu hút
thiên địch, các hoa màu khác như
dưa hấu … gia
tăng vai trò cân bằng sinh thái trong ruộng
lúa, kết hợp với
du lịch sinh thái ( theo tiến
sĩ Nguyễn Văn Hùynh - 2014 )
Tuy nhiên ngành
lúa gạo An Giang cũng như ĐBSCL còn phải phấn
đấu nhiều
hơn nữa
trên phương diện
hạ phí tổn canh tác sản xuất
, tăng phẩm gía gạo, tốt hơn,
hợp thị
trường ngọai quốc hơn,
tìm kiếm những
nước mới
mua gạo nước
nhà … Nhắc lại là năm 2011- 2012, Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới, sản xuất 27 triệu tấn gạo , sau Trung Quốc ( 142 triệu ), Ấn Độ ( 99 triệu ), In đô nê xia - Nam Dương ( 37 triệu) và Bangladesh( 34 triệu ) trên Thái Lan ( 20
triệu tấn gạo ), Phi Luật Tân ( 11 triệu tấn gạo ), Myanmar - Miến Điện ( 10.7 triệu) , Nhật ( 7.4 triệu ), Hồi Quốc - Pakistan( 6.7 triệu ), Cam Bốt ( 4.5 triệu ), Hàn Quốc- Nam Hàn (4. 1 triệu ). Riêng các tỉnh ĐBSCL, năm 2014 vụ
Đông Xuân đã trồng được 1 600 000 ha ( ? ), hy vọng thu họach gần 11 triệu tấn gạo,
tăng thêm 34 000 tấn so với năm 2013 .
Tăng gia năng xuất mà không hạ nổi
giá thành, giảm chí sản xuất v.v.. thì càng làm cho thị trường xuất
khẩu gạo
Việt Nam khó khăn thêm. Đến cuối tháng 2 năm 2014, Việt Nam chỉ mới xuất khẩu được 638 000 tấn gạo trị giá 275 triệu $ USD, giảm 13.5 % về số lượng và 16 % về giá trị so cùng thời gian năm 2013 . Đến giữa tháng hai 2014, Thái Lan đã bán
ra ngọai quốc
600 000 tấn gạo
và 800 000 tấn tháng 3. Chánh phủ Thái dự trù xuất khẩu 1 triệu tấn mỗi tháng, nghĩa là ở mức 12 triệu tấn năm 2014 , còn hơn năm 2011 Thái xuất khẩu 10.6 triệu tấn. Năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu
7.5 triệu tấn
và năm 2013 là 7.6 triệu tấn.
Nhắc lại là năm 2002, Việt Nam xuất khẩu 3.13 triệu tấn gạo, tuy đã 2-3 lần hơn mức xuất khẩu thời Pháp thuộc. nhưng sau Thái Lan năm đó đã xuất khẩu 7.35 triệu tấn, Ấn Độ 6.64 triệu tấn, sau cả Hoa Kỳ là 3.81 triệu tấn . Mười năm sau, năm 2012 , Việt
Nam thật sự
đã xuất khẩu
7.72 triệu tấn
gạo gần
2.5 lần hơn,
thu về 3.45 tỉ
$ USD; năm 2013 cũng xuất khẩu
một số
lượng tương
tự khoảng
7. 6- 7.7 triệu tấn.
Đáng cập nhật
kiến thức
là hai nước tranh thương xuất lúa gạo nay là Thái Lan và Ấn Độ
thay chân Myanmar- Miến Điện,trước đây vào thời Pháp thuộc là nước xuất
khẩu gạo đứng đầu
thế giới.
Đáng lo ngại là giá lúa vụ Đông Xuân trong tháng 4- tháng 5- 2014 bổng nhiên trụt mạnh,
nhất là vì áp lực của giá gạo Thái Lan xuất khẩu,
sau khi tăng đôi chút nhờ chánh phủ chấp thuận
mua 1 triệu tấn
làm dự trữ
tạm thời.Tháng
3 giá lúa ở An Giang 4700- 4800 ĐVN /kg
, nhưng chỉ
5 ngày sau là giá trụt xuống
chỉ còn 4200 ĐVN . Nông dân không còn
chịu bán lúa ở gía này. Theo chủ kho vựa Tịnh Biên, giá lúa dưới 4600 ĐVN/kg thì nhà mua lúa tồn
trữ sẽ
lỗ vốn.
Theo Hiệp Hội Thực Phẩm Việt Nam- Việt Nam Food Association- VFA,
trong qúy đầu năm 2014, Thái Lan đã đọat lại nhiều
thị trường
gạo Việt Nam xuất khẩu
trên thế giới
và xuất khẩu
gạo Việt Nam đã giảm sút 19% vào thời gian này so với năm 2013 và may lắm là sẽ xuất
khẩu năm 2014 , 6.2 triệu tấn so với dự tính 6.5 - 7 triệu tấn tháng giêng năm 2014. VFA
cho rằng nguyên do giảm sút này là do Thái Lan tái
chiếm thị trường Phi Châu, thị trường lúa gạo thứ hai của Việt Nam. Thị trường xuất khẩu lúa gạo lớn nhất
nước nhà là Trung Quốc , nay chiếm đến
60% xuất khẩu
gạo Việt
Nam vào tháng 4 năm 2014. Khác với
Thái Lan bán gạo cho Trung Quốc theo các hợp đồng
quốc tế,
Việt Nam bán gạo về phía Bắc không chánh thức qua các thương gia địa phương
ở các cửa khẩu biên giới, theo những số
lượng đồ
sộ, không có kiểm phẩm chặc
chẻ Giao thương với các hảng Tàu còn thêm hiểm nguy có khi không được thanh tóan, vì các hảng
nhập khẩu
Tàu hay hủy bỏ
các khế ước
với các hảng Việt Nam, một khi ai đó cung cấp
cho họ với
giá rẽ hơn.
Năm 2013, các hảng Trung Quốc đã hủy bỏ
54 % mọi khế
ước ký kết. Mua bán gạo Trung -Việt tiểu thương
qua các cửa khẩu
khó mà định rỏ
số lượng
; và cũng theo VFA các hảng nhập
khẩu Tàu thường hay yêu cầu các hảng Việt Nam trộn lẫn gạo
phẩm giá kém với gạo Jasmine ( Nàng Hương, Nàng Thơm Chợ
Đào ? ) để bán theo giá gạo Jasmine. Năm 2013, Việt Nam đã bán sang Trung Quốc gần 2 triệu tấn gạo hay 33.2 % tổng sổ Việt Nam xuất khẩu. Trung Quốc là một thị
trường gạo
nhà xuất cảng
nào cũng muốn xô vào . Nhưng Việt Nam đang gặp khó khăn, vì lẽ giá cả lúa ở Việt
Nam suy giảm và gạo sản xuất
tại nhiều tỉnh ĐBSCL gia tăng. Hai nước nhập cảng
nhiều gạo
là In đô nê xia và Mã Lai Á, nhưng năm nay họ đã giảm nhập
khẩu gạo,
vì sản xuất
đã gia tăng khá nhiều. Cung cấp gạo trên thế giới cũng gia tăng nhiều. Đáng cho Việt Nam lưu tâm là Thái Lan bắt đầu tích trử gạo từ năm 2011, hầu giữ giá gạo xuất khẩu quốc tế cho cao hơn, nhưng chương trình này thất bại nặng. Từ tháng 10 năm 2011,Thái Lan
đã tiêu xài 19.3 tỉ $USD ( 600 tỉ baht ) mua lại gạo hột dài theo giá 700 $
USD /một tấn, trong khi giá gạo Thái trong nước thật sự chỉ là 468$USD và các nhà xuất cảng Thái chỉ thu được 390 $USD / tấn. Tháng 7 năm 2013, Thái bán
cho Iran 250 000 tấn gạo trợ cấp thâm thủng ngân sách tài chánh
Thái này. Nay Thái Lan ước lượng hiện còn tồn kho 15 triệu tấn. Ấn Độ cũng tăng gia nhiều sản xuất
lúa gạo và năm 2013 tiếp tục xuất
khẩu nhiều
gạo hơn
Việt Nam , đến 9- 10 triệu tấn.
Năm 2012 , Ấn Độ
đã là nước xuất
khẩu gạo
đứng hạng
nhất thế
giới, gần
8.0 triệu tấn,
trên Việt Nam đứng hạng
nhì, xuất khẩu
7.5 triệu tấn.
Phi Luật Tân chỉ tăng gia được 4 % mức sản xuất
lúa gạo trong 3 năm vừa qua, ít hơn chỉ
tiêu là 6 % để đạt
mức an tòan lúa gạo. Vì bị bảo
tố lụt
ngập, bình thường là 20 cơn bảo
tố mỗi
năm. Năm 2010, Phi Luật Tân nhập khẩu số
gạo quán quân là 2.45 triệu tấn. Đầu
năm 2014, Cơ Quan Thực Phẩm Quốc gia Phi - National Food Authority,
NFA đã ký khế ước
mua 600 000 tấn gạo
của Vinafood II và sẽ mua thêm 200 000 tấn nữa
của Vinafood I, nhờ gíá gạo Việt
Nam đấu thầu
hạ nhất,
so với chẳng
hạn công Ty Thái Thai Hua Co. Ltd và
công ty Tàu Singsong Hong Kong Ltd. Lô thứ nhất Vinafood I hiến giá là 436$ USD/ một tấn-
MT, căn bản C và F, lô thứ hai giá 437.75$ và lô thứ
ba giá 439.25$ /MT. Phẩm giá là gạo trắng, hột
dài 15 % tấm, xay chà tốt. Việt Nam phải cung cấp đủ
số lượng
từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2014 . Theo bộ
Nông nghiệp Hoa Kỳ, Phi có lẽ phải nhập
khẩu 1.4 triệu tấn gạo năm 2014 hay hơn nữa,
vì bảo tố
cuối năm có thể tàn phá ruộng Phi. Ba thị trường lớn
khác cho gạo Việt
Nam xuất khẩu
là Singapore ( năm 2013 đã tăng thêm 37 % ), Angola ( tăng
30.6) và Hồng Kông ( tăng 22.7%
). Cũng nên chú ý đến xuất
khẩu gạo
sang Brasil và Mexico - Mễ Tây Cơ.
Vinafood bá cáo
là gạo thơm - aromatic rice bán
giá cao. Gạo thơm,
hai quý đầu năm 2013, chiếm 12.6 % tổng số
gạo Việt
Nam xuất khẩu,
tăng 77.8 % so với năm 2012. Tuy nhiên, nhiều thương gia than phiền là phẩm giá gạo thơm Việt
Nam không mấy cao, vì Việt Nam phổ biến
trồng quá nhiều giống gạo
thơm, lọai
gạo hột
dài. Tháng 7 năm 2013, giám đốc xuất
nhập khẩu
An Giang nói rằng thay vì trồng quá nhiều giống,
các huyện- xã địa phương nên tụ điểm vào vài giống chánh yếu xuất
cảng được
mà thôi, đề nghị
là lảnh vực
lúa gạo chung sức với các Trung tâm Khảo cứu tạo
ra vài giống sản
xuất đại
trà được dài hạn và có một phẩm
giá tốt chung như nhau, hầu làm ra một nhãn hiệu thương
mãi đặc biệt
cho Việt Nam như gạo thơm,
hột rất
dài , thon nhỏ Basmati ( ? ) Hồi Quốc- Ấn
Độ. Bộ
Nông Nghiệp và các tổ chức nông dân trả lời là có thể làm được , nhưng các nhà xuất khẩu
gạo An Giang phải bảo đảm
là mua hết các giống gạo thơm
mới.
Cá ba sa, tra… Pangasius sp ...
Một trong những
phương cách đa dạng
ruộng An Giang cũng như
các tỉnh ĐBSCL, tăng lợi
tức nông dân là nuôi cá. Nên nhớ
là lợi tức trung
bình nông dân trồng lúa gạo
chỉ bằng1/3 lợi
tức các tiểu
điền trồng cà
phê( Tây Nguyên và Miền Đông Nam phần
)những năm vừa
qua, khỏang 20 - 25 USD mỗi
đầu người mỗi
tháng, 240 - 300 USD mỗi năm, nghĩa là ¼ lợi
tức các giới
khác.
Đúng là
giới nghèo khổ
nhất tỉnh.
Đa dạng canh tác qua nuôi cá tăng
thêm lợi tức cho tiểu
nông lúa tương đối cũng
không nhiều như
doanh nhân nuôi cá Pangasius ao hồ , hay đăng quầng
, nuôi cá bè ( nuôi cá trong lồng dưới bè ).
Năng xuất “ lúa - cá” biến
thiên từ 482Kg, 0.482 t- 808kg, 8.08
t kg / một ha - 10 000m2 ,
nuôi ao hồ từ 183 đến
582 t /ha tùy tỉ trọng thả
cá giống con, trong khi các trại
gia cầm gia súc nuôi cá là 467 -
1465kg /ha mỗi vụ, và nuôi
rào đăng quầng năng xuất
có thể đạt 345
t/ha, nếu tỉ trọng
thả cá giống
lớn. Nuôi cá trong lồng
dưới bè thâm canh nhất
trên 100kg/ m3/vụ, nghĩa là nếu
lồng sâu 2m thì có thể
đạt 50 kg/m2/vụ
( 500 t/ ha /vụ ). Vì vậy
ở An Giang, cũng như
nhiều tỉnh khác
ĐBSCL, số tiểu nông
nuôi thêm cá chỉ chiếm 30 % tổng
số, doanh nhân nuôi cá
chiếm 70 %. Diện
tích nuôi cá Pangasius An Giang năm là 1063 ha, sản
xuất 119 000 tấn.
Năm 2005, các tỉnh ĐBSCL nuôi được 3249 ha cá, mức sản xuất
là 326 000 tấn. Riêng về
cá Pangasius sp . ( cá tra , cá ba sa , cá vồ
… ), tiến bộ thật
là đáng kể. Theo VASEP, năm
2000, Việt Nam chỉ
mới xuất khẩu
170 000 tấn Pangasius, trị
giá 40 triệu USD. Năm 2011, tăng
40 lần hơn
năm về trị giá là
1.856 triệu USD, số
lượng xuất khẩu
là 660 000 tấn. Năm 2013, trị
giá xuất khẩu
Pangasius là 1. 8 tỉ USD , có phần
cao hơn đôi chút năm 2012 là năm
xuất
khẩu bị giảm.
Năm 2014, trị giá xuất
khẩu dự trù chỉ
là 1 750 triệu USD, vì giới
hạn kỷ
thuật chế biến
cho đúng thể lệ điều
hòa y tế quốc tế. Xuất khẩu
cá Pangasius năm 2013, theo thống kê, chỉ
sau Tôm, chiếm 26 % trị
giá ngư sản xuất
khẩu nước nhà .
Xuất khẩu cá Pangasius ở An Giang |
Sản xuất Pangasius Việt Nam năm 2011 là 1.151 triệu tấn ( nuôi trên 5 550 ha mọi thể thức
), năm 2012 là 1.2 triệu tấn
( nuôi ở 5610 ha ), năm 2013
là 1, 6 triệu tấn
và có lẽ năm 2014 giảm đi khỏang 5 % so với năm 2013 . Đồng Tháp năm 2012, đã sản xuất nhiều
cá Pangasius hơn 29, 1 % tổng số so với
24.7% của An Giang, kế tiếp là Cần Thơ ( 12.7% ), Bến Tre, Vĩnh Long, Tiền Giang. Việt Nam xuất khẩu
mọi lọai
Pangasius đến 149 quốc gia và lảnh thổ
quốc tế, nhưng chỉ
mới xuất khẩu phi lê pangasius
đông lạnh - frozen
pangasius fillets gần
350 000 tấn, 9 tháng đầu năm 2013, đến gần 70 quốc gia, tăng 20% cùng thời gian năm 2012 . Tuy Việt Nam vẫn đứng hàng nhất thế giới
xuất khẩu
Pangasius, nhiều quốc
gia Á châu khác cũng tăng thêm nguồn cung cấp. Hoa Kỳ là nước mua nhiều cá Pangasius ( phi lê và các chế
biến khác ) Việt Nam nhất, chiếm đến 23 % trị giá, tuy sản lượng
suy giảm biên tế ( giảm 0. 5 % ). Hoa kỳ nhập khẩu phi lê cá này phần lớn từ
Việt Nam ( 94 % ). Giá trị nhập khẩu
phi lê vào Hoa Kỳ tăng 82%, tuy giá trị giảm đi 9% so với năm 2012. 27 nước
Hiệp Hội Âu Châu - EU
nhập khẩu
104 000 tấn phi lê pangasius đông lạnh , giảm đi chút ít so với số lượng
106 200 tấn năm 2012. Tây Ban Nha
là nước nhập khẩu phi lê nhiều nhất của
EU , mức nhập
khẩu giảm
1% so với năm 2012. Nhập khẩu cũng giảm bớt ở
Hà Lan, Đức, Ý, Ba Lan và vài thị trường EU khác.
Nhưng các thị
trường đang trổi
dậy ở Đông Âu
như Slovenia, Slovakia,
Lithuania và Estonia tăng gia nhập khẩu. Thị
trường tháng giêng 2014 ở
Á Châu mua nhiều cá Pangasius ăn vào dịp
Tết, tỉ như
thị trường cá sống
ở Kuala Lumpur, giá đến
37 - 105 USD/kg. Các khách sạn hải sản
ở đây bán Pangasius sống
theo giá 23- 28 USD / kg. Chín tháng đầu năm 2013, Singapore, Hồng
Kông, Thái Lan, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn
Độ và Nhật
đã mua 41 000 tấn phi lê pangasius đông lạnh
Việt Nam, tăng 68 % so với
cùng thời gian năm 2012. Các vấn
đề then chốt
cho các doanh nhân chế biến và xuất
khẩu Pangasius nay là các phí tổn
hậu cần - chuyễn
vận, nhân công lao động,
các tiêu chuẩn và phẩm
giá.
Việt
Nam nhập khẩu
nhiều đậu
nành và bắp Hoa Kỳ để làm thực phẩm
cho gia súc , gia cầm và nuôi cá thâm canh. Cả hai lòai hoa màu đa canh ruộng lúa này đều có thể khuếch trương
ở ĐBSCL và quốc gia Căm Bốt láng giềng, với điều
kiện tăng gia khảo cứu, năng xuất và thiết lập
các chương trình phổ biến Viêt GAP thích nghi như về phần
lúa gao đã đề cập
trên. Nên biết là năng xuất bắp - ngô Việt Nam trung bình 5t/ha ( 3 lần hơn thời
xưa ), nhưng chỉ mới
bằng phân nữa năng xuất
có thể đạt
dễ dàng là 10 t/ha. Năng xuất trung bình bắp hột ở Hoa Kỳ ngày nay là 20 t/ ha. Các
đê đường, kênh mương tưới tiêu, thóat nước, chống ngập
lũ và sạt lỡ
hay, làm khu xanh hay phát triển du lịch sinh thái ... phải lựa
chọn tích cực hơn các cây họ đậu đa niên năng xuất cao, nhiều protêin … khi tỉa lá, tĩa cành hàng năm ( ngoai các lọai điên điễn hoa vàng , so đủa….),bổ sung hột đậu nành nhập khẩu làm thực phẩm động
vật . Chế biến cá Việt Nam sử dụng
các hệ thống
cũ lỗi thời
thiếu đồng
nhất, thời
gian chế biến
quá dài, lảng phí, tiến trình cân và gói hàng không kiểm
soát nghiêm ngặt và không có phần mềm trực tuyến - online software. Các nhà máy kiểu tân tiến hơn
sẽ giúp doanh vụ chế biến
Pangasius Việt Nam làm ngắn lại thời
gian chế biến
, tự động
hóa phân phối và chuyên chở , giảm thiểu
thời gian đông lạnh , và như thế
cải thiện
hiệu năng chế biến .
…
Đẩy mạnh hơn nữa lãnh vực công nghệ và xây cất
Những
năm gần đây, Chỉ số Cạnh Tranh Tỉnh- Provincial
Competitiveness Index ,PCI của An Giang theo xếp hạng của Phòng Thương Mãi và Công Nghệ Việt Nam - VCCI tăng trưởng mau lẹ hơn
các tỉnh ĐBSCL và trong nước. Năm 2012, An Giang đứng hàng thứ nhì trong PCI của 63 tỉnh và Thành phố Viêt Nam chỉ sau tỉnh Đồng Tháp. Nhưng năm 2013 lại rớt xuống hàng thứ 23, PCI tỉnh mất đi 4 35 điểm, chỉ còn 59.07 điểm, làm tỉnh An Giang sửng sốt, ngạc nhiên. Khiến Hội Đồng
Nhân Dân Tỉnh phải
thiết lập
Một Ủy
Ban Nghiên Cứu, phân tích PCI 2013
và cải thiện
PCI cho tỉnh, kể từ tháng 5 năm 2014 và sau đó.
An Giang hiện
có 7680 doanh vụ họat
động. Tổng số
đầu tư là
33 234 tỉ đồng VNĐ.
502 dự án nội địa
đã được cấp chứng
chỉ đầu tư
trị giá 39 500 ĐVN. 18 dự
án ngọai quốc đầu
tư trực tiếp
tư bản đăng
ký gần 55 triệu
đô la Mỹ - USD, trong số
này 12 dự án đã họat
động. Ngòai ra hầu
hút dẫn thêm đầu
tư, An Giang đã dự
trù xây dựng 25 công viên
công nghệ- IP , một cụm công nghệ và thủ công nghệ - industrial and handicraft cluster diện
tích 937 ha và một vùng phát triển
kinh tế biên giới
diện tích 26 583 ha, gồm
ba cửa khẩu Vĩnh Xương, Khánh Bình và Tịnh Biên như
đã kể.
An Giang mong muốn hỗ trợ và hợp tác đầu tư vào những dự án then chốt sau đây:
- Dự án xây dựng hệ thống
thoát nước và chữa trị nước
phế thải
ở Tân Châu: dung tích 12 000 m3
/ ngày đêm, tổng cọng
đầu tư
là 562 tỉ VNĐ, theo thể lệ đầu tư ODA
- Hệ thống
thoát nước và chữa trị nước
phế thải
thị trấn
Phú Mỹ, huyện Phú Tân: dung tích 2 000 m3/
ngày đêm, đầu tư
182 tỉ ĐVN
- Hệ
thống thóat nước và chữa trị
nước phế
thải ở
thị trấn
Tri Tôn “ dung tích 4 500 m3, đầu
tư 157 tỉ ĐVN
- Các dự án chống xói mòn, trung tâm
thoát thủy núi và nước cống ở
trung tâm huyện Tịnh
Biên : dung tích 9000 m3, đầu
tư 302 tỉ ĐVN
- Nhà máy trị phế thải
ở thị xã Long Xuyên: dung tích 300 tấn/ngày, đầu tư
585 tỉ ĐVN
- Nhà máy trị phế thải
ở huyện
Phú Tân: dung tích 100 t / ngày, đầu tư
234 tỉ ĐVN
- Thiết
bị La Bô, Viện Đại học
An Giang, đầu tư
102 tỉ ĐVN
- Dự án Trung tâm Kỷ thuật Sinh học -Biotechnology, diện tích 36,78 ha, đầu tư 102 tỉ ĐVN
- Phi trường An Giang: diện tích 243,28 ha, khả
năng giai đọan 1 là 30 000 hành khách một năm và thể tích chuyên chở 100 tấn hàng hóa; giai đọan 2 là 80 000 hành khách và 300 tấn hàng hóa .
- Hạ
tầng cơ
sở cho vùng đô thị Tây Sông Hậu: diện tích 65 ha, đầu tư
423 tỉ ĐVN
- Công viên tiêu khiển Mỹ Khánh, thị xã Long Xuyên: diện tích 250 ha, đầu tư 28. 128 tỉ ĐVN
…
( Irvine , Nam Ca Li- Hoa Kỳ,
ngày 15 tháng 6 năm 2014 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét