Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc



 Lạm bàn về:

                Tỉnh Quảng Đông, 

 tỉnh phía Nam nhất lục địa Trung Quốc, 

GDP lớn nhất mọi tỉnh Tàu…

G S Tôn thất Trình

Vị Trí Quảng Đông ở Trung Quốc                                                 Bản Đồ Tỉnh Quảng Đông

Phần I : Tổng quát

   Quảng Đông  viết theo Wade-Giles La mã hóa là Kuang-tung , theo truyền thống là Kwangtung , là một Sheng (thành , tỉnh )  miền Nam Trung Quốc. Trước đây theo tiếng Anh là Canton hay Kwangtung .Đây cũng   là tỉnh xa nhất lục địa  phía Nam Trung   Quốc , và cũng là vùng thương mãi  cả Nam Trung Quốc đa số  hướng vào . Quảng Đông có một bờ biển  dài hơn bất cứ ở tỉnh Tàu nào  , kéo dài   từ Biển Đông ( quốc tế,  Tàu gọi là Nam Hải )  đến Đông Nam và Nam , gồm luôn các mối nối kết   để hai vùng  quản trị hành chánh đặc biệt là  Hồng Kông và Ma Cao ( Macau ). Tây giáp   Vùng tự trị Tráng  Quảng Tây;  Bắc giáp hai tỉnh  Hồ Nam và  Giang Tây -  Jiangxi ;  Đông Bắc giáp  Phúc Kiến – Fujian. Thủ phủ là Quảng Châu- Guangchou, Canton ,  địa đầu Châu thổ Sông Châu - Pearl- Zhu River Delta .  

     Diện tích là 179 800 km2 (76 100 dặm Anh Vuông), lớn hơn phân nữa Việt Nam đôi chút , chiếm 1.9 %  lảnh thổ Trung Quốc. Tọa độ là 23024’  Vĩ tuyến Bắc và 113o30’ Kinh tuyến Đông ,  nhưng lại là một trong những tỉnh phát triễn hơn hết mọi tỉnh Tàu . Năm 1989  ở cấp tỉnh,  đã  trên Giang Tô –Jiangsu ( đứng hạng hai ) và Sơn Đông- Shandong ( đứng hạng ba ).   Nền kinh tế Quảng Đông năm 2007 , tính theo GDP cũng đã vượt Đài Loan .   Năm 2011,  GDP Quảng Đông  đạt  5 267 tỉ RMB   ( 815 .53 tỉ $ US )  nghĩa là bằng GDP Hà (Hòa) Lan ( Netherlands- Pays Bas, Hollande).  Nhưng GDP mỗi đầu người – per capita  Quảng Đông , năm 2014 là 63 452  Yuan ( 10 330 $US )  chỉ đứng hạng 8 Trung Quốc, sau Giang Tô, Triết( Chiết ) Giang - ZhejiangLiêu Ninh –Liaoning v.v…     GDP Quảng Đông, năm 2014 ,là  6 779 tỉ Yuan – RMB ( 1104  tỉ $ US ) .

    Tổng số dân,  năm 2009,     95 .4 triệu người .  Năm  2014, lên đến 106 400 000  người ,  là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc , và đông hơn tổng số dân Việt Nam.  Quảng Đông đã được chấp nhận  là tỉnh đông dân nhất Trung Quốc tháng giêng năm 2005.   Thống kê chánh thức truyền thống  xếp Quảng Đông vào hàng thứ tư   về dân số,  khỏang 80 triệu người .  Tứ Xuyên - Sichuan   cũng thường được xem là tỉnh dân số đông nhất nước Tàu .   Nhưng năm 1997 , Tứ Xuyên đã chia ra làm hai tỉnh  là Tứ Xuyên và Trùng Khánh- Chongqing  . Thế nhưng thông tin mới giải tỏa  cho thấy có thêm 30 triệu dân di cư sinh sống ở Quảng Đông,  ít nhất là 6 tháng một năm. Dân di cư  từ các tỉnh Tàu khác ,  tục gọi là “ Dân trôi nổi – floating population” ,  đến Quảng Đông  vì kinh tế  tỉnh phồn thịnh  và cần có thêm nhiều nhân công  . Nếu tỉnh Quảng Đông là một quốc  gia độc lập,  Quảng Đông  sẽ nằm trong số 20 quốc gia  đông dân nhất thế giới , đông hơn  cả hai  quốc gia là Pháp , Đức  nhập lại hay đông hơn  Vương Quốc Anh  Thống Nhất - United Kingdom  hay đông hơn  cả ba tiểu bang Hoa Kỳ nhập chung ( California, Texas và New York) .

    Đa số dân Quảng Đông là tộc dân Hán  chiếm 99% tổng số;  thứ đến là tộc dân Tráng – Zhuang chiếm 0.7% và  tộc dân Yao , chiếm 0.2%. Phương ngữ -tiếng nói địa phương gồm  tiếng Quảng Đông – Cantonese , Hẹ -Hakka    Huy Châu – Huizhou, Mỹ Châu – Meizhou,  Hà Nguyên – Heyuan ,  Sào ? Quan – Shao quan và Trương Giang , Tiều Châu -  Teochew    Triều Sơn -Chao San ,   Lễ Châu- Leizhou (là ngôn ngữ địa phương dân đảo Hải Nam )  Min, Tứ ? Hoa   -Tuhoa , Quan thọai và Tráng  .
     Theo nghiên cứu năm 2010, chỉ 7%  dân Quảng Đông   theo các tôn giáo có tổ chức  mà thôi , đông nhất theo Phật giáo 6.2%, tiếp theo là Tin Lành 0.8%   và Cơ Đốc 0.2%. Khỏang 93%  hoặc không theo tôn giáo nào cả , hoặc  liên quan  tới các tôn  giáo dân gian – folks religion ,   tỉ như thờ các thần thánh  thiên nhiên  và tổ tiên-ông bà  hay các giáo phái phổ thông khác, Đạo ( Lảo Tử , Trang tử .. .)giáo – Taoists và các nhà thờ Khổng tử .

    Phân chia hành chánh

      Tỉnh Quảng Tây chia ra  làm 2 thành phố cấp phụ tỉnh ( sub provincial )  và 19  thành phố  cấp  Phủ ?( prefectural cities ); 20 thị trấn  cấp quận ( county level), 36  quận 3 quận tự trị    51 huyện ( district ) , 1134 thị trấn cấp huyện lỵ ( township level ) , 4   thị trấn cấp  huyện, 7  thị trấn tộc dân cấp   huyện lỵ , và 436 phụ  huyện ( sub distri cts) . Nhắc lại là thành phố trung ương quản trị như Quảng Châu  gọi là tebichi ;  thành phố cấp Phủ    Di  tế Trì ?- dijishi,  cấp huyện do tỉnh quản trị là Trì Hạ  Khu – Shixiaqu;  huyện là  Xian, huyện tự trị là  zizhixian  và các thị trấn  cấp quận là  Trì tế huyện –xianjishi .  Trên phương diện chánh trị  Quảng Đông  hệ thống đôi – dual system  như phần còn lại của Trung Quốc     . Tỉnh trưởng , thống đốc – governor  đảm trách  mọi việc hành chánh tỉnh.  Tuy nhiên,  Thư ký  ( tỉnh ) Đảng Cọng Sản ,  thường là dân ngòai Quảng Đông,   kiểm sóat Thống Đốc . Hồng Kông và  Ma Cao  là những vùng  quản trị đặc biệt – special  administrative regions  , SARs .  Hơn nữa  Các Luật Căn Bản -  Basic Laws  của cả hai SAR này minh bạch rỏ ràng, cấm các chánh quyền tỉnh  can thiệp  vào chánh trị đia phương các SAR này .  Thành quả  là nhiều vấn đề  của Hồng Kông – Ma Cao,   tỉ như chánh sách biên giới , quyền hạn nước nôi đã được giải quyết bằng các thỏa hiệp giữa chánh phủ SAR và chánh quyền tỉnh Quảng Đông  .  

Dân số Quảng Đông so sánh với dân số Trung Quốc từ 1982 đến 2013

   Mức tăng gia dân số  các Phủ từ năm 2000 đến 2010
                Tên                                                    2000                                 2010
Qingyuan  , Khánh Nguyên                            3 147 679                           3 698 394
Shao guan , Sào Quan                                      2 73122                           2 826 612
 Heyuan, Hà Nguyên                                     2 265 155                           2 953 019
Meizhou, Mỹ Châu                                        3 802 009                          4 240 139
Chaozhou,  Triều Châu                                   2 402 201                          2 669 844
 Zhaoqing,   Triệu Khánh                                3 371 417                          3 918 085
 Yunfu , Vân Phủ                                            2 152 915                          2 360 218
Foshan , Phó? Sơn                                         5 337 888                          7 194 311
Guangzhou , Quảng Châu                               9 943 000                        12  700 800
Dongguan , Đồng Quan                                  6 445 700                          8 220 237
Huizhou , Huy Châu                                       3 216 343                          4 597 002
Shanwei ,  Sơn Vệ (Vị )?                               2 453 084                          2 935 717
Jieyang, Kiệt Dương                                      5 237 400                            5 877 025
 Shantou , Sơn Tú?, Sơn Đầu ?                      4 671 086                            5 391 028
 Zhanjiang , Trương ? Giang                          6 072 884                            6 993 304
 Maoming , Mao Minh                                  5 239 664                            5 817 753
 Yangjiang, Dương Giang                              2  170 401                            2 421 812
Jiangmen  , Giang Môn                                  3 950 275                            4 448 871
 Zhongshan , Trung Sơn                                 2 363 542                            3 120  884
 Zhuhai , Chu Hải                                           1 235 582                           1 560 229
 Shenzhen , Thẩm Quyến                               7 008 428                           10 357 938

   Mô hình dân Quảng Đông  định cư

  2/ 5  dân Quảng Đông  sống ở làng xã- thôn ấp  , vẫn còn là những đơn vị chức năng căn bản  của tỉnh.   Số làng xã  lớn nhất, nằm ở  các châu thổ phì nhiêu  và dọc các sông ngòi.  Số thị trấn và  thành phố còn  lớn hơn nữa,  cũng nằm  trong các châu thổ và  các vùng bờ biển  và dọc theo  các đường giao  thông chánh yếu. Vùng đông dân đô thị nhất  là ở  châu thổ  sông Châu . Đa số dân gian  sinh sống ở thị thành .    Đối với Trung Quốc , Quảng Đông là  tỉnh tương đối  có mức  đô thị  hóa cao  của Trung Quốc     tập trung  đô thị lớn nhất là ở  Quảng Châu . Tuy nhiên ,  Thẩm QuyếnSơn Tú  là những thành phố lớn  chánh yếu  và Phố ?  Sơn – Foshan ,  Sào Quan – Shaoguan ,  Chu Hải  - Zhuhai  Trương Giang- Zhanjiang là những  đô thị quan trọng.  Quảng Châu và  Trương Giang  ( ở bán đảo  Lệ, Lễ  Châu- Leizhou phía Tây Nam )   đã được xem là  những thành phố   bờ biển“ mở -open” kể từ đầu thập niên 1980   và đã trở thành  trung tâm cho  qui họach  kinh tế tương lai tỉnh nhà.  Cùng lúc , Sơn Tú – Shantou (về bờ biển phía Đông ) và Thẩm Quyến,  Chu Hải ( nằm gần Hông Kông và Ma Cao)  được xếp vào  hạng  những vùng kinh tế đặc biệt , mỗi vùng có những ảnh hưởng kinh tế  chánh yếu riêng biệt  .       

         Chút ít Lịch sử

    Ghi chép lịch sử Quảng Đông   khởi đầu từ thời đại Tần - Qin dynasty .  Sau   khi thống nhất đế quốc Tàu , nhà Tần  mở rộng  về phía Nam, thiết lập  Dinh -Commandery Nam Hải – Nanhai  Bàn Dư – Panyu ,  nay  kế  cận  một phần đất Quảng Châu . Vùng  dinh  Nam Hải    trở thành Nam Việt- Nanyue  giữa  thời Tần mất nước và thời vua Vũ - Wu  nhà Hán.  Triều Hán cai trị  Quảng Đông , Quảng Tây  và miền Bắc Việt Nam dưới tên là  Bộ (Tỉnh ? ) Giao Chỉ - Jiaozhi  , phía Nam Giao Chỉ  nhất  là cổng ra vào   buôn  bán với Tây Phương  , xa đến tận Đế Quốc La Mã .  Dưới thời Tam Quốc , `` Quảng Đông thành tỉnh  Quảng” năm 226 .  Theo Sử  ký Tư Mã Thiên , Hán Thư , Ngô Việt xuân thu  cùng các nhà   bác cổ học Pháp   như E. Chavannes, Cl. Madrolle,  chúng ta biết được  hơn trăm năm  sau Câu T iễn  ( 333 trước C N ), nước Việt ở Chiết Giang  , bị quân Sở  diệt, từ đó lìa tan xuống Giang Nam , rải rác theo bờ biển   và lục địa như Phúc Kiến , Quảng Đông , Quảng Tây , Lĩnh Nam  , hổn hợp với dân địa phương mà thành lập các quốc gia nhỏ hay các bộ lạc.  Các bộ lạc nhỏ dần dần bị thôn tính các bộ lạc linh tinh( Bách Việt )  thu hẹp lại , chỉ còn  5 nhóm có hình thức quốc gia :  Đông Việt ở Ôn Châu ,  Mân Việt ở Phúc Châu , Nam Việt ở  Qủang Châu, Tây – Âu và Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và Bắc phần Đông Dương ngày nay. Nhóm  Lạc Việt , tổ tiên  trực tiếp của dân tộc Việt Nam,  là họ Lạc trong Mân Việt  - Phúc Kiến   theo  đường biển  đến duyên hải phương Nam, vào  Hải Nam và trung châu sông Nhị ( sông Hồng ) phía Bắc  Việt Nam ngày nay . Theo Nguyễn Thiên Thụ ( Dòng Việt số 7 – 2005 , Nam Ca Li ) thì năm 214, Tần Thủy Hòang sai Đồ Thư đem quân đánh Bách Việt lúc đó gồm cả Hồ Nam , Quảng Đông , Quảng Tây. An Dương Vương hàng phục Nhà Tần . Quân Tần chia đất Bách Việt và Âu Lạc thành 3 quận : Nam Hải ( Quảng Đông ) , Quế Lâm ( Quảng Tây ) , Tượng Quận ( Bắc Việt ).  Năm  111 trước CN, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc  đánh nước Nam Việt của Triệu Đà cải tên thành Giao Chỉ bộ , chia thành 9 quận : Nam Hải ( Quảng Đông ) , Thương Ngô ( Quảng Tây ) , Uất Lâm  ( Quảng Tây ) , Hợp Phố ( Quảng Đông ),  Châu Nhai ( đảo Hải Nam ), Đảm  Nhĩ ( đảo Hải Nam) , Giao Chỉ ( Bắc Việt ), Cửu Chân ( Trung Việt ) ,Nhật Nam ( Trung Việt) .                                                                          
   Thời gian trôi chảy, Quảng Đông  dần dần  chuyển qua  cai trị của  Hán Tàu, khi các tộc dân trộn lẫn nhau  vì thương mãi  dọc theo các kênh đào lớn   và chuyễn  đột ngột  xuyên qua một cuộc di cư to lớn  từ miền Bắc  vào những thời kỳ hổn lọan và xâm lăng  của các dân du mục,  kể từ khi triều Hán mất nước .  Chẳng hạn, nội chiến  ở miền Bắc Trung Quốc  tiếp theo  cuộc nổi lọan của An Lộc Sơn – AnLushan có thành quả là dân số  Quảng Châu tăng thêm  75% ,  các năm  740 – 750 đến các năm 800 – 810.  Khi  nhiều di cư vào, dân địa phương  dần dần đồng hóa văn hóa Hán  Tàu hay phải rời bỏ  đi nơi  khác .  Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 12 , có nhiều đàn bà Ba Tư - Persian women  sinh sống tại  Quảng Châu ( Canton ) , vài  người ở thế kỷ thứ 10   tỉ như  Mỹ Chu – MeiZhu  thuộc hậu cung - harem  của Hòang đế  Lưu Tràng – Liu Chang  và vào thế kỷ thứ 12 , một số đông đàn bà Ba  Tư sinh sống ở đây, nổi danh  đeo nhiều hàng bông tai – earrings  và hay cải nhau .  Vào năm 627 đời  Đường,  Quảng Đông cùng với Quảng Tây   nhập lại thành   một phần Lĩnh Nam – Lingnan  , Vòng  tự trị  Núi Nam – Mountain – South Circuit  .   Phần Quảng Đông của Vòng này,  năm 971,  triều đại Tống  đổi tên thành  Quảng Nam  Vòng Đông- guăngnan dõng lù.  Quảng Nam Đông – Guangnan East  là nguồn gốc tên Quảng Đông . Khi quân Nguyên- Mông Cổ ,  từ miền Bắc xâm chiếm  Trung Quốc vào thế kỷ thứ 13 , triều đại Nam Tống rút lui về phía Nam,  cuối cùng vào  Quảng Đông ngày nay .  Trận Chiến  Diên Môn ? - Yamen ,  năm 1279 ở Quảng Đông  chấm dứt triều đại Nam Tống ( 960- 1279 ). Trong đời Nguyên -  Mông Cổ, nhiều phần đất Quảng Đông  thuộc về tỉnh  Giang Tây – Jiangxi . Triều đại Minh đặt ra tên  tỉnh Quảng Đông,  lần đầu tiên .
    Kể từ  thế kỷ thứ 16 , Quảng Đông đã buôn bán rộng rải  với phần thế giới còn lại .  Các thương gia Âu Châu    đến từ miền Bắc ngang qua eo biển Malacca Straits  và Biển Đông ( Nam Hải  Tàu ), đặc biệt là dân Bồ Đào Nha và dân Anh Quốc hầu hết ngang qua Quảng Châu. Ma Cao ( Macau )  ở phía Nam bờ biển  Quảng Đông  là nơi dân Âu Châu định cư đầu tiên ở Tàu, năm 1557. Vào thế kỷ thứ 19,  thuốc phiện bán qua Quảng Châu đã khơi mào  Cuộc Chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất , tạo thành một  thời đại ngọai quốc xâm lăng   và can thiệp vào Trung Quốc .  Cọng thêm  với Ma Cao, lúc đó là thuộc địa Bồ  Đào Nha  , Hồng Kông  được nhượng cho Anh Quốc  và Quảng Châu Loan ( một vùng   thị trấn Trương giang – Zhanjiang ngày nay ) cho Pháp.  
     Quảng Đông cũng là một cảng ra đi của lao động Tàu sang Đông Nam Á   và Tây phương, vào cuối thế kỷ thứ 19 , tỉ như Hoa Kỳ và Gia Nã Đại.  Thành quả là nhiều cộng đồng Tàu  có nguồn gốc Quảng Đông  . Tiếng Quảng Đông – Cantonese theo sĩ số Hoa Kiều  được nói  nhiều hơn là ngôn ngữ lục địa  khác . Cho nên nhiều  từ ngữ Tàu quan thọai  nguồn gốc ngọai quốc  đến bằng nguồn gốc tiếng Quảng Đông. Tỉ  dụ từ Ninh Mông – Ning meng  có nghĩa là chanh vàng – lemon đến từ tiếng Quảng Đông , mà tên chữ Hán đọc ra là  lìng mung.  Ở Hoa Kỳ , rất nhiều  Hoa Kiều  là con cháu dân di cư  từ thị trấn  Đại Sơn- Taishan ( tiếng Quảng Đông là Toisan) , nói một thứ tiếng  địa phương   liên quan  đến tiếng Quảng Đông , gọi là tiếng  Đại San- Taishannese hay Toishanese .
    Vào thập niên 1850 , Cuộc Nổi Lọan Thái  Bình Thiên Quốc- Taiping Rebellion    lãnh tụ Hồng Tú Tòan -Hong xiu Quan,  sinh quán Quảng Đông  và nhận được một bản văn đả kích  từ một   mục sư Tin Lành ở Quảng Đông , trở thành một cuộc nội chiến lớn  ở Miền Nam Tàu . Nhờ  tiếp xúc trực tiếp   với Tây Phương , Quảng Đông biến thành một  trung tâm  chống Mãn Thanh và  các họat động chống đế quốc .  Lảnh tụ  thường được xem là cha đẻ của Trung Quốc cận đại Tôn Dật tiên- Sun Yat Sen,  cũng  là dân Quảng Đông.  Trong thuở  đầu  thập niên 1920  của nền Cộng Hòa Trung Quốc, Quảng Đông    nơi xuất phát  Quốc Dân Đảng – Kuomintang ( KMT ) sửa sọan Bắc Tiến,  trong cố gắng  kéo các tướng quân  - warlords Tàu về dưới quyền  chánh phủ Trung Ương .  Viện  Quân sự Hòang Phố - Whampoa Military Academy  được thành lập gần Quảng Châu , để đào tạo các chỉ huy quân đội.  
    Những năm gần đây , tỉnh phát triễn kinh tế cực kỳ mau lẹ,  phần lớn nhờ  những buôn bán gần gủi  Hồng Kông ,  cũng có  biên giới  với Quảng Đông . Như đã nói,  nay Quảng Đông có GDP  cao nhất Trung Quốc .  Năm 1952, một khu vực nhỏ  bờ biển Quảng Đông  được trao cho Quảng Tây  để Quảng Tây  có đường ra biển .  Năm 1955 , khu vực hòan lại cho Quảng Đông,    nhưng lại trả lui cho Quảng Tây năm  1965 .  Đảo Hải Nam , nguyên thủy thuộc  Quảng Đông, năm 1988 đã trở   thành một tỉnh riêng biệt .         

     Chút ít Địa lý 

 Địa hình và các thành phố, thị trấn quanh Sông Châu

   Quảng Đông đối diện  Biển Đông ( Nam Hải )   về phía Nam . Bờ biển dài dến 4300km (2700 dặm Anh)  . Bán đảo  Lễ Châu -Leizhou nằm về  phần cuối Tây Bắc tỉnh .  Có vài hỏa diệm sơn đã tắt  ở bán đảo Lễ Châu.  Châu thổ sông   Châu  là nơi đồng quy  của ba sông thượng nguồn :  Sông Đông – East River , Sông Bắc – North River  Sông Tây - West River.   Châu thổ  đầy rẫy hàng trăm  đảo nhỏ .  Vài rặng núi tên chung là  Núi – Nam, Nam Lĩnh – Nan Ling ( Nan Mountains  ), làm tỉnh chia rời phía Bắc Trung Quốc.  Đỉnh cao nhất tỉnh là  Shikengkong- Tây Kiễn Khổng ? cao 1902 m trên mức mặt biển.          
    Quảng Đông giáp tỉnh Phúc Kiến- Fujian về phía Đông Bắc ,  Giang  Tây- Jiangxi  Hồ Nam – Hu nan về phía Bắc , vùng tự trị Quảng Tây về phía Tây các vùng  hành chánh đặc biệt  là Hồng Kông và Ma Cao  về phía Nam . Ngoài khơi là tỉnh Hải  Nam - hainan  ngang qua bán đảo Leizhou.   Các đảo Kim môn- Mã tổ - Pratas   Islands ?  , trước đây là một phần đất  Quảng Đông nay do  Cộng Hòa Trung Quốc Đài Loan  quản trị .   Các thành phố- thị trấn   quanh sông Châu gồm có :  Đồng Quan – Dongguan , Phó ? Sơn – Foshan,  Quảng Châu  , Huy Châu- Hui Zhou ,  Giang Môn- Jiangmen ,   Thẩm Quyến - Shenzen ,  Song ?  Đức  Shunde,  Đại Sơn ,  Trung Sơn- Zhongshan , và Chu Hải -  Zhu hai .    Các thành phố khác trong tỉnh là Triều Châu – Chaozhou ,  Thanh Hải- Chenghai, Nam Hải -Nanhai,   Sơn Tú – Shantou , Sào ? Quan - Shaoquan , Trương Giang – zhanjiang gần Quảng Châu Loan thuộc Đông Pháp trước  các năm 1945- 54 , Chiêu Kinh – Zhaoqing,  Dương Giang – YangjiangVân Phủ -Yunfu  .  

Ban đêm ở Thành phố Quảng Châu trên sông Châu Giang

      Khí hậu

    Khí hậu Quảng Đông   là nhóm phụ nhiệt đới  ẩm ướt , dù  cực Nam Quảng Đông  gần  khí hậu nhiệt đới  hơn .  Mùa đông  ngắn ngủi , ôn hòa , dễ chịu và tương đối khô hạn . Mùa hè  dài , nóng nực  và rất ẩm ướt .  Nhiệt độ trung bình  ở Quảng Châu cao nhất  vào tháng giêng là  18 độ C (   64 độ F) ,  vào tháng 7 là 33 độ C ( 91 độ F )  dù rằng ẩm độ  làm cho có cảm tưởng  là mùa hè nóng nực hơn .  Ít khi có đông gía ở bờ biển ,  nhưng có thể có  vài ngày đông gía lạnh ở mùa đông nội địa . Hơn phân nữa tổng lượng mưa rơi xuống Quảng Đông từ  tháng 6 đến tháng  8. Tháng 7  đến tháng  9  làm ra mùa  bảo tố -typhoons  - tropical cyclones  chánh yếu,  thường   kèm theo mưa lớn  và tàn phá lan tràn.  Lượng mưa hàng năm   là 1500 – 2000mm (  60- 80 ngón Anh ) , giảm dần từ bờ biển đến  Tây Bắc , nhưng lại tăng thêm với cao độ   và mức  phô bày  trước gió mùa  mùa hè  .

     Sông ngòi

     Quan trọng nhất là sông Châu- Pearl river . Châu thổ sông Châu có diện tích là  7500 km2 (  2900 dặm Anh vuông), đặc điểm là các  đồi khối sót địa di –  hilly outliers   một lọat kênh đào  chằng chịt cùng một số phụ lưu,   tổng cọng  chiều dài lên đến  2400 km ( 1500 dặm Anh ) . Châu thổ là nơi đồng quy của 3 sông chánh hệ thống sông Tây – Xi River:  các sông Tây( West ) ,  sông Bắc  sông  Đông.  Ngay cả sông Châu   chảy  về Nam  từ Quảng Châu , nhận  sông Đông     đổ về  cửa  hình tam giác có Macao ( phía Tây  và Hồng Kông phía Đông  làm cửa sông. Hòan tòan do mưa  đưa tới, các sông này  thay đổi lớn theo mùa  và chúng nhận  nhiều nước đến nổi  lưu lượng  hệ  thống sông Tây  cao  một  cách lạ thường ,  hơn  lưu lượng sông  Hòang Hồ - Yellow River  đến sáu lần rưỡi,  dù lưu  vực sông Tây  chỉ  bằng phân nữa Hòang Hồ.  Tổng cọng Quảng Đông đếm được  1300 sông lớn, nhỏ .  Sông Hán  là sông quan trọng   nhất , ngòai hệ thống sông Châu . Các sông quan trọng khác  và các đất thấp  nằm về   phía Tây Nam tỉnh . Phía giữa và phía cuối các sông đã bị ô nhiễm trầm trọng  kể từ thập niên 1990, vì số lượng  to lớn  các phế thải không được chửa trị sạch  và nước phế thải đổ vào chúng  từ các vùng  đô thị hóa  và công nghệ hóa mau lẹ .                  

        Đất đai

    Đất đai Quảng Đông , nói tổng qúat  khá nghèo nàn vì nhiệt độ cao và mưa nhiều.   Thành quả là hiện tượng podzolhóa   ( trôi rửa phì nhiêu  ), và ngâm chiết – leaching.  Hầu như tòan thể Tây Quảng Đông   đều do đất đỏ red soils bao phủ , trong khi phần tỉnh còn lại  là một lẫn lộn giữa các đất đỏ   già hay trẻ,  thường đã bị podzol hóa  cao rồi . Ở phần Quảng Đông  nóng nực và ẩm ướt  đất đá ong – latêrit  là thường  xuyên.  Giống y hệt đất đỏ,  chúng không kháng cự lại  xói mòn và cần nhiều phân bón mới trồng trọt được . Đất vàng – yellow soils tìm thấy  ở những nơi  ẩm thấp và lạnh lẻo nhất tỉnh ; xảy ra ở những túi bọc nhỏ  đất bằng phẳng,  khi  không thoát thủy được  tốt đẹp. Phân phối giới hạn  hơn nhưng quan trọng về mặt kinh tế  là các đất phù sa  trầm tích trên các thung lũng sông và châu thổ .  Thành qủa  của  trồng lúa nước  là các đất phù sa phát triễn ra những dạng hình  đặc thù, mà dạng đáng ngạc nhiên nhất ,  là những tầng cứng rắn sắt -iron  ( các tầng không thấm nước  gồm phần lớn là sét )  ở vùng thủy  cấp lên xuống  .

     Đời sống thực vật và động vật

    Ẩm độ cao, nhiệt độ cao hay  khá cao , và  địa hình đa dạng  hổ trợ  một tăng trưởng thực vật  um tùm và đa dạng.  Các rừng lá rộng vạn niên thanh ( luôn luôn xanh )- evergreen là một  lẫn lộn các  cây lọai thông và lọai rụng lá, nguyên thủy bao phủ phần lớn đất đai , trong khi  một lọai  thực vật nhiệt đới hơn  chủ trì  tại bờ biển Nam.  Ngọai trừ các vùng núi non xa xôi, đa số  thực vật thiên nhiên này  đã bị  lửa rừng và dùng  cây mộc hay lùm bụi làm nhiên liệu,  thành những  băng giải.  Tình trạng này cùng trồng trọt không ngừng từ mấy ngàn năm ,  làm ra  những rừng thiên nhiên thứ cấp gổ cứng và thông  mộc tặc – horsetail pine.  Trên những đồi bị xoi mòn nặng nề hơn,  cỏ hòa bản kém cỏi hơn    dương xĩ – fern   đã chiếm  cứ .  Các bụi tre , bề cao và bề rộng thay đổi  nhiều  lan tràn , đặc biệt   ở các thung lũng  sông ẩm ướt . Rừng sản xuất mạnh mẽ và ít bị  tàn phá là ở các vùng núi non . Vài lòai cây  đáng kể như long nảo- camphor  đã được sùng  kính  và bảo vệ  từ nhiều thế kỷ   và tìm thấy   gần  các đất đai trồng trọt . Kể từ năm 1949,  những  chương trình  khối lượng trồng lại rừng đã  được thực thi  . Tại các vùng đất cao,   nơi  các lòai thông và lòai lá rụng cùng mọc tốt,  các  rừng  là rộng luôn luôn xanh đặc điểm   gỗ sồi nhiệt đới- tropical oaks ?  , sồi làm tannin và sồi hạt dẽ - chestnut oaks  ( còn có tên là Chinquapins) . Lòai thông có giá trị kinh tế cao   gồm có thông mộc tặc  , linh sam tàu – Chinese fir   độc cần tàu – Chinese hemlock.  Vài lòai tùng – cypress   và thông này rất ít người  ngòai Trung Quốc biết đến .  Rừng rậm – rainforests  đích thật là rừng nhiệt đới gió mùa,  xuất hiện thường xuyên ở miền Nam Quảng Đông  .
     Trong số những động vật có vú tìm thấy ở Quảng Đông là  nhiều lọai dơi nhiệt đới , sóc, chuột nhắt và chuột cống, chuột đồng.  các động vật ăn sâu bọ - insectivores  thường  chứa nhiều lọai hơn là ở các tỉnh khác và  động vật ăn thịt- carnivores  đáng kể ra là  cầy giông ( cho xạ hương ) -civet cat  rái cá  vuốt nhỏ - small –clawed otters.  Chim hoang –wildfowl,  công , trĩ  bạc – silver pheasants   cũng rất thường .   Bò sát Quảng Đông  gồm   một số lòai rắn hổ - pit viper   kể cả  rắn hổ tàu to lớn  và nọc chết người  và rắn hổ tre, cũng như trăn  không có nọc độc – nonpoisonous pythons  , có khi dài đến hơn 6m ( 20 bộ Anh ) . Cũng tìm thấy rất nhiều lòai côn trùng tỉ như dế,  bướm , chuồn chuồn ,  châu chấu ,  ve sầu và sâu róm - beetles .  Nhóm lưỡng cư  gồm có  các động vật đào hang dưới đất và nhiều lọai ếch nhái , cóc. Cọp ( hổ ), tây ngu, báo – beo,  chó sói , gấu và chồn,  trước đây  lảng vảng khắp đồi núi Quảng Đông ,  nay đã  bị giết nhiều vì nạn lữa cháy rừng  , tàn phá đốn rừng  và săn bắt, khiến chúng  gần như tuyệt tích .  Ở rừng nhiệt đới gió mùa , một số động vật sống trên cây cối, nhiều lòai vẫn sống sót . Thêm vào đó , vài tá  vùng bảo tồn thiên nhiên  đã được thiết lập  để làm nơi trú ẩn cho các lòai bị hiểm nguy .  
      

       Phần II: Phát triển Quảng Đông

    Kinh tế Quảng Đông đủ lớn để  xếp ngang hàng nhiều quốc gia . Năm 2014 , Sản phẩm Nội địa Ròng – Gross Domestic Product ,  GDP  là khỏang 1 104. 75 tỉ $ US ,   đứng đầu Trung Quốc  về GDP  kể từ năm 1989 .  Quảng Đông chiếm  10.66 %   của 10.36 ngàn tỉ  $ US của Trung Quốc.  GDP Quảng Đông  đã lớn hơn GDP của Inđônêxia, đứng hàng thứ 16 về Sức  Mua Tương Đương-  Purchasing Power Parity .  Tính theo  đô la Mỹ  , GDP Quảng Đông  chỉ đứng sau  5  nước -tiểu bang - thành phố , theo cách  xếp hạng thế giới là : Anh Quốc , California , Texas , New York và Tokyo .  Ngang hàng GDP của  Đại vùng đô thị - metropolitan area  TP Los Angeles . Mức tiến triễn  GDP của Quảng  Đông   như sau : năm 1980 là 24  521 triệu Yuan - RMB; năm 1985 là 55 305 triệu ; năm 1990 là 140 184 ; năm  1995 là  538 132 ; năm  2000 là 966 223 ; năm  2008 là 3 570 000 ; năm  2009 là  3 908 000 ; 2010 là 5 596 000 triệu gấp hơn 20 lần 30 năm  trước.     
     Sau cuộc Cách Mạng Cọng Sản  và mãi  cho  đến lúc khởi đầu  các cải cách của Đặng Tiểu Bình năm 1978 , Quảng Đông là một nền kinh tế lạc hậu , dù cho một nền kinh tế  ngầm , căn bản dịch vụ  lớn luôn luôn hiện diện . Các chánh sách   phát triễn kinh tế  đã khuyến khích phát triễn công ( kỷ ) nghệ các tỉnh nội địa  Trung Quốc , nối kết   yếu kém Quảng Đông  qua hệ thống chuyên chở.  Chánh sách tự túc của  Chánh phủ  làm cho vị  trí  Quảng Đông tiến  ra  các đại dương không thích nghi. Chánh sách Đặng Tiểu Bình  mở cửa  thay đổi   hòan tòan nền kinh tế   Quảng Đông , nhờ  lợi dụng ưu điểm  tỉnh có đường ra các đại dương,  gần Hông Kông và các nối kết lịch sử  với  Hoa Kiều . Thêm vào đó   mãi cho đến thập niên 1990,  khi hệ thống thuế khóa Tàu  được cải cách , Quảng Đông  thừa hưởng  tỉ xuất thuế  tương đối thấp  chánh phủ  trung ương thiết đặt ,vì Quảng Đông lúc đó  thuộc vào lọai   tình trạng lạc hậu kinh tế sau Giải Phóng . 
   Mức phồn thịnh  kinh tế Quang Đông   bắt đầu  các năm đầu thập niên 1990   và kể từ đó lan rộng qua  các tỉnh lân cận , khiến cho   họ lôi cuốn  dân số tỉnh vào bên trong , nội địa.  Tăng trưởng kinh tế   Quảng Đông   tùy thuộc lớn vào  chế tạo  giá trị cộng thêm thấp , là đặc điểm  ( hiện vẫn  còn định nghĩa phát triễn  theo nhiều phương hướng)    nền kinh  tế tỉnh  tiếp theo các cải cách Đặng Tiểu Bình   . Quảng Đông không chỉ là  tỉnh xuất khẩu hàng hóa lớn nhất Trung Quốc mà còn  là nơi nhập khẩu lớn nhất nước .

GDP Q1 và tỷ số GDP phát triển  trong 31 vùng tỉnh Trung Quốc 2015 
  Ngày nay , Quảng Đông  là một trong những tỉnh giàu nhất quốc gia , có nhiều tỷ phú nhất lục địa Trung Quốc , và như đã nói trên là  tỉnh có GDP cao nhất Trung Quốc , dù rằng tăng trưởng  lương bổng  chỉ mới bắt đầu tăng thêm , nhờ có  một dòng lao động di cư lớn đến từ  các tỉnh khác . Năm 2011, GDP danh nghĩa tập hợp   đạt   5.3 ngàn tỉ RMB ( 830.60 tỉ $US) và GDP mỗi đầu người    47 689 RMB , gần 7000 $US . Nhắc lại là GDP mỗi đầu người TP Sài Gòn lớn nhất mọi tỉnh - TP Việt Nam, năm 2011  chỉ mới khỏang 3360 $ US. , và cuối năm 2013  là 4500 $US . Đến cuối năm 2015, chánh quyền tỉnh Quảng Đông hy vọng là công nghệ dịch vụ  sẽ chiếm  hơn 50% GDP tòan tỉnh  và chế tạo cao kỷ  sẽ đạt 20% GDP. Năm 2009,  công nghệ sơ cấp Quảng Đông  trị giá là 201 tỉ yuan , thứ cấp  1.93 ngàn tỉ , và tam cấp   1.78 ngàn tỉ .  Năm đó , GDP mỗi đầu người là  40 748 yuan ( chừng 5 965 $US ).  Quảng Đông  góp phần chừng 13% tổng  sản xuất quốc gia Tàu .  Nay , Quảng Đông  có 3 trong 6 Vùng Kinh tế Đặc Biệt   của Trung Quốc là : Thẩm Quyến – Shenyen , Sơn Tú-  ShantouChu Hải -  Zhuhai.  Tuy nhiên , giàu có- phồn thịnh Quảng Đông vẫn luôn luôn tập trung   gần Châu thổ sông Châu. Năm 2008,  thương mãi quốc  ngọai cũng đã tăng thêm 7.8% so vớ inăm 2007.  Và cũng  lớn nhất  Trung Quốc . Tính theo con số ,   thương mãi quốc ngọai Quảng Đông lên đến 638 tỉ $US , nghĩa là trên  25%   tổng số thương mãi quốc ngọai của Trung Quốc là 2.5 ngàn tỉ  $ US  .

     Nông nghiệp

        Từ nhiều thế kỷ qua , nông nghiệp  là nền tảng kinh tế  Quảng Đông . Nhưng tỉ xuất  nông nghiệp tỉnh  giảm dần  kể từ thập niên 1980.  Một phần  vì đô thị hóa mau lẹ,  kể từ  cuối thập niên  1980,  đã chiếm nhiều đất đai trồng trọt, nhất là quanh các  thị trấn chánh . Và thêm vào đó ,  giá trị tương đối  của hàng hóa chế  tạo công nghệ tỉnh đã tăng lên cao  kịch tính ngạc nhiên, từ thập niên 1980.   
          Lúa gạo là cây trồng chánh . Vì chỉ có 1/5 đất đai là canh tác được, bắt buộc nông nghiệp  phải thâm canh triệt để  và đất gieo trồng  giới hạn  phần nào được bù chì lại nhờ làm nhiều mùa liên tiếp trên cùng mỗi thửa một năm.  Tiến bộ về tưới tiêu và kiểm sóat lụt lội  làm  kiểm sóat nước nôi đồng ruộng làm được  trên tất cả  ruộng vườn ,  nên sản xuất năng xuất luá gạo rất cao.  Canh tác và tưới tiêu mỗi ngày mỗi cơ giới hóa thêm , và đặc biệt ruộng vườn  bón nhiều phân bón hóa học.
 
          Hai mùa lúa một năm  trên mọi đất canh tác và ở châu thổ sông Châu  thường là 3 mùa một năm  . Thế cho nên,  mặc dù  năng xuất trung bình  hoa màu - lúa gạo  thấp hơn trung bình  Tàu , năng xuất  hàng năm lại lớn hơn.     ngũ cốc  làm thực phẩm   chiếm gần  hết diện tích trồng  trọt,  các mùa màng công nghệ  và cây trái   được trồng trên  các đất đai không trồng ngũ cốc , cũng quan trọng cho Trung Quốc .  Quảng Đông  sản xuất   gần như phần lớn sản xuất mía ở Tàu.  Tại phần Quảng Đông nhiệt đới   ,một số  cây công nghiệp trồng thành công gồm cây cao su, sợi sisal , dầu cọ - palm oil  , sợi gai dầu- hemp ,  cà phê,  và tiêu đen .  Các sản phẩm nông nghiệp truyền thống khác là khoai lang , đậu phụng ( lạc ),     trà ( chè ).  Hơn 300 lọai trái cây đ+ợc vun trồng , đáng kể ra nhất là   cây có múi ( cam quýt – citrus )  vãi ( lệ chi ),  thom dứa , và chuối .
       Quảng Đông,  nhờ bờ biển dài,  sản xuất 1/5 tổng số cá Trung Quốc.  Sản xuất cá có khi chiếm đến 1/3  lợi tức  của vài địa phương .  Cá đánh bắt  ở nhiều ngư cảng Quảng Đông,  gồm hơn 400 lọai cá nước mặn  cá ngạn vàng    yellow croaker,  cá trích trắng  – white herring, cá thu – mackerel  , cá chuổi vàng – golden threadcá chim – pomfret  Nuôi cá trong ao hồ hay dọc theo  các bờ sông và bơ, biển rất thịnh vượng .

        Công nghệ

    Vào những năm đầu giữa thế kỷ thứ 20 , Quảng Đông trải qua kinh nghiệm một tăng trưởng cận đại  khi Quảng Châu  phát triễn thành một trung tâm công nghệ , thương mãi  và chuyên chở .  Nhưng vì  nghèo nàn các trầm tích sắt  nên ít ai chú ý  tới Quảng Đông   trong Kế họach Ngũ Niên Thứ Nhất ( 1953- 57 ). Khám phá  ra các khóang chất khác đề xướng  phát triễn  vài công nghệ nặng gồm  cả kim lọai, và biến chế   hóa chất dầu lữa,  chế  tạo máy móc  và đóng và sửa chửa tàu thủy .  Đa số  công nghệ này  vẫn còn tập trung Quảng Châu .     
     Dự trữ than đá  và các trầm tích  măn gan , phần lớn có vị trí  ở miền Bắc  và Đông Bắc tỉnh  gần Sào Quan - Shaoguan  Mỹ Châu- Meizhou ,   dù một vài  than đá  hạng thấp hơn  cũng tìm thấy ở  Bán đảo Leizhou.  Các trầm tích  diệp thạch chứa dầu- oil shale cũng được khám phá gần  Mao Minh – Maoming   , ngay phía Bắc bán đảo.  Tungsten  thường  liên kết với  bismuth , molybdenum  và các trầm tích thiếc , cũng được  khai thác gần biên giới Giang Tây – jiang xi , nơi đây cũng tìm ra uranium.   Tỉnh  có các dự trữ  germanium và  tellurium  và cũng có  vài mỏ chì và antimony .
    Công nghệ nhẹ  luôn luôn  đáng kể trong tỉnh .  Ngòai thủ công ra , công nghệ nhẹ , đặc biệt  là biến chế thực phẩm  và chế tạo tơ sợi   chiếm một lảnh cực  lớn công nghệ sản xuất. Sau khi 3   vùng kinh tế đặc biệt  đầu tiên Trung Quốc được thiết lập ở Quảng Đông vào đầu thập niên 1980,  sản xuất công nghệ nhẹ  tăng trưởng  phi thường ,đặc biệt  ngành áo quần,  giày dép và nước ngọt .  Tuy nhiên,  vào đầu  thế  kỷ thứ 21 , tỉ xuất giá trị công nghệ nhẹ   giảm xuống kịch tính   trong nền kinh tế tỉnh,   so với  những  lảnh vực  công nghệ phát triễn mau lẹ ,  đáng nêu lên là ngành điện tử  và kỷ thuật thông tin. Các  chế tạo  chánh yếu khác   gồm có  ô tô và mô tô, máy móc điện , hóa học dầu lữa , vật liệu xây  xất , giấy và dược phẩm .  Đa số  các công nghệ  này nhắm về xuất khẩu , đáng nêu lên  là của những xưởng thiết lập trong 3  vùng kinh tế đặc biệt.

Những con số chính của Quảng Đông

       Danh sách các vùng phát triển kinh tế và kỹ thuật Quảng Đông ngày nay

-   Vùng  Mới   Quốc gia  va  Phát triển  Công nghệ Cao Kỷ Phố Sơn- Foshan
-   Quận ( district )  Phát triễn Quảng Châu
-  Vùng  biến chế xuất khẩu Quảng Châu
-  Vùng Thương mãi  Tự do Quảng Châu
-    Vùng phát triễn   kinh tế và kỷ thuật  Nam Sa – nansha, Quảng Châu
-  Vùng Nghĩ Dưỡng – Resort ( Quan điểm Tàu )  khu du lịch Hồ nam – Nanhu , Quảng Châu
-  Vùng   Mới và Phát triễn Cao Kỷ   Quảng Châu
-  Vùng phát triễn  kỷ thuật và   kinh tế  Huy Châu – Huizhou  Đại Diên Văn- Dayawan
-    Vùng phát triễn  Cao Kỷ  Huy Châu -  Trung Khải – Zhongkai
-   Vùng Thương mãi Tự do  Nam Sa - Nansha            
 -   Vùng Thương mãi Tự do Sơn Tú – Shantou
-  Vùng Thương mãi Tự do  Sa Tú Giao ? – shatoujiao
-     Vùng  chế biến xuất khẩu Thẩm Quyến
-   Công viên Công nghệ Cao kỷ Thẩm Quyến
-  Vùng Thương mãi Tự do Diên Thiên ?  -  Yantian
-  Vùng  Phát triễn  kinh tế kỷ thuật ( quan điểm Tàu ) Trương Giang – Zhanjiang
-   Vùng phát triễn   quốc gia   công nghệ cao kỷ  Chu Hải –Zhuhai
- Vùng  Thương mãi Tự do Chu Hải 
-  Vùng phát triễn công nghệ cao kỷ   Đuốc- Torch Trung Sơn – Zhongshan      
        Nhắc lại là năm 2006;   Sài Gòn có hai   công viên  cao kỷ là  Công viên Phần mềm – Software                              Quang Trung và  công viên Cao kỷ SHTP ,  3 khu chế xuất – export processing zones  và 12 công viên công nghệ ; năm 1995  Hà Nội  đã có 9 khu tập trung công nghệ : Minh Khai, Vĩnh Tuy, Thượng Đình , Đông Anh , Cầu Diễn- Nghĩa Đô , Gia Lâm – Yên Viên ,  Trương Định -Đuôi Cá  , Văn Điễn – Pháp Vân , Chèm , Cầu  Bươu    và các khu chế xuất  và khu tập trung kỷ nghệ cao : khu chế xuất   Sóc Sơn,  khu công nghiệp  tập trung Sài Đồng –Gia Lâm, khu công nghiệp tập trung Đông Anh và Phía Nam Cầu Thăng Long   

      Giao thông

       Hệ thống sông Châu   nối kết các vùng Quảng Đông khác nhau về kinh tế và văn hóa.  Thêm vào đó,    một số đường  tàu thủy chuyên chở bờ biển hay Quốc tế  nối  liền hơn 100   hải cảng nhỏ lớn tỉnh .     Các hải cảng lớn  gồm luôn cả hải cảng của Quảng Châu là Hòang phố - Huangpu, Trương Giang-  Zhanjiang   Sơn Tú ( Đầu ? ) - Shantou  đều có tầm quan trọng quốc gia . Chuyên chở đường thủy  chiếm đến   2/5  tổng số hàng hóa  Quảng Đông  , các  đường thủy luôn luôn   được duy trì nhờ đào vét , mở rộng  và làm sạch  dòng .

Trên đường phố Thâm Quyến
    Liên lạc với các tỉnh khác tùy thuộc chánh vào đường bộ.  Quảng Đông đã kiến thiết ra  một trong những mạng lưới   xa lộ tốt đẹp nhất Trung Quốc, chạy dọc theo  các thung lũng sông.  Cả xa lộ lẫn đường xe lữa  liên tỉnh, thường chạy theo hướng  Bắc Nam.  Đường xe lữa khẩn thiết  Bắc Bình  - Quảng Châu   có hai cặp  đường rầy  vào thập niên 1960.  Giữa năm 1990,  một đường xe lữa chánh  Bắc Nam   từ Bắc Bình đến Kowloon  ( Jiu Long ) tại Hồng Kông  được khánh thành .  Ưu tiên thấp bé  đặt cho hướng  Đông Tây  là thiếu  đường  xe lữa  chạy song  song  sông Tây- xi River  và sự kiện là  đường Quảng Châu  - Trương Giang   chỉ mở chạy năm 1963 .   Tuy nhiên,  đường này   nối  với  một đường  khác hòan tất năm 1956   chạy theo hướng  Tây Bắc    đến  Lý Đường - li tang  ở Quảng Tây,   nối tỉnh bằng đường rầy  với tỉnh kế cận  phía tây . Một đường xe lữa mới  nối Quảng Châu  với Sơn Tú  ngang qua Mỹ Châu ( phía Bắc Sơn Tú )  được khánh thành  giữa thập niên 1990    kéo dài  phía Đông  đến tỉnh Phúc Kiến  năm 2000.  Cọng thêm là một số  xa lộ cao tốc đã xây cất để nối  các thành phố lớn  Quảng Đông  và Hồng Kông , Ma Cao với các tỉnh láng giềng  , ngọai trừ tỉnh đảo Hải Nam.
    Quảng Đông cung cấp một nối kết  thiết yếu cho các đường  hàng không  dân sự nội địa và quốc tế.   Dịch vụ máy bay nối tỉnh  với nhiều thành phố  quốc  tế.  Để giải quyết chuyễn vận máy bay mỗi ngày mỗi gia tăng , phi trường Bái ( Bạch ? ) Vân   Quảng Châu đã được mở rộng và cận đại hóa thêm .

   Những đặc điểm khác của Quảng Đông

   Địa điểm du lịch đáng kể  Quảng Đông là  Núi Đan hạ - Danxia,   Việt Xi’u ? – Yuexiu  ở Quảng Châu , Hồ Sao – Star Lake    Vách đá cheo leo Bảy Sao- Seen Star Crags, núi Đình Hồ - Dinghu , công viên   kỷ niệm Tôn Văn- Sun Yat-sen   Trung Sơn – Zhongshan.   

Nhà lưu niệm Tôn Trung Sơn
   Tổng quát  , bệnh viện , nhà thương tư  và rất nhiều trạm y tế  , kể luôn cả các  trung tâm hộ sinh   đều có tại mức địa phương .  Các bệnh viện trang bị   nhân viên   tốt hơn được duy trì tại mức quận huyện  và tỉnh  .   Giáo dục y tế  đã được mở mang thêm nhiều   và gồm luôn cả   một Viện Đại học Đông Y  Tàu . ( tỉ như   châm cứu và thuốc cây cỏ ).   Nhiều lớp huấn luyện   y khoa thời gian ngắn hạn  được  tổ  chức cho  các nhân viên y tế  biệt phái về nông thôn .  Phát triễn các dịch vụ y khoa , song song  với cải thiện  tổng quát về giáo  dục vệ sinh và y tế đã thành công lọai bỏ nhiều  lọai bệnh thường thấy trước đây như  sốt rét – malaria, sán máng – schistosomiasisgiun chỉ- filariasis .   
   Về giáo dục đáng lưu ý   là tỉnh quan tâm đến   giáo dục các tộc dân thiểu số . Các trường tân lập gồm luôn một đại học  quốc gia tộc dân ( thiểu số ) đã được thiếp lập  tại các cộng đồng thiểu số .   Vài tá tổ chức cao học nằm ở nhiều   thị trấn khác nhau trong tỉnh , đặc biệt ở Quảng Châu    gồm   Viện Đại Học Tôn Dật Tiên  ( thiết lập năm 1924 ),  Viện KỹThuật Nam Trung Quốc  ( 1952 ) và Viện Đông Y Tàu  Quảng Châu ( 1956 ) …
         
               ( Irvine , Nam Ca Li - Hoa kỳ ngày 17 tháng 10 năm 2015 )



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét