Những sách mới về một số nước
Á Châu- Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương ,
có lẽ Việt Nam nên biết chăng ?
G S
Tôn thất Trình
1 - Cảm Tưởng Hân Hoan Chiến Thắng ở Tokyo
Đây là những lý do chủ nghĩa dân tộc quốc gia đang trở lại Nhật, ở sách Bẻ cong Bất lợi- Nghịch cảnh : Nhật Bổn và Nghệ Thuật
Sống Còn- Bending Adversity : Japan and the Art
of Survival của David Pilling, Penguin Press, xuất bản năm
2014, dày 400 trang . Kỳ này, các
hàng chữ trang nhất báo chí Nhật không
nói về giảm sút k inh tế hay khủng
hỏang hạt nhân Fukushima. Báo chí Nhật tụ
điểm vào thái độ khẳng định kích thích thuế khóa, dễ dãi định lượng và cải cách cơ cấu gọi tên
chung là “ Abenomics” , đã giúp nâng
cao thị trường chứng khoán Nhật và gây thêm
lạc quan cho những viễn cảnh kinh tế Nhật.
Trong lúc đó, Abe đã đốt lò nhiệt tình yêu nước , đề cao Nhật
là một “ Quốc gia Mỹ miều” , quá
khứ không bị những
giai đoan xấu xa vấy bẩn . Trên một
cắt đứt nhọn hoắc về tình huống quốc tế Nhật sau thế chiến, thông hiểu những phạm tội của Nhật vào thời đại đế quốc Nhật
hòang, nhấn mạnh nhún nhường và thận trọng , Abe và các đồng minh ông luôn luôn tỏ bày kiêu hảnh về sức
mạnh quốc gia của Nhật và duy trì sức mạnh này ở thế kỷ thứ 20 , là Nhật đã cư xử không có gì tệ hại hơn là một cường quốc thực
dân khác cả .
Abe đã xây đắp sự nghiệp chánh trị lâu dài của mình xung quanh các đề
tài này . Trong thời gian ngắn làm thủ
tướng kỳ đầu tiên, các năm 2006-
2007, ông đã thực thi một chánh sách giáo dục bảo thủ và nâng
Cơ quan Bảo vệ Nhật - Japan
Defense Agency lên thành một bộ Quốc Phòng cấp nội các, đầy đủ lông cánh . Tuy nhiên vào
thời kỳ lảnh đạo thứ nhất , Abel
đã cẩn thận không khiêu khích
Trung Quốc và tự
kiềm chế không viếng thăm Đền tranh cải Yasukuni , một đền
kỷ niệm các chiến sĩ Nhật đã chết cho đất nước Nhật , vinh danh một số lảnh đạo quân sự và chánh trị Nhật đã bị kết án là tội nhân chiến tranh ở Thế
Chiến Thứ Hai .
Kỳ này, Abel đã theo một lối đi khác hẳn. Liên hệ giữa Nhật và hai nước Trung Quốc và
Hàn Quốc ( Nam Hàn ) đã hư hỏng đi
những năm gần đây, tuy nhiên Abel vẫn lựa chọn thăm viếng Đền tháng chạp năm 2013 , gây ra các la ó
lăng nhục tiên đóan được , từ Bắc
Bình và Hán Thành - Seoul . Thăm
viếng này tung ra tín hiệu là trên
các sự việc trong và ngòai nước , Abel đã tỏ ra mạnh dạn hơn nhiều .
Điều chưa rỏ ràng là không rỏ sức
mạnh phổ thông và chánh trị của thủ tướng phản ảnh bao nhiêu thay đổi
sâu đậm của dân gian Nhật cho một
chánh sách ngọai giao khẳng định và
dân tộc chủ nghĩa hơn, một chánh sách
có thể là nguồn cơn rối lọan cho Á Châu, đang thấy những căng thẳng tăng gia thêm đến
các mức độ chưa từng thấy nhiều thập niên qua .
Sách Bending Adversity – Bẻ Cong Nghịch
Cảnh của David Pilling , cống hiến một cái nhìn xa hửu ích cho các vấn đề
này. Pilling là biên tập viên Á Châu của
Thời Báo Tài Chánh – Financial Times và đã làm
Cục Trưởng Tokyo của tập san từ năm 2002 đến 2008 . Ông đã
dùng một lọat rộng lớn văn bản và rất
nhiều phỏng vấn , để làm sáng tỏ nhãn hiệu chủ nghĩa dân tộc bảo thủ Abe và các đồng minh chủ trương. Pilling khéo léo tiết lộ các cội rễ lịch sử cái nhìn thế giới của Abe
và nhận thức tương đối đầy hy vọng cái
nhìn ảnh hưởng trên xã hội Nhật này, cùng
với những liên quan của Nhật với các quốc
gia lân bang và thế giới.
Nhưng một kết tóan chi tiết hơn về quá khứ mới đây của Nhật, đặc biệt là
những lọat cải cách tuyễn cử, đã tạo ra
những khích lệ cho các chánh trị
gia tỉ như Abe ôm đồm một chủ nghĩa dân tộc
dạng năng nổ hơn, nhấn mạnh đến một
kết luận có lẽ ít máu me hơn ?
Vừa
là một khổng lồ vừa là một kẻ lùn
Tít cuốn sách Pilling nói đến một cách ngôn Nhật về chuyển một điều không may qua một vận may
. Sách đóng khung lịch sử Nhật như thể một câu chuyện cố vượt qua các trở ngại , phá ngang tham vọng các cường quốc thuộc địa thế kỷ thứ 19
và phục hồi một bại trận tàn khốc
ở Thế Chiến Thứ II, trong lúc đó
vẫn phải chiến đấu với nhiều giới hạn kềm giữ nước
Nhật lùi về phía sau. Trong đọan
này , Pilling tụ điểm vào hai đề tài : cái điều
ông gọi là “ thảm kịch địa lý” tạo
hình dạng vai trò của Nhật trên thế giới
và sự kiện là dù Nhật có tính đàn hồi hậu chiến uy mảnh , di sản chiến tranh đã khiến Nhật trở
thành một “quốc gia bất thường” .
Theo lời Pilling, địa lý Nhật có nghĩa
là một quốc gia đảo bé nhỏ, lùn tụt
so với lân bang đồ sộ Trung Quốc, không trở nên bi thảm mãi cho đến năm 1853
khi Thiếu tá Hải Quân Matthew
Perry đến ép buộc Nhật mở
cửa các hải cảng cho thương mãi và ngọai giao Hoa Kỳ. Thế giới đã co lại quanh một Nhật bổn hòa bình và ốc đảo, và Nhật bổng nhiên bị đẩy mạnh vào chánh
trị địa lý của các tham vọng thực dân Tây Phương . Các lảnh tụ Nhật kết luận là cách duy nhất giúp Nhật
sống còn như thể một quốc gia độc
lập có cơ tranh đua cùng các quốc gia Tây phương uy vũ đang bắt đầu
chiếu uy quyền vào Á Châu : theo một ý nghĩa nào đó, Nhật phải trở thành không có gì là Á Châu cả và phải tân tiến mau
lẹ để trở thành một quốc gia thực dân , tìm cách chủ trì các lân bang. Theo cách nhìn của Pilling , đến điểm này , Nhật trở thành “ một cường quốc Âu Châu phần nào bị lọt bẩy sập vì vị trí và lịch sử
mình”.
Nhưng chiến bại ở Thế Chiến Thứ II đã đánh ngã quị Nhật
. Nhật hậu chiến thành một quốc gia khách hàng của Hoa Kỳ, chứa một hiện diện hùng hậu quân sự Hoa Kỳ . Tuy nhiên , thành công kinh tế hậu chiến đã làm ra nền tảng cho một xác định quốc gia
mới . Nhật đã mất hết đế quốc thuộc địa
và thấy quân sự mình bị đè bẹp. Tuy
nhiên, Nhật đã tái lập tình huống cũ trên thế giới. Không một quốc gia nào không phải là Tây
Phương, có thể sánh được thành công của
Nhật. Dù vậy, dân gian Nhật lo âu về sự kiện là
họ, trên phương diện khẩn thiết này, khác hẳn các quốc gia thịnh vượng khác. Như
Piling cho biết, bị lột bỏ đi mất quyền
hạn có một quân đội vì hiến pháp hòa
bình viết theo Hoa Kỳ, Nhật đã trở thành một khổng lồ kinh tế , nhưng lại là một
tay lùn ngoại giao .
Một lần nữa, chính
Hoa Kỳ đã xô đẩy các nhà lảnh tụ Nhật ra khỏi vùng thỏai mái và kích động
các bàn cải cách nào “ bình thường
hóa” Nhật . Hoa Thịnh Đốn thúc đẩy Đông Kinh -
Tokyo góp 13 tỉ đô la Mỹ ( nhưng không có quân đội )
vào Chiến Tranh Vịnh – Gulf War , Hoa Kỳ lảnh đạo các năm 1990 –
91. Nhưng các nhà lảnh đạo Nhật bị sốc mạnh
, khi Nhật là một kẻ góp phần chánh cho nổ lực chiến tranh mà lại không nhận
đươc một lời cám ơn
chánh thức nào đã gíúp Kuwait đẩy
lui Iraq chiếm cứ xứ sở .
Sốc kích động nhận thức là uy quyền mềm – soft power không
thay được uy quyền cứng , gây ra một tranh luận nội địa về cách nào Nhật phải
trở thành một quốc gia bình thường . Nói
rộng hơn , hai phe trồi đầu dậy. Nhóm thứ nhất, có thể xem là bảo thủ thân Mỹ; họ muốn Nhật
trở nên một đồng minh Hoa Kỳ đáng tin cậy hơn bằng cách chấm dứt thời đại chủ nghĩa hòa bình và đảm nhận nhiều trách nhiệm quân sự hơn Hoa Kỳ chờ
đợi từ Nhật. Phe thứ hai , nhận rỏ là đồng
minh với Hoa Kỳ vẫn là một
hòn đá móng của ngọai giao Nhật, nhưng lo ngại rằng đến các quyết định Tokyo quá chặc chẻ với lịch trình Hoa Kỳ. Có thể xem phe này là chống thể thức khách hàng nhất: thành viên phe này muốn Nhật trở thành một quốc
gia bình thường , không phải là quốc gia
khách hàng của Hoa Kỳ . Như Pilling lưu
ý, nhóm chống thể thức khách hàng thiếu mạch lạc và chia rẽ trên nhiều vấn đề đặc thù, tỉ như
là có nên cải cách hiến pháp Nhật
, hầu lọai bỏ các
yếu tố hòa bình và phải làm gì về
các căn cứ quân sự đồ sộ Hoa Kỳ ở Okinawa .
Trung Quốc bừng dậy mau lẹ càng làm cho cuộc tranh luận phức tạp thêm và
sản xuất ra một chia rẽ khác, lần này giữa phe chủ nghĩa dân tộc và một phe nhóm thân Á Châu. Các đường viền của hai nhóm này tương tự như
các đường viền cho phe bảo thủ và
phe chống thể chế khách hàng , nhưng không hòan tòan giống như vậy. Phe dân tộc quốc gia muốn Nhật
duy trì cá tính “ không Á Châu “ của Nhật và không muốn xin các lân bang Nhật tha lỗi về cách cư xử của Nhật trong thời đại đế quốc
. Theo họ, địa lý Nhật không có gì là thảm kịch cả thảy, mất địa vị
xứ sở như thể một cường quốc “
Tây Phương” đó thôi . Ngược lại , phe
thân Á Châu muốn tu chỉnh
về quá khứ xâm lược của Nhật và đào sâu liên hệ chánh trị với Trung Quốc.
Mâu thuẩn thay , các nhà dân tộc quốc gia
chủ nghĩa Nhật , thường hình dung “ tội lỗi
chiến tranh” Nhật không là gì cả, chỉ là công lý kẻ thắng , tuy rằng vẫn đeo
đính chặc chẻ vào liên hệ đồng
minh cùng Hoa Kỳ. Đa số chia sẽ cái nhìn của Hisahiko Okazaki , một nhà ngọai giao cũ rất gần gủi Abe, đã nói với
Pilling là “ Nhật cư xử tốt đẹp , nếu kéo
dài được liên hệ đồng minh với Anh Quốc
hay Hoa Kỳ”. Abe chia sẽ nhãn quan này
và muốn tạo ra những liên hệ quân sự mạnh mẽ hơn với Hoa Kỳ , tuồng
như không bị xáo động gì cả về
mối căng thẳng cố hữu giữa một đồng minh cấp dưới trẻ tuổi liên kết đến
một quốc gia hùng cường hơn và cùng lúc,
chấp nhận một lọai tính chất phi thường của Nhật. Abe cương quyết đẩy lui , chống lại điều ông xem là thuộc phe tả , tuyên truyền Tàu hay Nam
Hàn về lịch sử Nhật. Hơn nữa,
ông nhìn tăng trưởng kinh tế qua
một lăng kính , xem đó là một thoa dịu
an ủi cho đòn chưởng làm Nhật đau khổ , khi vào năm
2010 , Trung Quốc đã thay Nhật Bổn lên hàng thứ nhì có nền kinh tế
lớn thế giới.
Thay đổi luật lệ
Dù rằng Pilling ghét
chủ nghĩa dân tộc của Abe , Pilling không xem đó là một nguyên do
chánh báo động và nghi ngờ lý tưởng sẽ còn nhiều sức duy trì uy quyền . Pilling biện cứ là nay Nhật
bên trong nội địa quá khác biệt
và nhìn xa quá để làm sụp đổ
cho những mộng mơ dân tộc chủ
nghĩa quá khứ . Lạc quan này có thể liên quan tới việc ông tương đối không thích thú bao nhiêu
cả cho các cải cách thể chế và chánh trị
đang xảy ra ở Nhật trong vòng 20 năm qua
. Nhưng đó chỉ là chống lại hậu trường,
phông sau, ai đó cũng hiểu được, về bừng
dậy của chủ nghĩa dân tộc quốc gia ở
chánh trị Nhật.
Trái lại với hình ảnh Nhật là một xứ sở cố bám chặc
những thói quen xưa cũ , trong
hai thập niên qua , chánh trị Nhật đã
thay đổi rất nhiều. Vào thập niên 1990
, sau khi Chiến Tranh Vịnh đã kích động
cố gắng đầu tiên để Nhật trở thành “một quốc gia bình thường” , vài nhà chính trị cao cấp của đảng Dân chủ Tự do – LDP , vào thời điểm này đã cai trị Nhật hàng chục năm rồi , đề nghị một tu
chỉnh chánh của hệ thống chánh trị . Mục
đích của họ là thay thế tiến trình
làm chánh sách thư lại, nhất trí của Nhật thành một tiến trình dứt khóat và chánh trị công khai hơn . Hầu tiến
tới mức cuối cùng này , Nhật dẫn
nhập, năm 1994, một hệ thống tuyễn cử mới.
Từ điểm đó , các bầu cử quốc hội ở Nhật đã sử dụng một hệ thống đặc biệt trong đó người đi bầu bỏ một lá phiếu duy nhất cho một đại diện ở một
huyện- tỉnh đa thành viên có đến một tá ứng
cử viên – kể luôn cả vài người trong
cùng một đảng, sẽ tranh đua nhau ; 3 trong số
5 người hạng đầu ở mỗi huyện- tỉnh
sẽ thành dân biểu . Hệ thống tạo ra những
chia rẽ
bè phái sâu đậm trong các đảng chánh trị và làm người bỏ phiếu khó lòng biết được chánh xác là họ ủng hộ đảng phái nào . Các chánh trị gia tranh đua
phần lớn trên hứa hẹn là họ duy
trì các hệ thống che chở, bảo trợ ở huyện- tỉnh nhà. Thành quả là các tuyễn cữ quốc gia ít khi xoay quanh các đảng tranh đua
trên các vấn đề quốc gia , tỉ như
phúc lợi xã hội , an ninh quốc gia , hay các chánh sách kinh tế. Lạ lùng
thay là dưới luật lệ tuyễn cử xưa cũ của
Nhật, nói về những vấn đề quốc gia đáng kể,
không phải là sách lược tuyễn cữ
hiểu biết thực tiễn .
Cải cách tuyển cử Hạ viện Nhật phối hợp
cùng hệ thống đại diện theo tỉ lệ
cử tri . 300 dân biểu quốc hội nay được bầu trực tiếp để đại diện
những huyện -tỉnh chỉ có một dân
biểu, như thể các bầu cử Hạ viện ở Hoa Kỳ.
Còn 200 dân biểu khác thì cấp cho các đảng phái chánh trị chiếu theo tỉ xuất các lá phiếu mỗi đảng được bầu , tương tự các cuộc bầu cử Quốc hội ở phần lớn các quốc gia Tây Phương .
Cải cách có một số ảnh hưởng tức thì . Nó
xóa bỏ các đảng đánh nhau ở các cuộc bầu
cử quốc gia, khiến cho các tranh đua giữa các đảng thành tụ điểm ở các
tuyễ cử mới. Đây là lần đầu tiên,
các đảng chánh trị khởi sự làm ra các
cương lĩnh đảng, trên đó các ứng cử viên
sẽ vận động bầu cử . Như đã định liệu, hai đảng chánh trỗi dậy , khi đảng đối lập to lớn là Đảng
Dân chủ Nhật -DPJ vươn lên thách thức đảng Dân
chủ Tự do –LDP luôn luôn chủ trì .
Dù rằng các đảng chưa bao giờ định nghĩa rỏ rệt các khác biệt ý thức hệ, lảnh đạo DPJ là đảng chống thể thức khách hàng thân Á
Châu, trong khi lõi nòng cốt của lảnh đạo
LDP duy trì một cam kết mâu thuẩn về chủ nghĩa bảo thủ thân Mỹ và chủ nghĩa dân tộc quốc gia Nhật .
Cuộc đấu tranh giữa hai đảng nâng cao bi kịch tính tầm quan trọng của các lảnh tụ đảng , vì hai
lý do. Trước tiên , hệ thống mới giúp các lảnh tụ đảng vẽ hình dáng các thông điệp tuyễn cử các đảng và ảnh hưởng
tới tiến trình chỉ định các ứng cử viên
. Thứ hai là vì công chúng biết rỏ rằng một
lá phiếu cho một đảng đặc biệt, thật sự
là lá phiếu cho lảnh tụ, cho khéo léo chánh trị , cho sức lôi cuốn kỳ diệu và tính có thể đắc cử được của lảnh tụ đảng trở
nên cực trọng , đặc biệt vì Nhật là một
trộn lẫn giữa hệ thống “ai thắng chiếm hết mọi điều” và đại diện theo tỉ xuất, nay có nghĩa là một nhà lảnh đạo đảng được
ưa chuộng có thể sản xuất ra một thắng cử to lớn , áp đảo .
Hệ thống mới thay đổi sâu xa cách cư xử của cách đáng phái
chánh trị và các chánh trị gia . Lần đầu
tiên, hệ thống tuyễn cử Nhật tạo ra những
khích lệ cho các nhà chánh trị tham vọng
cố đặc thù hóa trên những vấn đề chánh sách quố c gia . Các
lảnh tụ chánh trị đảng LDP mau lẹ hơn các lảnh tụ DPJ, để khám phá ra
là an ninh quốc gia , và các kêu gọi kềm theo về chủ nghĩa dân tộc, đóng một vai trò đặc biệt tốt cho mùa
vận động tuyễn cử. Khác với các chánh sách kinh tế hay phúc lợi xã hội , những kêu gọi lòng yêu nước làm
cho Nhật thành một quốc gia đẹp đẽ hay
cường mạnh, không phải chạm mặt với chống đối
từ các nhóm quyền lợi mạnh mẽ
và chỉ cần vài hứa hẹn đặc thù.
Nguyên
thủ tướng LDP Junichiro Koizumi
là nhà chánh trị bảo thủ đầu tiên nắm chánh quyền sau khi cải cách tuyễn cử được thực thi tòan
diện . Chính Koizumi đã kêu gọi các tình cảm chủ nghĩa dân tộc bằng cách thăm
viếng Đền Yasukuni . Dù cho Koizumi thành công
chiếu lên một hình ảnh là một lảnh
tụ không e sợ Trung Quốc Hay Bắc Hàn, cách
ông làm đã góp phần làm suy thoái các quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật bổn. Theo môt điều tra dư luận cho Sở
nội các chánh phủ Nhât làm ra, tỉ lệ công chúng có cảm tưởng là không “thiện
cảm” hay có khuynh hướng không có cảm
tường “ thiện cảm” gì hết với Trung Quốc, đã gia tăng từ 48 % năm 2003 lên 63% năm 2005 . Con số thụt lui lại chỉ còn 59 % , khi DJP nắm chánh quyền, năm 2009,nhưng tăng lên lại
năm 2010 đến đỉnh 78% ,
khi căng thẳng dâng cao về tranh chấp
các đảo Biển Đông Tàu- Đông Hải ,
Nhật gọi là Senkaku và Tàu gọi là
Điều Ngự- DiaoYu. Năm 2010 , các nhà chánh trị hửu phái Nhật bắt đầu gây nổi
giận trong công chúng , khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên các đảo
này. Các chánh trị gia vẽ hình chánh phủ
Nhật lúc đó do DJP lảnh đạo yếu kém và
không đủ khả năng . Năm 2012, Shintaro Ishihara , một tay dfân tộc chủ
nghĩa chướng tai phe hửu, lúc đó là thống đốc
thủ đô đại phố Tokyo , khởi sự là quỷ vận động để mua vài đảo này , trong thời gian này thuộc tư hửu . Bằng cách đe dọa là chánh quyền Đại phố
Tokyo sẽ mua các đảo , Ishihara đã thàng công thúc đẩy chánh phủ DPJ quốc hửu hóa các đảo , gây ra những phản đối dữ dội ở nhiều thành
phố, khắp Trung Quốc. Năm 2012 , một thăm dò dư luận của Sở Nội Các
cho thấy là 81% công chúng Nhật báo cáo
là không “ thiện cảm” hay có khuynh huớng
không
thiện cảm đối với Trung Quốc cả.
Thả
lỏng dây xích Abe
Chủ nghĩa dân tộc nổi lên lại cống hiến một tấm màn căng sau cho Abe đắc cử năm 2012 và giúp giải thích tại sao Abel lại chấp nhận một
hình thức công khai dân tộc hơn so với kỳ thứ nhất, khi ông tự kiềm chế không thăm viếng Đền Yasukini . Ba thừa tố khác cũng đã giúp Abe trở thành táo bạo hơn lúc này . Trước tiên, thành phần ý thức hệ của LDP đã thay đổi
. Theo những nghiên cứu do Viện Đại Học
Tokyo và
nhật báo The Ashahi Shimbun đồng
dẫn đạo , năm 2009, chỉ 61 trong số 271 ứng
cử viên LDP các ghế ở tuyễn cử Hạ viện chia sẽ cái nhìn của Abe về cải
cách quốc phòng và hiến pháp . Ở các tuyễn
cử, năm 2012, 189 trong số 264 ứng cử
viên LDP ở các ghế này , chia sẽ những lập trường của ông .
Thứ hai , Khác với năm 2006 , khi Abe đã phải
sửa sọan các tuyễn cử quốc gia nắm kế tiếp
, lúc đó ông không phải trực diện các
tuyễn cử quốc gia mãi cho đến năm 2016 . Ở Nhật , nơi chu kỳ tuyễn cử thường rất ngắn ngủi, 4 năm là cả
một thiên thu . cho Abe thêm nhiều giới hạn hơn là đa số các thủ tướng gần đây phải chịu đựng . Ba là các nhà dân tộc chủ
nghĩa LDP nay đã nay đã dồn thị trường tuyễn cử theo cảm tình thân Mỹ , đang trổi dậy như thể là những kẻ đề
xướng ồn ào nhất cho một liên minh quân
sự với Hoa Kỳ. Kể từ khi Hoa Kỳ cũng muốn
cũng cố liên hệ quân sự với Nhật
bổn , một khía cạnh trung tâm
“Ngõng trục – Pivot” của chánh quyền Obama ở Á Châu, Abe biết rỏ là Hoa
Kỳ có rất ít lựa chọn ngòai việc ủng hộ ông và các đồng minh ông , ngay cả nếu các khiêu khích của ông làm cho Hoa Thịnh
Đốn nhức đầu .
Chiếu theo
nhưng điều kiện chánh trị thuận lợi
này, trừ phi nền kinh tế chùn bước
tệ hại hay một tai họa xảy ra , Abe có nhiều cơ hội tr ở nên một thủ tướng Nhật lâu dài hiếm có. Đó là điều tốt cho chánh trị Nhật , có phương sử dụng làm thời gian nghỉ
ngơi chốc lát từ các đảng phái yếu kém , ngay cả các lảnh tụ yếu kém hơn nữa . Có lẽ Pilling
xem đó là một thí dụ khác của Nhật
Bẻ cong Nghịch Cảnh – Bending Adversity , lợi thế cho Nhật. Nhưng
thành công của Abe trong nước, không
phải là điềm tốt cho vùng rộng lớn hơn.
Quay qua chủ nghĩa dân tộc, Nhật
sẽ làm ra một hòa giải ở Á Châu khó khăn
hơn , vì chưng Trung Quốc và Hàn Quốc (
Nam Hàn )sẽ ít cảm tưởng nghiêng về điều đình trên các tranh chấp lảnh thổ với
một tay chủ nghĩa dân tộc đã chiếm địa vị
một phần nhờ vào thái độ cứng rắn trên các đảo Diaoyu/ Senkaku và đặt
câu hỏi về tầm xâm lược qúa khứ của Nhật.
Pilling nhấn mạnh là dù tỉ xuất chấp thuận Abe tương đối cao , đa số dân Nhật không ủng hộ các nhà chủ nghĩa
dân tộc Nhật. Và có lẽ Pilling đúng lý .
Nhưng dư luận công cộng đến một một
vấn đề kiện tụng lôi thôi có thể thay đổi mau lẹ. Về vụ
các nhà chủ nghĩa dân tộc kiểm
sóat lịch trình chánh sách , họ không cần phải duy trì một ủng hộ tràn đầy của
công chúng, vì số người đi bầu ít ỏi .
Đây cũng là hiện tượng quen thuộc cho dân Hoa Kỳ, vì rằng đa số kẻ có thể đi bầu
chánh thức lại không đi bỏ phiếu bầu, các kêu gọi xúc động chỉ
có thể động viên , một thiểu số các người đi bầu cam kết có cơ làm thành một
khác biệt to lớn ở các cuộc tuyễn cử. Abe và đảng LDP tuồng như đã nghiêng về các
nghịch cảnh đặc biệt chánh trị Nhật cho cứu cánh của họ, tạo ra một môi trường mới
, rắc rối hơn cho Nhật bổn và cho phần còn lại trong vùng.
(Irvine , 6 tháng 5 năm 2014 )
2- Giàu có áy náy, lo âu: Tiền bạc và Đạo đức giữa các Đại gia Giàu có Mới
Đây là đề
tài sách của John Osburg, dày 248 trang, báo chí Viện Đại học Stanford , Bắc Ca Li Hoa
Kỳ xuất bản, năm 2013. Tham nhũng ở Trung Quốc là một công việc khó
nhọc ! Nhà nhân chủng học Mỹ Osburg
đã mất nhiều thì giờ với và quan sát các doanh nhân thành công ở thành phố Thành
Đô – Chengdu, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên
– Sichuan. Họ tuồng như dành phần lớn
thời giờ cố nuôi dưỡng những liên hệ cùng các chức sắc chánh quyền và các đầu lĩnh quân bất lương –
gang bosses ở trà thất – tea
houses , khách sạn karaoke , và các câu lạc bộ đại tiệc. Họ thực thi những lễ lạc liên kết giữa đàn ông, đòi hỏi ăn xài huênh hoang xe ô
tô đắt tiền , ăn uống ngọai lai
và các dịch vụ tình dục . Những
họat động chia sẽ này cấu hình lại những liên hệ công cụ như bè bạn , các hối lộ
như tặng dữ biếu xén, tội phạm như làm tình nguyện giúp cảnh sát công an duy trì trật tự xã hội. Đàn bà đóng vai trò kẻ giúp vui , các
bạn đồng thuyền tình dục được trả tiền,
những tượng trưng danh giá và đôi
khi là những kẻ đồng mưu. Những nhân vật mới giàu sang của Osburg bị ép vắt
giữa lo sợ là các đối thủ nhiều
móc nối tốt hơn , có thể chiếm đọat tài
sản họ và cảm tưởng rằng hệ thống họ đang là thành phần sắp hướng về sụp đổ. Họ cảm
tưởng bị sụp bẩy theo một lối sống
làm kiệt sức và thường là tẻ ngắt, nhưng phần xã hội còn lại nhìn họ
như thể là những kiểu mẩu thành công.
Cư xử của họ góp phần làm ra một cảm nghĩ thóai hóa đạo đức ở Trung Quốc
ngày nay .
3- Trung
Quốc Bồn chồn - Restless China
Tập thứ ba của những
tiểu luận về khuynh hướng mới xã hội
và văn hóa Trung Quốc của nhóm nhà văn , nhà báo RowMan & Littlefield, dày 298 trang, xuất
bản năm 2013 . Trong hơn 30 năm, phối hợp triệt phá các thể chế kinh tế xã hội
chủ nghĩa và tăng trưởng mau lẹ đã
biến đổi cội rễ đời sống công dân Trung Quốc . Dù cho trên nhiều phương diện, họ đã hưởng lợi
vì tiêu chuẩn sinh sống cải thiện, văn hóa đa dạng hơn , tiếp xúc nhiều
hơn với thế giới bên ngòai Trung Quốc,
kích thước và tốc độ thay đổi chấn động đã làm cho nhiều dân Tàu tự hỏi
là “ Nay làm người Tàu có nghĩa gì đây?” . Một tá tiểu luận đề cập đến những đề tài khác nhau , tỉ như
cách nào các doanh nhân giàu có hối lộ các chức quyền địa phương, trong khi đó sửa sọan
trốn ra ngọai quốc ,lỡ khi cần ; cách nào các người sử dụng Internet
Tàu sáng chế ra các chữ Hán , khéo léo
thông minh để qua mặt cảnh sát Internet
Trung Quốc, những phản ứng dân giã ưa chuộng
về các tại nạn to lớn và các xì căng đan an tòan thực phẩm , tranh cải trình diễn hò hẹn trên đài ti vi đựơc dân Tàu ưa thích, và sự trổi dậy của
hàn gắn tín ngưỡng , các hình dạng khác
của tôn giáo ngây ngất , mê ly.
Các đề tài lẽ dĩ nhiên phải lựa chọn,
các dân
Tàu di cư nông thôn hay đô thị ít
khi được nói tới , nhưng ai đó ước vọng
tìm ra một cảm giác náo lọan dân gian
, nằm dưới mức tăng trưởng mau lẹ và kiểm sóat
nghiêm nhặt chánh trị các hàng chữ trang nhất hằng ngày báo chí nhấn mạnh, cũng tìm thấy nhiều gíá trị trong sách này.
4 –
Gián điệp cho Nhân Dân : những mật thám
của Mao Trạch Đông , các năm 1949 - 1967
Đó là sách của Michael Schoenhals, dày
274 trang, Báo chí Viện đại học Cambridge xuất bản năm 2013 . Uyên Bác qui ước thường cho rằng hệ thống chủ nghĩa chuyên chế Mao- Maoism khác với các
đối giá
Nga Sô Viết và Đông Âu , bằng cách dựa vào duy nhất
trên quần chúng động viên đến phân phát
khủng bố thật công khai hơn là trên một hệ thống các chỉ điểm viên ngầm
, vụng trộm. Điều này nay đã tỏ ra là sai lầm . Schoenhals đã khám phá hàng đống tài liệu
ở thị trường chợ trời bán hàng cũ và dùng các hiệu sách tiết lộ một bộ máy quan liêu rộng lớn điềm chỉ viên- công
dân, họat động ở các vùng đô thị dưới sự
chỉ huy của Bộ An ninh Công cọng.
Các điềm chỉ viên thọat tiên nhằm vào
các gián điệp thù địch, các tay
phá họai ngầm, và các kẻ muốn lật đổ
chánh quyền nhưng rồi trở thành chống
các kẻ mệnh danh là những tay “ quá trình
giai cấp” xấu xa , những công dân
không trưng bày đầy đủ nhiệt tình chánh trị, thành viên các nhóm tộc dân
thiểu số, và các mục tiêu ngẩu nhiên không đủ may mắn để lọt ra
khỏi chú ý, hút dẫn . Vật liệu Schoenhals thu thập được , tụ điểm chánh yếu trên các tiến trình thư lại tuyển dụng,
huấn luyện và điều động nhân viên. Ảnh
hưởng của kiểm sóat trên xã hội còn cần phải nghiên cứu lại . Schoenhals chấm dứt câu chuyện vào năm 1967, khi hệ thống bị giải tán trong thời gian Cách Mạng Văn Hóa đấu tranh bè phái. Nhưng có lý do để tin tưởng rằng từ đó hệ thống đã được phục hồi và mở rộng
thêm .
5- Những
nguồn truyền thống của Tây Tạng và Người Đọc sử Tây Tạng
Hai sách Người Đọc Sử Tây Tạng- The Tibetan History Reader báo chí Viện
đại học Columbia xuất bản năm 2013 ,
dày 752 trang và sách những nguồn
truyền thống của Tây Tạng -
Sources of Tibetan Traditions dày
856 trang, cũng do Viện Columbia xuất bản năm 2013, cho sinh viên và các độc giả tổng quát đi vào một lĩnh vực hàn lâm đang trổi dậy , những nghiên cứu Tây Tạng cận đại, thách
thức hình ảnh nông cạn phổ thông như thể là một lảnh địa cô lập
của lịch lãm không di dịch .
Các sách này cho thấy Tây Tạng là một thành phần của lịch sử thế giới, không phải cách ly lịch sử này.
Cơ cấu niên đại ở cả hai
sách tiết lộ một xã hội không bao giờ đứng yên tại chỗ cả: một pha trộn hổn độn của các văn hóa , thị tộc , tiếng địa phương
, dòng họ tôn giáo , và nhũng hình thức
cai trị , có một trung tâm sáng tạo cả
hai thâu nhận và gây ảnh hưởng
văn hóa đến những quan hệ của họ với Trung Quốc, Ấn Độ , Iran , Mông Cỗ
và Nga .
Sách Những
nguồn truyền thống của Tây Tạng chứa những trích dẫn vững chắc
từ trên 180 tài liệu sơ khởi, nhiều
tài liệu đã được dịch tiếng Anh lần đầu
tiên , bao gồm lịch sử Tây Tạng từ thế kỷ thứ 17 , khi Phật giáo mới tràn vào, đến lúc tạo ra
vị trí Đạt Lai Lạt Ma –Dalai Lama sau lời khẩn nài của vua Mông Cỗ năm 1578 , trước ngày Tây Tạng sáp nhập
vào Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc giữa thế kỷ thứ 19. Cặp đôi cùng các bình luận thẩm quyền các học
giả lảnh đạo , các tài liệu vạch ra một
lịch sử đầy sự cố của vùng và các tương tác giàu có với các nền văn hóa chung
quanh, đôi khi như thể một đế quốc cai
quản những xã hội kế cận, đôi khi lại là
một thu tập đứt đọan của các lảnh địa chư hầu chùa chiềng- tu viện, đôi
khi như thể một tổ chức nhà nước dưới
quyền hạn của môn phái Gelukpa Đạt Lai Lạt Ma.
Sách
Người Đọc Sử Tây Tạng đưa tới
33 chương và bài bản khó tìm từ một học bổng sáng tạo mới đây về Tây Tạng. Các đề tài
bao gồm cơ cấu chánh quyền, thương
mãi , nền kinh tế nông nghiệp , sở hửu đất đai
và lớp nông nô, những liên hệ quốc
tế và đôi khi luôn cả các chánh trị tôn
giáo sát nhân của thuyết luân hồi. Các vật liệu có vẽ đặc thù, nhưng sống động nhờ một cảm tưởng là một khám
phá tươi tỉnh .
6 - Làm hình dáng
cho Thế Giới Đang Trổi dậy : Ấn Độ và Trật tự Đa phương
Sách Shaping
The Emerging World : India and the
Multilateral Order , Ban Báo chí
Brookings Institutions xuất bản năm 2013
, dày 400 trang . Các chế độ Đa
phương mỗi ngày mỗi quan trọng thêm, khi điều hòa cách nào các tiểu bang
liên hệ vớI nhau , nhưng công việc làm của Ấn Độ đã bị kiềm chế, vì Ấn Độ tụ điểm trên các vấn đề an ninh vùng tức thời, việc đảm trách tiếp diễn về “ tự trị chiến lược “ , các chánh trị
phức tạp và nhìn sâu vào nội địa
và ngay cả một thiếu thốn nhân viên ngọai
giao . Ấn Độ đã vận động hành lang mong được làm nhân viên thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, nhưng đã
giữ Ngân Hàng Thế Giới và Quỷ Tiền
Tệ Quốc Tế trong tầm tay, đã đặt cản trở
cho các phương thức thọa thuận
thương mãi và điều đ ình khí hậu , và đã
tránh c am kết kiểm sóat võ khí quốc tế.
Các nhà góp phần viết sách này,
thám hiểm các vị trí của Ấn Độ về các vấn đề nay hay vấn đề khác gồm
luôn cả đoàn Bảo vệ Hòa Bình Liên Hiệp
Quốc , luật biển, an ninh điều khiễn học – cybersecurity, kế tóan tài
chánh và nhân quyền . Họ tiết lộ một mô
hình phân vân , vừa yêu vừa ghét, tạo dáng bằng một ham muốn , một bên là tình
trạng cường quốc chánh yếu và bên kia là lo sợ các tiêu chuẩn quốc tế biến đổi ngược lại với
quyền lợi Ấn Độ. Tân Đề Li - New
Dehli có khuynh hướng ủng hộ các thể chế đa phương có thể sử dụng kiềm hảm các
hành động các cường quốc chánh yếu khác, nhưng không phải những hành động có cơ dùng để ảnh hưởng tới
chính ngay Ấn Độ.
( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ ngày 9
tháng 5 , năm 2014 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét