Trong hai tỉnh – vùng Trung Quốc Việt Nam cần biết rõ hơn, đây là đôi chút về :
Tỉnh Vân Nam - Yunnan, Trung Quốc
G
S Tôn thất Trình
Vân Nam là một trong 23
tỉnh Trung Quốc ngày nay, cùng
với vùng tự trị Qủang Tây, có biên giới chung với Việt Nam. Còn tỉnh Quảng
Đông - Guangdong lại không tiếp giáp gì với nước nhà cả ( xem bản đồ
đính kèm ). Quảng Tây -Guangxi tiếp giáp nhiều với Bắc Việt, lại
không phải là một tỉnh Trung Quốc, mà là một vùng tự trị
như Nội Mông, Ninh Hạ- Ningxia , Tây Tạng và Tân Cương-
Xinjiang . Biên giới cùng Myanmar - Miến Điện , thuộc các tỉnh
hay tiểu bang Shan (Sơn) và Kachin; cùng Lào thuộc các tỉnh Phongsaly,
Oudomxay và Luang Namtha và cùng Việt Nam thuộc các tỉnh Hà Giang ,
Lào Cai , Lai Châu và Điện Biên ; dài đến 4060 km. Ở vùng biên giới
đếm ra có 12 cảng sông quốc gia, 8 cảng biên giới tỉnh và trên 90
đường bộ dẫn tới các quốc gia láng giềng. Những nơi vượt biên giới
là Hà Khẩu ( Hekou )- Lào Cai bằng đường bộ và
đường xe lữa và đây là cửa khẩu biên giới duy nhất Việt ( Nam )- Trung (
Quốc ) chỉ mở cửa cho ai không phải là Tàu ( Hoa ) - không phải là Việt.
Cửa khẩu Lào và Trung Quốc là Boten. Cửa khẩu Ruili
- Muse là nơi duy nhất mở cửa cho ai không phải là Tàu,
không phải là Miến Điện. Thêm vào đó, địa lý Vân Nam kế cận Thái Lan, Căm
Bốt, Bangladesh và Ấn Độ. Diện tích tỉnh Vân Nam là 394 000 km 2,
nghĩa là lớn hơn tổng diện tích Việt Nam chỉ là 329 277 km2
( niên giám thống kê 2002 ). Nhưng chỉ đứng hàng thứ 8 về diện tích
các tỉnh Trung Quốc .Biên giới Vân Nam chung với các tỉnh
Trung Quốc là Tây Tạng - Tibet , Tứ Xuyên Sichuan, Quí Châu -
Guizhou và Vùng tự trị Quảng Tây- Guangxi . Tọa độ Vân
Nam là 25003’ Bắc vĩ tuyến và 101 0 52’ kinh tuyến
Đông.
Dân
số Vân Nam, năm 2006 là 40.5 triệu người, năm 2010 là 45.97 triệu ,
năm 2014 là 47.14 triệu . Ít hơn Việt Nam năm 2002 đã là 79.7 triệu
rồi. Tính đến 1 tháng 7 năm 2014 dân số Việt Nam là 92,5 triệu,
theo Ngân hàng Thế giới. Vân Nam là tỉnh Trung Quốc có 25 tộc dân,
nhiều tộc dân nhất Trung Quốc, trong số 56 tộc dân Trung Quốc công nhận (
vùng tự trị Tân Cương - Xin Jiang chỉ có 47 tộc dân). Muốn được
công nhận, tộc dân phải có ít nhất là 5000 người. Tộc dân
chánh ở Vân Nam ngày nay là Hán , chiếm 67 % tổng số năm 2010.
Cũng như nhiều nơi vùng Tây Nam Trung Quốc , Nhật chiếm đóng
miền Bắc trong Thế Chiến Thứ II đã khiến dân Hán
phải di cư vào Vân Nam. Nay Hán là đa số dân Vân Nam . Các tộc dân
khác thành thiểu số chỉ còn chiếm 33 % tổng số, kể cả tộc dân chánh
là “ Nghi - Yi”, chiếm 11 % tổng số. Các tộc dân khác
là Bái ( 3.6 % ), Hà Nhì - Ha Ni ( 3.45 ) , Tráng - Zhuang (
2.5 7 % , Đại ( 2.7 % ), Miêu - Miao 9 (2.55 % ), Hồi Lisu ( 1.55
%), Tây Tạng ( 0.3 % ), La Hủ - La hu , Va , Naxi, Dao ,
Mán- Yao, Jingpo, Blang, Pumi, Nu, Achang, Benglong, Mông Cỗ, Drung,
Ji nuo ….
Về
hành chánh quản trị , nay Vân Nam gồm có 16 phủ,
huyện - prefecture chia ra làm 8 thị tấn cấp huyện và 8 thị
trấn tự trị :( xem bản đồ ghi số 16 phủ huyện tỉnh Vân Nam)
Tên
|
Thị Trấn Huyện Lỵ
|
Tên phủ huyện
(Bính âm)
|
Dân số
|
Diện tích
(km2)
|
||
1- Côn Minh - thủ phủ
|
Cheng gong
|
Kunming Shì
|
6 432 000
|
21 001. 28
|
||
2- Qujing
|
Qilin
|
Qủjìng Shì
|
5 855 000
|
28 939 .41
|
||
3 - Yuxi
|
Hongta
|
Ỳuxì Shì
|
2 304 000
|
14 941.53
|
||
4 - Baoshan
|
Longyang
|
Băoshàn Shì
|
2 506 000
|
19 064.53
|
||
5 - Zhaotong
|
Zhaoyang
|
Zhaoyang
|
5213 000
|
22 439. 76
|
||
6- Ligiang
|
Gucheng
|
Lijiàng Shì
|
1 254 000
|
20 557. 25
|
||
7 - Pu’er
|
Simao
|
Puer Shì
|
2 543 000
|
44 264. 79
|
||
8- Lincang
|
Linxiang
|
Lincàng Shì
|
2 430 000
|
23 620. 72
|
||
9- De Hong ( Dai, Jingpo)
|
Mang
|
Dé hóng zìzhizhòu
|
1 211 000
|
11 171. 41
|
||
10 - Nujiang (Lisu)
Nộ
Giang (của người Lật Túc)
|
Lushui
|
Nùjìang zhizhizhòu
|
534 000
|
14 588 .92
|
||
11 – Dêqên
Địch Khánh(của
người Tạng)
|
Shangri-La
Hương Cách Lý Lạp
|
Díqình zhizhizhòu
|
1400 000
|
23185.59
|
||
12- Dali (Bai )
|
Dali
|
Dàli zhizhi zhòu
|
3456 000
|
28 299.43
|
||
13- Chuxiong ( Yi)
|
Chuxiong
|
Chuxíong zhizhizhòu
|
2 684 000
|
28 436 .87
|
||
14 – Honghe (Hani và
Yi)
|
Mengzi
|
Hónghé zhizhizhòu
|
4 501 000
|
32 167 .67
|
||
15 –Wenshan (Zhuang,
Miao )
|
Wenshan
|
Wénshan zhizhizhòu
|
3 518 000
|
31 408. 12
|
||
16 - Xishuangbanna
|
Jinghong
|
Dăizú zhizhizhòu
|
1 134 000
|
19 107. 05
|
25 tộc dân thiểu số
sống thành cộng đồng đông đúc , mỗi cộng đồng trên 5000 dân.
10 tộc dân thiểu số sinh sống ở các vùng biên giới và các
thung lũng sông gồm các tộc dân Hồi - Hui( hồi giáo ) Mãn Châu ,
Bái , Naxi , Mông Cổ , Tráng - Zhuang , Dai , Achang , Buyei, và Shuiu
cọng chụng lại là 4.5 triệu người, các tộc dân Hani, Yao, Lahu, Va,
Jingpo , Blang và Jino, tổng số là 5 triệu, sinh sống ở
các vùng núi thấp ; và ở các vùng núi cao là Miao, Lisu, Tây Tạng , Pumi , và
tổng số là 4 triệu. Đa tộc dân cho nên ngôn ngữ cũng da dạng
nói tiếng Miến Tạng là Bái, Nghi- Yi , Tây Tạng , Hani,
Jingpo, Lisu, La hu , Naxi . Nói tiếng Thái ( Việt Nam
gọi là tiếng Tày - Thái ) là Tráng - Zhuang, Bouyei, Dong,
Shui, Lục Trấn - Tailu và Thái Hoành Tainua . Cũng như ngôn ngữ
Mèo, Hmong, Miêu - Miến. Đặc biệt là tộc dân Naxi nay dùng chữ
viết - script Dongba là hệ thống chữ viết dựa trên hình vẽ
-pictographic writing system , duy nhất còn dùng trên thế giới ngày nay.
Chữ viết Dongba là cốt để cho các thầy chùa- sư sải Dongba
chỉ thị cách nào thực hiện lễ lạc , nay chỉ còn là một đặc
điểm cố hút dẫn khách du lịch mà thôi. Đa số thổ ngữ Tàu nói
ở Vân Nam thuộc chi nhánh Tây Nam ngôn ngữ
phụ tiếng Quan thọai - Mandarin và như vậy rất gần
thổ ngữ địa phương các tỉnh Tứ Xuyên hay Quý ( Quế ) Châu -
Guizhou. Ngòai các thổ ngữ địa phương, dân Vân Nam cũng nói
tiếng Hoa ( Tàu ) tiêu chuẩn - standard chinese (
Hoa phổ thông - putonghua , cũng thường được gọi là “ quan thọai -
mandarin : báo chí, chánh phủ hay để dạy học dùng. Về tôn giáo
thì có 5 triệu người theo 5 tôn giáo Trung Quốc chấp nhận : 2.6 triệu
nghĩa là 6 % tổng số dân là Phật giáo, 620 0000 hay 1.4 % là
Hồi giáo, 530 000 hay 1.2 % là Tin Lành -Protestants, 240 0000 hay
0.5 % là Đạo ( Lảo ) giáo - Taoists , và 66
000 hay 0.1% là Cơ đốc- Catholics Theo các điều nghiên
các năm 2004 và 2007 thì các năm đó chừng 32.22% thờ
đạo ông bà- thờ cúng tổ tiên và 2.75% tuyên bố là theo
Thiên Chúa Giáo . Tàu Hán theo các tôn giáo truyền thống, dân Di (Lô Lô)-
Yi theo Bimoism, dân Bai theo Benzhuism. Dân Di là một
trong vài tộc dân Tàu theo Phật Giáo Theravada ( Tiểu thừa- Phật giáo Nguyên Thủy
) . Đa số dân Hui theo Hồi Giáo và đa số các tộc dân Lisu, Jingpo và
Derung theo Thiên chúa giáo - Christianity.
Chút ít lịch sử tỉnh Vân Nam
Điêu khắc bằng đồng thời Dian |
Người
tiền cổ Nguyên mẩu -Yuanmou Homo erectus
các kỷ sư làm đường xe lữa khai quật vào thập niên 1960, đã được
qui định là họ người- homonid xưa cổ hóa thạch
nhất Trung Quốc . Vào thờI kỳ Đồ Đá Mới,Tân Thạch- Neolithic period
đã có nhiều người định cư ở vùng hồ Dian, dùng dụng cụ bằng đá
và dựng lên nhà gỗ sơ sài. Khỏang thế kỷ thứ ba trước
Công Nguyên, CN- BC , vùng trung tâm Vân Nam là quanh thủ phủ Côn
Minh- Kunming ngày nay, có tên là Di An . Tướng nhà Châu ( Chu ) là Tráng
Kiều - Zhuang Qiao chiếm vùng này từ thượng lưu sông Dương
tử - Yangtse River , tự xưng là “Vua Dian - King of
Dian” . Chính ông và những kẻ theo ông đem tới Vân Nam ảnh hưởng
Tàu ( Hán) , khởi đầu một cuộc di cư và mở rộng văn hóa vùng
này. Năm 221 trước C. N., Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc và
nới rộng uy quyền về phía Nam .
Các khu quân sự và phủ huyện được thành lập ở Vân Nam. Một đường cũ
ở Tứ Xuyên tên gọi là “Đường Năm Bộ - Five Foot Way “
được mở rộng về phía Nam gần Qùi, Khúc Tỉnh - Qujing
ngày nay, ở phía Đông Vân Nam .
Các
cuộc chiến tranh Hán ( Tàu ) và Dian bắt đầu thời vua Vũ ,
muốn mở rộng triều đại nhà Hán. Năm 109 trước CN , vua Vũ phái
tướng Quốc Thường ( Chương ? )- Guo Chang tiến đánh Vân Nam ,
thiết lập dinh quân sự Nghi, Nghĩa Châu - Yizhou
và 24 huyện. Dinh đóng quân là huyện Dianchi -
Di an Trì , thị trấn Kim Ninh- Jinning ngày nay. Một
huyện khác có tên là Vân Nam - Yunnan lần đầu tiên. Để mở mang
thêm buôn bán với Miến Điện và Ấn Độ, Vua Vũ cũng
phái Đường Mãng,, Mạnh - Tang Meng đên duy trì
và nới rộng “ Đường Năm Bộ” , đổi tên là” Đường Man
Di Tây Nam - SouthWest Barbarian Way “. Tới lúc này, kỷ thuật nông nghiệp
đã cải thiện đáng kể ở Vân Nam. Dân địa phương đã sử dụng dụng cụ đồng
thau, nuôi một lọat súc vật như trâu bò, ngựa, cừu, dê,heo và
chó. Các nhà nhân chủng học đã qui định là các dân gian này liên
quan đến tộc dân Thái. Họ sinh sống bằng cộng đồng bộ lạc , đôi khi
do dân Tàu bị đày ải lảnh đạo. Vào thời đại Tam Quốc , lãnh thổ Vân Nam,
Tây Quý Châu và Nam Tứ Xuyên gọi chung là Nam Trung - Nanzhong .
Suy sụp uy quyền Tàu trung ương đưa đến một tự trị lớn hơn cho
Vân Nam và uy quyền lớn hơn cho cơ cấu bộ lạc địa phương. Năm 225
sau CN, nhà chánh trị lỗi lạc Gia Cát Lượng( Khổng Minh ) -
Zhuge Liang chỉ huy 3 đạo quân đánh dẹp các bộ lạc Vân Nam .
Ông bắt Mạnh Họach - Meng Huo bảy -lần và được ca dao truyền khẩu Tàu
ca tụng.
Hốt tất Liệt |
Trong
thế kỷ thứ 4, miền Bắc Trung Quốc bị các bộ lạc du mục phía Bắc
chiếm cứ . Vào thập niên 320, nhóm Khương ? -Cuan di
cư vào Vân Nam. Trần Khương - Cuan Chen tự xưng Vương
và bá chủ Hồ Dian, khi đó còn tên là Hồ Côn Chuân -
Kunchuan . Nhóm Cuan cai trị Vân Nam trên 400 năm.
Năm 738 , Mông Bì La Cát - Piluoge, được vua Đường xác nhận là
Vua Vân Nam , thiết lập vương quốc Nam Châu- Nanzhao.
13 vua Nam Châu cai trị hơn 2 thế kỷ và đóng một vai trò quan
trọng cho liên hệ năng nổ giữa Trung Quốc và Tây Tạng . Năm 937, Đòan
Tây Bình- Duan siping lật đổ Nam Châu và thiết lập vuơng
quốc Đại lí - Dali. Năm 1253, Đại Lí bị đế quốc Mông
Cổ chiếm đóng, triều đại Đòan nhập vào Mông Cổ và trở thành tòan
quyền tỉnh mới . Hòang tử Mông Cổ gửi đến cai trị vùng này bị giết chết.
Năm 1273, Hốt Tất Liệt- Kublai Khan cải cách tỉnh và
bổ nhiệm Semuren Sayid Ajall làm tòan quyền . Tỉnh Vân Nam thời nhà
Nguyên cũng gồm có miền Thượng Miến Điện, sau các chiến dịch Miến Điện vào
các thập niên 1270 và 1280. Nhưng khi nhà Nguyên thất thủ năm
1368, triều đại Minh phá tan các kẻ trung thành với nhà Nguyên
do Basalaxarmi lảnh đạo và chiếm Vân Nam các năm đầu thập
niên 1390. Nhắc lại là năm thế kỷ từ buổi đầu độc lập,
dưới các triều Ngô (939 - 965 ), Đinh ( 968 - 979 ), tiền Lê ( 980
- 1009 ) đến các triều Lý ( 1010 -1225 ), Trần ( 1226 - 1400
), Lê ( 1428- 1527 ), nước Việt Nam đã thành tựu tiêu biểu một nền văn
minh Phục hưng Đại Việt , hay nền văn hóa Thăng Long, kế thừa
và phát huy di sản văn hóa cổ đại thời dựng nước vừa phát
triễn nâng cao cơ sở sáng tạo của nhân dân và giao lưu văn
hóa với các nước láng giềng. Trong thời kỳ này, dân tộc ta
còn ghi vào lịch sữ những võ công hiển hách của hai lần phá Tống ( 981 và
1077 ) , ba lần bình Nguyên –Mông ( các năm 1258, 1285- 1288 )
và 20 năm đuổi Minh( 1407 – 1427 ) .
Trong
triều đại Minh và Thanh, nhiều vùng rộng lớn Vân Nam được cai quản
dưới quyền chế độ tù trưởng - thủ lãnh địa phương. Cuộc chiến
với Miến Điện cũng xảy ra ở thập niên 1760, vì
các tù trưởng địa phương cả hai nước Trung Quốc và Miến Điện đều cố
gắng cũng cố đất đai biên giới.
Dù rằng phần lớn đã bị bỏ quên, cuộc Nổi Lọan Panthay đẩm
máu của tộc dân Hồi hồi giáo và các tộc dân thiểu số khác
chống lại nền cai trị Mãn Châu của triều đại Thanh
đã gây ra cái chết của gần 1 triệu người tại Vân Nam. Chánh
sách Thanh triều có tên là làm sạch tỉnh khỏi dân
hồi giáo - washing off the Muslims -xiHui. Vân Nam cũng bị các
sự cố chiến tranh kháng Nhật, khiến cho nhiều dân tị nạn miền Biển
Đông và các cơ xưởng công nghệ dờì sang Vân Nam. Tỉnh đảm nhận
một ý nghĩa chiến lược, đặc biệt khi Con đường Miến Điện -
Burma Road từ Lashio ỏ Miến đến Côn Minh được chống giữ mảnh liệt, vì
đây là con đường cung cấp quan trọng sống chết cho cố gắng chiến
tranh của Trung Quốc, Chống Nhật. Viện đại học Liên Đạt - Lianda
University ở miền Đông Trung Quốc bỏ chạy đến Trường Sa - Changsa ,
thủ phủ tỉnh Hồ Nam - Hunan. Nhưng quân Nhật thả bom Trường
Sa tháng hai năm 1938. 800 giáo viên và sinh viên phải chạy trốn
một lần nữa, cuốc bộ 1000 dặm ( trên 1600 km ) đến Côn Minh,
thủ phủ Vân Nam thuộc vùng núi non Tây Nam Trung Quốc. Nơi
đây họ thiết lập Viện đại học Liên Đại - Lianda.
Trong 8 năm trời
chiến tranh thảm khốc, họ đã sống còn và họat động ở những nhà của tạm
dựng, thỉnh thỏang còn bị Nhật dội bom. Thiếu thốn đủ mọi thứ thực
phẩm, trang bị, sách vỡ, áo quần và các nhu cầu khẩn thiết khác;
thế nhưng họ đã quản trị một viện đại học cận đại. Trong 8 năm
chiến tranh ( 1937 -1945 ), Lianda đã nổi tiếng khắp Trung Quốc vì đã đào
tạo ra rất nhiều nhà
hàn lâm, học giả, các nhà khoa học và trí thức Trung Quốc. Đặc biệt
là hai nhà duy nhất đọat giải Nobel vật lý học của
Trung Quốc, đã tòng học ở Lianda tại Côn Minh.
Đôi chút địa lý
Địa chất
Vân Nam là bìa mép
viễn đông của nâng cao Hy Mã Lạp Sơn. Được đẩy lên vào thời Pleitoxen
- Pleistocene, đặc biệt Trung Pleistocene, dù rằng nâng cao vẫn tiếp diễn
ngày nay. Phía Đông tỉnh là một cao nguyên đá vôi có địa hình
Karst và sông ngòi không đi lại được chảy qua các hẻm -
gorge núi cao. Các hình thành chánh yếu trên mặt cao nguyên là Hình thành
Mao Khẩu - Mao Kou thời Permian Thấp
hơn- Lower Permian, đặc điểm là các trầm tích đá vôi dày ;
Hinh thành thời Lower Permian Kỳ Hạ - Qixia đặc
diểm là đá vôi đolomitic và đá đôlomitic - dolostones, các basalt
của Upper Permian của Hình thành Ermeishan( tên cũ là cao
nguyên basalt Omeishan ) và các đá cát đỏ, đá bùn, đá đất thịt và
các tập hợp của Mesozoic - Paleogene, gồm luôn cả Hình thành Lữ
Phong - Lufeng và nhóm Lữ Nam - Lunan,( Lumeiyi, Xiaotun , và
các hình thành Caijiacong ). Ở vùng này là Rừng Đá - Forest
Stone hay Thích Lâm -Shi Lin , những tháp nhọn xoi mòn thẳng đứng
đá vôi ( Hình thành Mao Khẩu ). Ở vùng miền Đông này, sông
ngòi chảy theo hướng Đông. Nửa phần Tây có đặc điểm là các rặng núi
và các sông ngòi chảy theo hướng Nam hay hướng Bắc.
Khí hậu
Vân
Nam là một khí hậu dịu dàng, thời tiết dễ chịu và hiền lành, vì tỉnh
nằm về phía sườn núi hướng Nam, nhận ảnh hưởng cả hai đại dương Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương , nhưng dù cho thời gian canh tác được dài,
địa thế gồ ghề cống hiến ít đất đai trồng trọt được. Theo xếp lọai
khí hậu Koppen, phần lớn tỉnh nằm trong cao nguyên phụ nhiệt đới
( Koppen Cwb ) hay vùng phụ nhiệt đới ẩm thấp ( Cwa ), có mùa đông
dịu dàng đến ấm áp, và mùa hè vừa phải. Ngòai phía Nam gần
như nhiệt đới, nơi nhiệt độ thường cao hơn 300 C ( 86 0
F ) trong nữa năm ấm áp. Tổng quát, nhiệt độ trung bình tháng giêng là
từ 210 đến 27 0C ( 70- 81 0 F
). Vũ lượng trung bình hàng năm là từ 600 mm đến 2300 mm ( 24 đến
91 ngón - inch Anh ) . Phân nữa mưa rơi xuống từ tháng 6 đến tháng 8.
Vùng cao nguyên có nhiệt độ ôn hòa. Vùng vực sâu - canyon phía
Tây nóng nực và ẩm thấp tại các đáy thung lũng, nhưng trên các đỉnh núi gió
băng giá thổi qua.
Địa hình
Lảnh thổ Vân
Nam phần lớn núi non, đặc biệt ở phía Bắc và phía Tây. Những lọat
dãy núi cao lan tràn khắp tỉnh. Có một vùng vực sâu khác biệt
phía Tây và một vùng cao nguyên phía Đông. Độ cao trung
bình là 1960 m ( 6500 bộ Anh ). Các núi cao nhất là ở phía Bắc, có
khi trên 5000m- 16000 bộ ( nhắc lại là PhăngXiPăng cao nhất Việt Nam chỉ hơn 3000m ). Phía Nam, núi không cao qúa
3000 m ( 9800 bộ ). Núi cao nhất phía Bắc là đỉnh Kawagdebo
ở huyện Deqin- Đức Khâm thuộc cao nguyên Di
Khánh- Diking cao 6 740 m ( 22 110 bộ ). Núi thấp nhất ỏ thung
lũng sông Hồng huyện Hà Khẩu, gần biên giới Việt Nam, chỉ cao 76.4
m ( 251 bộ ) .
Vân Nam có rất nhiều hồ. Tỉnh chứa 9 hồ lớn diện
tích trên 30 km2( 12 dặm Anh vuông ). Gồm: Hồ
Dian Trì- Dianchi gần thủ phủ Côn Minh, Hồ Phúc Hiến - Fuxian
ở Dư Tây- Yuxi là hồ sâu đưng thứ hai Trung Quốc
, Hồ Erhai gần TP Đại Lí , Hồ Lữ Gù - Lugu ở Ninh Lăng -
Ninglang gần ranh giới Tứ Xuyên, Hồ Kỳ Lữ - Qilu
phía Nam hồ Fuxian ở huyện Tống Hải- Tonghai , Hồ Dương
Vĩnh - Yangzong ở huyện Yi Liang, Hồ Yilong và hồ Hưng Tôn -
Xing yun …
Vân
Nam là nguồn hai sông Tây Giang- Xi River (tên
địa phương là Nam Bàn - Nanpan và Suối
Hồng - Hongshui ) và sông Nguyên - Yuan River. Hongshui là
suối nguồn chánh của Sông Tây . Bắt nguồn từ Nanpan ở
phía Đông Vân Nam, chảy về Nam và về Đông làm thành ranh giới
giữa tỉnh Quý Châu và vùng tự trị Quảng Tây . Dài 345 km ( 214 dặm
Anh ) , nó hiệp với sông Dư - Yu ỏ Quý Bình , rồi
sau đó trỏ thành Tây Giang. Đúng ra, Vân Nam có 6 hệ thống sông
chánh yếu chảy qua :
sông Nam Bàn (nanpan) Trung Quốc |
-Sông Dương Tử
tại tỉnh có tên là Tân Sa Giang - JinshaJiang ( sông Cát vàng -
Golden Sands ) ỏ phía Bắc
- Sông Châu - Pearl
River bắt nguồn gần Khúc tỉnh- Qujing chảy về Đông
- Sông Cửu Long ( Mê
kông )- Lạn Thương Giang, Lancang jiang, chảy từ Tây Tạng đến Nam Hải
( Biển Đông ) làm thành biên giới giữa Lào và Miến Điện, giữa Lào và
Thái Lan và ngang qua Lào, Căm Bốt và Việt Nam
- Sông Hồng -
Red River ( Nguyên - Yuan, hay Hồng Hà- Honghe ) bắt nguồn ở
núi phía Nam Dali rồi đến Biển Đông qua Hà Nội, Việt Nam.
- Sông Salween -
Nujiang chảy đến Vịnh Martaban và Biển Andama, ngang qua Miến Điện.
- Sông Irrawaddy
bắt nguồn từ nơi hai sông hợp nhau của tiểu bang Kachin - Miến Điện,
có vài phụ lưu nhỏ tại viễn tây Vân Nam, tỉ như Dulongjiang và sông Taping và
các sông thuộc huyện Đức Hồng - Dehong.
Tài nguyên thiên nhiên
Nguồn
giàu có Vân Nam là tài nguyên khóang chất rộng lớn. Khai thác hầm mỏ là công nghệ đứng hàng đầu tỉnh. Vân
Nam đã chứng minh chứa 86 trầm tích khóang chất lọai lớn nhất nước
ở 2 700 vị trí. Chừng 13% trầm tích khóang chất chứng minh
lớn nhất Trung Quốc và ⅔ trầm tích cũng thuộc lọai lớn nhất
thung lũng sông Dương tử và miền Nam Trung Quốc. Vân Nam đứng hàng nhất nước về trầm
tích kẻm, chì, thiếc, cadmium, indium, thallium , và crocidolite.
Các trầm tích khác là sắt, than đá , đồng, vàng, thủy ngân, bạc,
antimony và sulfur. Hơn 150 lọai khóang chất đã được klhám phá ở Vân Nam. Tiềm
năng các trầm tích chứng minh trị giá 3 ngàn tỉ đồng nhân dân tệ, 40% là khóang
chất nhiên liệu, 7.3% là khóang chất kim lọai và 52.7 % là khóang
chất không kim lọai.
Vân Nam
có đủ và nhiều sông, hồ. Dòng
nước chảy hàng năm trong tỉnh là 200 km
khối – cubic kilometers, 3 lần hơn sông Hòang Hà – Yellow River.
Các sông từ ngòai chảy vào tỉnh
tăng thêm 160 km khố , có nghĩa là mỗi ngườI Vân Nam có hơn 10 ngàn mét
khối nước. Đây là con số 4 lần hơn trung
bình Trung Quốc. Các nguồn tài
nguyên thủy tính này tạo ra năng lượng thủy
điện cao. Trung Quốc đang xây một lọat đập trên sông Mê Kông để
phát triễn giao thông đường sông
và nguồn điện lực. Đập thủy điện đầu tiên
là ở Manwan năm 1993.
Đa dạng sinh học
Vân Nam là tỉnh đa dạng sinh học cũng như văn hóa nhất Trung Quốc. Tỉnh
chứa núi đỉnh tuyết phủ đầy vàcác môi
trường nhiệt đới thật sự, cho nên giúp
hổ trợ một quang phổ to lớn nhiều
lọai các lòai và cây cối khác nhau. Hoa trà mi Vân Nam – Camellia reticulata là biểu hiệu tỉnh. Mùa hè, Đại Cao Nguyên Tây
Tạng hành động như thể một rào cản gió mùa, chụp bẩy ẩm thấp cho tỉnh. Điều này giúp cho hệ
thực vật núi cao – alpine flora Vân Nam
có lần được xem là “Tình trạng um tùm không nơi nào có cả” .
Địa hình phối hợp với ẩm thấp nhiệt đới
chịu đựng đa dạng sinh học cao cực kỳ
và tính cách đặc hữu –
endemism cao độ, có lẽ giàu thực
vật học nhất các vùng ôn đới thế giới .
Tỉnh đếm được
17 000 lòai thực vật cao
cấp, trong đó ước lượng 2500 lòai là đặc hửu. Có người đã
nói: Tỉnh Vân Nam chứa đa dạng thực vật trổ hoa
bằng tất cả mọi loài cây cối trổ hoa nhập chung của Bắc Bán
Cầu.
Vân
Nam chỉ chiếm ít hơn 4 % lãnh thổ Trung Quốc , nhưng lại chứa khỏang phân nữa chim chóc và
lòai vật có vú Trung Quốc . Vân Nam là gia cư
của con min – gaur Đông Nam Á , con bò rừng khổng lồ - giant
forest dwelling ox , cọp Đông dương,
và voi Á châu . Vài lòai đã biến
mất ,có thể đã tuyệt tích tỉ như rùa hộp box turtle Vân Nam ,và vượn
thần giữ nhà – lar gibbon Vân Nam . Khỉ mủi tẹt hếch snug nosed mon key
Vân Nam hay khỉ Đen mủi tẹt hếch là
một lọai linh trưởng – primates
họ Cercopithecidae đang bị hiểm
nguy.
Phần II: Phát triển kinh tế , kỹ thuật
Các vùng phát triển kinh tế và kỹ thuật Vân Nam
Giữa thế kỷ thứ 19, Vân Nam xuất khẩu
chim chóc, đồng thau, thiếc, đá quí,
xạ hương – musk, hạch quả
- nuts và lông công đến các tiệm
Quảng Châu. Lúc đó, Vân Nam nhập khẩu
lụa, len, áo quần bông vải, thuốc lá và sách vỡ. Vân
Nam là một trong những tỉnh Trung
Quốc chưa mở mang, nhiều phủ huyện đói khổ- nghèo nàn hơn là ở các tỉnh Trung Quốc khác. Năm 1945 ,khi Tưởng Giới Thạch gửi quân
sang Việt Nam giải giáp quân đội Nhật
đầu hàng Đồng Minh đến tận vĩ
tuyến 16 , dân quân Tàu lúc đó phần lớn thuộc Vân Nam, đã bị dân Việt
chê là “ Đoàn quân Tàu Ô đi , Sao mà ốm thế ?” . Năm 1994,
chừng 7 triệu người sống dưới mức
nghèo khổ , dưới mức lợi tức hàng năm là
300 yuan – RMB ( chừng 45 Mỹ kim ) cho mỗi đầu người. Nhờ chánh phủ Trung Ương trợ cấp, năm 2002
là 3.15 tỉ yuan-RMB, số dân nông thôn nghèo khổ đã giảm từ 4.05 triệu người xuống 2.86 triệu “ Chống đói giảm nghèo Vân
Nam” nằm trong 5 dự án lớn nhắm vào
cải thiện hạ tầng cơ sở ; như cải thiện đất đai, bảo tồn nước, điện lực,
đường xá, và xây dựng “các vòng đai xanh – green belts“.
Ngày nay, các
cột trụ công nghệ, nhờ tài nguyên thiên
nhiên phong phú là : nông nghiệp , thuốc
lá , thủy điện và du lịch. Công nghệ thứ cấp – secondary hiện nay
lớn nhất ở Vân Nam chiếm hơn 45%
GDP. Công nghệ tam cấp – tertiary
chiếm 40 % và nông nghiệp chỉ còn
10 %. Đầu tư là
then chốt thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế Vân Nam ngày nay , đặc biệt về
xây cất . Thách thức chánh yếu cho tỉnh là thiếu các đại công trình phát triễn , cũng như các vấn
đề xã hội tỉ như bảo vệ môi sinh, gạt bỏ nghèo khổ, di cư bất hợp pháp, buôn bán ma túy- thuốc phiện và bệnh HIV/AIDS .
Như đã
nói trên, 4 cột trụ công nghệ Vân Nam là thuốc lá, nông nghiệp /sinh học , hầm
mỏ và du lịch. Công nghệ chế tạo chánh là
sản xuất sắt và thép, nung chảy đồng , xe cộ vận chuyễn, hóa chất, phân bón hóa học, tơ sợi và các dụng cụ quang
học. Vân Nam liên lạc thương mãi với hơn 70 nước và vùng ngọai quốc thế giới.
Vân Nam xuất khẩu chánh là thuốc
lá, máy móc, và dụng cụ điện, các sản
phẩm hóa học, nông sản và các kim lọai không phải là sắt. Năm 2008, tổng số xuất nhập hai chiều lên
đến 9.6 tỉ đô la Mỹ. Khế ước đầu tư ngọai quốc trực tiếp là 1.69
tỉ $. Con số dân thất nghiệp là 4.21 %,
ít hơn con số trên 5% của Hoa Kỳ năm 2015.
Năm 2011, GDP Vân Nam là 875.1 tỉ
yuan – RMB ( 138.92 tỉ đô la Mỹ ) với
mức tăng trưởng hàng năm là 13.7 % . GDP mỗi đầu người là 13 494 yuan
( 1 975 đô la Mỹ). Nông nghiệp
chiếm 17.9 % , xây cất và công nghệ chiếm 43% và du lịch chiếm 39.1 % GDP .
Các vùng phát triển kinh tế kỹ thuật chánh yếu Vân Nam ngày nay là :
·
Vùng biên giới hợp tác kinh tế Ruili, cũng thành lập năm 1992, để khuếch trương phát triển thương mãi giữa Trung Quốc và Miến Điện, xuất nhập khẩu đầy hứa hẹn gồm có các công nghệ chế biến , nông phẩm địa
phương và tài nguyên sinh học. Doanh nghiệp Trung Quốc và Miến
Điện tăng mau lẹ. Nay Miến Điện là một trong những nhà chung sức thương mãi lớn nhất với Vân
Nam. Thương mãi Miến
Trung, năm 1999, lên đến
77.4% ngọai thương Vân Nam. Năm đó,
xuất khẩu dụng cụ điện cơ -
electromechanical đạt 55.28 triệu $. Xuất khẩu chánh là sợi dệt áo quần,
chỉ sợi bông vải, sáp ceresin, dụng cụ
máy móc cơ học, trái cây, chỉ sợi và thuốc lá.
·
Vùng Côn Minh . Thành lập năm 1992
là một vùng cấp quốc gia . Côn Minh nằm
ở trung đông tỉnh. Sau nhiều năm
phát triễn, vùng đã hình thành
nhiều công nghệ cột trụ gồm chế
biến thuốc lá, chế tạo máy móc, thông tin điện tử và kỷ thuật sinh học. Công nghệ cao kỷ thiết lập về phía Đông Nam thủ phủ Côn
Minh, cách ga Đường Xe lữa Côn Minh 4km và
cách phi trường quốc tế Côn Minh 5 km.
Diện tích 900 ha ( 3.5 dặm Anh vuông
hay 9 km2) .
·
Vùng phát triển kinh tế Châu
Xương, Sở Hùng – Chuxiong là một vùng quan trọng cho Vân Nam . Diện
tích 12 km2 , gồm có 4 công viên
công nghệ. Nay đã hút dẫn nhiều dự án đầu tư
của công nghệ theo nền tảng mới
mẽ.
·
Vùng hợp tác kinh
tế Vạn đình –Wanding là một công viên
công nghệ Ủy ban Quốc gia Trung
Quốc chấp nhận, cũng thiết lập năm
1992 tại thị trấn Vạn Đình , Ruili và
Đức Hồng - Dehong hầu đề xướng thương mãi giữa Trung Quốc và Miến Điện.
Diện tích là 6 km2( 2.3 dặm
Anh vuông ), tụ điểm vào thương mãi, chế
biến tài nguyên nông nghiệp và du lịch .
·
Vùng phát triển
kinh tế và kỷ thuật KhúcTỉnh – Qujing do tỉnh chấp
nhận tháng 8 năm 1992 , tại phía
Đông thị trấn Qujing , đứng hạng nhì Vân
Nam trên phương diện kinh tế . Diện tích
là 106 km2( 41 dặm Anh Vuông , mục đích phục vụ cho
400 000 dân quanh Vùng .
Nông nghiệp Vân Nam
Nông Nghiệp Vân Nam giới hạn vào
các đồng bằng trên cao , các thung lũng mở và các đồi núi bậc thang . Đất bằng hiếm có, cho nên
chỉ có 5% đất đai Vân Nam trồng trọt được. Lúa gạo là mùa màng chánh, sau nđó là bắp ( ngô ),
lúa mạch , lúa mì , hột cải làm dầu ăn
- rapeseed , khoai lang, đậu nành ( đổ tương ), trà , mía, thuốc lá và bômg vải. Trên dốc núi cao ở miền
Tây, nuôi súc vật và trồng cây đốn gỗ tỉ như giá tị - teck , một tài nguyên gía trị ở Tây Nam. Thuốc lá
là sản phẩm xuất cảng chánh
yếu và là một thành phần lớn của
GDP. Hơn nữa, tiềm năng cạnh tranh mạnh mẽ của Vân Nam là công nghệ
trồng cây trái và rau đậu –vegetables , đặc biệt là rau đậu
tươi hay
sấy khô và táo tây-pom
tươi. Vân Nam là một trong những vùng
thế giới tài nguyên dồi dào nhất về nấm hoang dã ăn được.
Trung Quốc kê khai là có 938 lọai
nấm ăn được, trong số này 800 lọai thuộc
Vân Nam. Năm 2004, Vân Nam xuất khẩu
7 740 tấn nấm hoang dã ăn được, chiếm
70% tổng số nấm Trung Quốc xuất cảng . Lọai nấm tên gọi là “ nấm
thông- pine mushroom” là một sản
phẩm chánh yếu của tỉnh và xuất khẩu số lượng lớn sang Nhật.
Vì Trung Quốc tăng thêm nhiều tiêu thụ các đồ sữa , cho nên
ngành công nghệ sữa – dairy
industries cũng phát triển mau
lẹ và cũng nhắm xuất cảng sang các láng
giềng ASEAN ( Đông Nam Á ). Ngành hoa (kiểng )
cũng bắt đầu phát triễn vào những
năm cuối thập niên 1980. Vân Nam chiếm
50% tổng số hoa cắt cành – cut flower
sản xuất ở Trung Quốc. Năm 2003, Vân
Nam đã trồng 4000 ha hoa cắt cành , tổng
số sản xuất là 2.3 tỉ thân cắt. Tổng trị gía
công nghệ trồng hoa Vân Nam năm
2002 là 3.4 tỉ Đồng Nhân Dân Tệ- RMB
. Xuất khẩu 18 triệu đô la Mỹ, sang Nhật
, Hàn Quốc, Hồng Kông, Thái Lan và Singapore.
Cải thiện chuyên chở Vân Nam
Đường xe lữa
Đường xe lửa Hải Phòng Côn Minh (Vân Nam) được xây vào thời Pháp thuộc và hoàn tất năm 1910 |
-Đường xe
lữa đầu tiên ở Vân Nam là đường rầy khổ hẹp
Vân Nam – Việt Nam Pháp thuộc địa
xây dựng từ năm 1904 đến 1910 nối Côn
Minh với Việt Nam. Tại Vân Nam, khúc đọan Tàu này có tên là Đường Xe lữa
Vân Nam – Hà Khẩu và giúp cho Vân
Nam đến
được cảng Hải Phòng . Vào Thế Chiến Thứ Hai, Anh Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu
xây cất một đường rầy xe lữa từ Vân Nam đến Miến Điện nhưng phải hủy bỏ cố
gắng này vì quân Nhật tiến tới. Vì núi non hiểm trở tại Vân Nam cũng như tại các tỉnh lân cận
, và thiếu tư bản xây cất đường rầy, Vân
Nam bị gạt ra ngòai mạng lưới xe lửa nội địa Trung Quốc mãi cho đến năm 1966, khi Đường Xe Lữa Quí
( Quế ) Dương, Guiyang - Côn Minh hòan tất. Đường này cũng chỉ họat động năm 1970
cùng năm hòan tất đường Thành Đô , Chengdu ( tỉnh Tứ Xuyên ) – Côn
Minh . Đường Nam Ninh, Nanning- Côn Minh đến tỉnh Quảng
Tây hoàn tất năm 1997 ,
tiếp theo là đường Nội Giang ,
Neijiang - Côn Minh hòan tất năm 2001. Đường Phan Tây – Panxi Railway xây cất năm
1975 có mục đích chuyễn vận than đá từ
tỉnh Quý Châu – Guizhou đã được điện hóa năm 2001 và
tăng thêm chuyên chở miền Đông
Vân Nam ra ngòai tỉnh.
Trong tỉnh , đường Côn Minh - Hứa Tây ,yuxi khai trương năm 1993 và đường Quảng Đông – Đại Lí mở năm 1998 , nới rộng mạng lưới với miền Nam và miền Tây Vân Nam
. Đường Đại Lí - Lý Giang , Lijiang khánh thành năm 2010
đưa xe lữa đến phục vụ Tây Bắc Vân Nam . Đường này có dự tính kéo dài
lên phía Bắc đến huyện Xamyi’nyilha .
Tỉnh cũng đang nới rộng mạng
đường sắt đến các quốc gia láng giềng Đông Nam Á. Từ Yuxi, đường Yuxi – Mông Tự - Mengzi xây cất từ năm 2005 đến 2013,
và đường Mông Tự - Hà Khẩu xây cất từ năm 2008 sẽ có khổ
tiêu chuẩn nối với Việt Nam. Đường Dali –Ruili xây cất từ tháng 5 năm 2011, sẽ đến biên giới với Miến Điện . Tỉnh cũng dự
tính thiết lập đường sắt từ Yuxi đến Mohan ở huyện Xishuangbana-Tây Tráng Bản Nạp, biên
giới với Lào . Đường này có thể
kéo dài thêm phía Nam đến Thái Lan , Mã Lai Á và Singapore .
Ở Vân Nam, đọan xe lữa có tên
là Đường xe lữa quốc tế biên
giới Hà Khẩu – Hekou được Ủy Ban
Quốc Gia ( Tàu ) đề xướng, để mở
rộng thêm thương mãi giữa Trung Quốc và
Việt Nam. Theo báo cáo ngày 26 tháng 9 năm 2015 của phóng viên Châu Đồng Hoa
– Chudonghua, Giang Hoa Tràng- Jiang huachang, giám đốc
ga Xe lữa Bắc Hà khẩu, thì Vân Nam sẽ hòan tất tháng 12 năm 2015 , một
sân công ten nơ chở xe lữa. Đến ngày 15 tháng 9 năm 2015, Đường xe lữa
Trung Quốc – Việt Nam đã chuyễn
vận 219 500 tấn hàng hóa ngang
qua các
thể thức nhiều mốt –
multimodal chuyên chở quốc tế, tăng
thêm 62 lần hơn so với năm ngóai 2014. Hà khẩu – Hekou là cảng trong đất liền lớn nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam, chiếu theo các từ
ngữ thể tích chuyên chở. Tháng 4
năm 2015, lần đâu tiên khai trương thể thức chuyên chở quốc tế công ten nơ kể từ
khi Đường Xe Lữa Vân Nam –Việt
Nam họat động cách đây 105 năm. Ngày nay, số chuyến tàu chuyên chở theo thể thức nhiều mốt mỗi ngày, đã tăng từ một mỗi phía, đến hơn 3 chuyến mỗi quốc gia . Mốt chuyên chở “ mới”
cũng thay cách chuyên chở một chiều lên mốt chất tải hai chiều và hàng hóa chuyễn vận gồm phân bón họa học, hóa chất, máy móc, gỗ
săng và hột cà phê .
Phát triển chuyên chở quốc tế thể thức quốc tế nhiều mốt của hệ thống Đường Xe Lữa Trung Quốc – Việt Nam là một thành tựu đáng kể những cố gắng của Vân Nam muốn trở thành trung tâm tỏa chiếu cho tòan vùng Nam và Đông Nam Á . Tháng giêng 2015 khi thanh tra tỉnh, tổng thống Tập Cận Bình khuyến khích Vân Nam phục vụ tích cực và gia nhập các chiến lược phát triễn quốc gia Tàu , làm rực cháy một phát triễn nhảy vọt , tự biến thành một vùng trình diễn thống nhât và tiến bộ quốc gia ( Tàu ) , một tiền phong cho xây dựng một nền văn minh sinh môi và một trung tâm tỏa chiếu cho Nam và Đông Nam Á , góp phần thực hiện Giấc Mơ Tàu – Chinese Dream.
Đường
Miến Điện – Burma Road
Đường Miến Điện là một xa lộ dài 1100km ( 680 dặm Anh ) qua đất đai núi non từ Lashio
Đông Bắc Miến Điện đến Côn Minh . Do Trung Quốc khởi công
ngay lúc vừa mới xảy ra Chiến
Tranh Tàu – Nhật năm 1937 và hòan tất
năm 1938 là một con đường chuyên chở khẩn thiết
cho cung cấp chiến cuộc đến Chánh
phủ Tàu từ Rangoon và chở bằng xe lữa đến Lashio từ năm 1938 đến năm 1946 . Một nới rộng chạy ngang qua nước Tàu từ Côn Minh , rồi về phía Bắc đến Trùng Khánh – Chongqing. Chuyên chở
càng thêm quan trọng cho Trung Quốc
khi Nhật thật sự chiếm bờ biển Tàu
và Đông Dương . Nhật chiếm đường
này năm 1942 và được mở lại khi
nối với Đường Stillwell từ Ấn Độ,
Đường Ledo Road ( sau đó có tên
là đường Stillwell ) từ Ledo - Ấn Độ đến
Miến Điện khởi công tháng12 năm
1942. Năm 1944, Đường Ledo
tới Myitkyina và nối liền với
Đường Miến Điện. Cả hai đường nay đã mất hết tầm quan trọng xưa
cũ và cần sửa chửa nhiều . Đường
Miến Điện bớt quan trọng sau thế Chiến Thứ Hai, nhưng vẫn
duy trì nối kết với hệ thống đường bộ
dài 3 400 km từ Yangon- Rangoon –Ngưỡng Quảng ( Miến Điện ) đế Trùng Khánh .
Xa lộ
Xây cất đường xá Vân Nam tiếp tục
rộn rịp như chưa bao giờ có : trong những năm
vừa qua , tỉnh mở thêm những
đường mới hơn bất cứ tỉnh nào khác của Trung Quốc . Ngày nay xa lộ cao tốc – expressway nối Côn
Minh ngang Đại Lí đến Bảo Sơn – Baoshan , Côn Minh đến Mặc Giang - Mojiang (
trên đường đến tỉnh Cảnh Hồng – Jinghong ), Côn Minh đến Khúc Tĩnh – QuJing , Côn Minh đến Thạch, Thích Lâm-Shilin ( Stone Forest ) .
Kế họach chánh thức là nối mọi thị trấn chánh và các thủ đô láng giềng với các cao tốc vào năm 2010 và hòan tất một
mạng lưới đường cao tốc năm 2020.
Mọi thị trấn huyện nay đều đã lát đường ,chạy được mọi thời
tiết từ Côn Minh ; thị trấn cuối cùng được nối kết là Dương
La – Yangla ở cực Bắc, nhưng Đô Long Giang –Dulongjiang vẫn không
đến được sáu tháng mỗi năm . Và chỉ mới phân nữa làng xã Vân Nam là có đường
đến được. Xa lộ cấp hai quốc gia trải
dài 958 km (595 dặm Anh ), cấp ba là 7571 km ( 4 704 dặm Anh ) và cấp 4 là 52 248 km ( 32 465km ) . Tỉnh đã hình thành một mạng lưới đường giao thông tỏa ra từ Côn Minh đến Tứ Xuyên – Sichuan và Quý Châu
– Guizhou , Quảng Tây và vùng tự
trị Tây Tạng , và xa hơn nữa đến Miến Điện, Lào, Việt Nam và Thái Lan . Xa
lộ chạy suốt tỉnh Vân Nam là các xa
lộ quốc gia Tàu 108 , 213,. 214, 320,
323 , 324, 326 .
Cao tốc – Expressways
Sau khi khai thông Cao tốc từ Tỏa Long
Tự - Suolongsi đến Bình
Nguyên Kiệt –Pingyuanjie , cao tốc Lạc
Phủ - Luofu đầu tiên giữa Vân Nam và Quảng Tây , khai thông tháng
10 năm 2007, giúp chuyên chở vật liệu và
hành khách giữa hai tỉnh thuận tiện hơn.
Cao tốc Lạc Phủ khởi đầu từ đừơng
rẽ làng Lạc Phủ giữa hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây và chấm dứt
ở huyện Phù Ninh –Funing thuộc Văn Sơn – Wenshan. Tổng chiều dài là 79.3 km rút ngắn thời gian di chuyển từ Vân Nam đến Quảng Tây xuống chỉ còn 50 phút thay vì 3 giờ rưỡi. Cao tốc trong nội địa tỉnh Vân Nam là các cao tốc Côn Minh – Bangkok – Vọng Các,
DaLi G 5611 từ Đại Lí đến Lý
giang – Lijiang , Sơn Côn –
Shankun G78 từ Sán Đầu
– Shantou đến Côn Minh, Quảng Côn – Guangkun G80 từ Quảng Châu
đến Côn Minh, Khải Hà- Kaihe G 8011
từ Khải Nguyên – Kaiyuan
đến Hà Khẩu ở biên giới với Việt
Nam ,
Đường sông - water ways
Tổng qúat sông là rào cản chuyên chở cho tỉnh. Chỉ một phần nhỏ các hệ
thống sông ngòi Vân Nam là đi lại được. Tuy nhiên , Trung Quốc đang xây dựng một số
đập trên sông Mê Kông để phát triễn
chúng thành những đường sông và
nguồn gốc thủy điện . Đập đầu tiên hòan
tất năm 1993 là đập Manwan như đã nói trên. Năm 1995 , Vân Nam đầu tư 171 triệu Nhân Dân Tệ để
thêm 907 km ( 501 dặm Anh ) cho
giao thông đường sông . Tỉnh đã làm hai bến tàu
khả năng mỗi bến hàng năm là 300 000 đến 400 000 tấn và 4 bến tàu
mỗi bến khả năng hàng năm là 100 000 tấn. Tổng thể tích hàng năm chở hàng hóa là 2 triệu tấn
và 2 triệu hành khách .
Phi trường
-Tỉnh có 20 đường
bay nội địa từ Côn Minh đi Bắc Bình , Thượng Hải , Quảng
Châu, Thành Đô , Hải Khẩu , Trùng Khánh , Thẩm Dương , Cáp Nhĩ Tân –Harbin, Vũ Hán , Lan Châu , Hạ Môn , Nam Ninh, Thẩm
Dương, Quế Dương , Tràng Sa , Quế Lâm,
Lhasa và Hồng Kông ; 10 đường bay trong tỉnh từ Côn Minh đi Tĩnh Hồng – Jinghong
, Mạnh Thạch – mangshi , Lâm
Thương- Lancang , Tengchong , Lý
Giang , Đại lí , Xamgýinyilha, Zhaotong, Baoshan ,
và Simao : 10 đường bay quốc tế từ Côn Minh đi Bangkok , Kolkata – Calcutta, Chiêng Mai, Yangon, Singapore, TP HCM – Sài Gòn, Kuala Lumpur , và Viên Chanh – Vientiane. Phi trường quốc tế Côn Minh Trường Thủy-
Changshui khai trương ngày 28
tháng 2 năm 2012 thay thế
phi trường Côn Minh Wujiaba cũ .
Danh Lam Thắng Cảnh Vân Nam
Thành cổ Đại Lý Vân Nam |
Năm 2004, lợi tức du lịch thâu về cho tỉnh là 37 tỉ RMB , chiếm
12.6 % GDP tỉnh. Năm 2010,
tỉnh đón chào trên 2.3 triệu du khách ngọai quốc và tỉnh cố đạt 4.3 triệu khách ngoại quốc đến trong thời gian 2012 - 2016 . Còn kém Việt Nam, năm 2013 đã có trên 7
triệu du khách ngọai quốc. Các trung
tâm du lịch Vân Nam là :
-DaLi ,
trung tâm lịch sử của hai vương quốc Nam Châu – Namzhao và Đại Lí
–Chu Xiong là nơi ngừng đầu
tiên giũa Đại lí và Lijiang , quê huơng
của tộc dân Yi và là thị trấn xưa củ của
Yi
– Jing hong trungtâm và huyện lỵ huyện Xishuangbanna, huyện tự trị của tộc dân
Đai- Lijiang , thị trấn của tộc
dân Naxi , được UNESCO công nhận là Di sản Quốc tế từ năm 1997
- Xamgyi’nyilha ( còn có tên là Shangri-La, trước đây là Zhongdian ), một thị trấn
tộc dân Tây Tạng trên cao các
núi Tây Bắc
- Thạch ( Thích) Lâm -Shilin là một lọat núi karst ( đá vôi ) phía Đông Côn Minh - Nguyên ( Viên ) Dương
– Yuanyang nơi
định cư của tộc dân Hani- Hà Nhì
, chứa nhiều ruộng bậc thang trên núi- Tây
Hòang Bản Nạp Xihuangbanna là một cảnh tượng
nghĩ dưỡng quốc gia Tàu , có những
hút dẫn nổi tiếng thiên nhiên - văn hóa
…
( Irvine , Nam Ca Li , ngày 4 tháng 10 năm 2015 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét