Lạm bàn
phát triển tỉnh Bắc Ninh:
Bắc
Ninh tỉnh lúa nước cổ truyền châu thổ
Sông Hồng, mau chuyển qua tỉnh công nghệ
năm 2015 được không ?
Đôi nam “ liền anh” đầu đội khăn xếp , mặc áo
the dài, quần trắng ống rộng, cất lời :
“ Cổ tay vừa trắng vừa tròn,
Đôi nữ “ liền chị”mặc áo tứ thân nhiễu điều, dây thắt lưng hoa lý buông chùng, tay cầm nón quai thao đáp lại:
“ Ngày ngày ra đứng mà trông,
Bạn thì thấy bạn, tình không thấy tình!
( Lời dân ca Quan Họ, Kinh Bắc xưa – Bắc Ninh
nay )
Vị Trí và lãnh thổ
Bắc Ninh là một tỉnh đẹp đẽ và nổi tiếng thuộc đồng bằng sông Hồng. Chỉ
cách thành phố Hà Nội 30 km, phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông và Đông
Nam giáp tỉnh Hải Dương , phía Tây và Tây Nam giáp thành phố Hà Nội và tỉnh Hưng Yên . Đây là một tỉnh nhỏ,
nằm một phần ở vùng đất trũng thấp và vùng đồi Bắc Bộ.
Diện tích tự nhiên tòan tỉnh là
823.1 km2 , thuộc vĩ tuyến
Bắc 210 5’N và kinh tuyến
Đông 1060 10’ E . Dân số tháng tư năm 1999 là 941 400 người, năm
2004 là 987 400 người và tháng tư năm 2009 là
1 024 200 người. Đây là tỉnh diện
tích nhỏ nhất Việt Nam , nhưng mật độ dân số lại cao nhất nước, trên 1200 người
một cây số vuông. Sở dĩ như vậy, một phần
là do nằm trong khu vực Đồng Bằng
sông Hồng. Đây là nơi con người đã sinh sống và klhai phá từ lâu đời và là một trong những địa bàn cư trú đầu tiên của người Việt cổ. Nơi đây có nhiều điều kiện thuận lợi cho con người
sinh sống; tài nguyên, đất đai, nước, khí hậu khá phong phú là cơ sở để phát triển một nền kinh tế đa dạng. Bắc Ninh nằm
trên đầu mối giao thông, giao điểm của hai quốc lộ huyết mạch miền Bắc là quốc lộ 1A ( Hà Nội-BắcNinh-Bắc Giang-
Lạng Sơn ) và quốc lộ 18 ( Nội Bài- Bắc Ninh- Đông Triều- Hạ Long ).
Bắc Ninh còn nằm trên trục đường sắt
Xuyên Việt Nam Bắc, có mạng lưới sông
ngòi ( 4 sông lớn chảy qua tỉnh là sông
Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình và sông Ngũ Huyện Khê, mật lưới sông trung bình khỏang 0.95 km / km2 ) nối liền với các tỉnh lân cận, và cũng nằm
rất gần sân bay Nội Bài .
Năm 1962, Bắc Ninh và Bắc Giang sáp nhập thành
một tỉnh lấy tên là Hà Bắc, tỉnh lỵ là thị xã Bắc Giang. Năm 1996,
tỉnh Hà Bắc lại tách thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Bắc Ninh được
tái lập với 1 thị xã là tỉnh lỵ Bắc Ninh và 7 huyện là Quế Võ, Yên Phong, Tiên Du, Thuận Thành, Gia
Bình, Lương Tài và Từ Sơn ; gồm 113 xã,
5 phường và 5 thị trấn. Các tộc dân Bắc Ninh gồm Kinh, đông nhất, rồi đến Tày, Nùng
và Mường.
Xuôi dòng thời gian
Nôi Văn Minh
Sông Hồng
Bắc Ninh là một nôi văn hóa đặc
sắc Việt Nam,
trọng tâm của nhiều văn minh lớn và tôn
giáo đất nước. Trước tiên phải kể đến nền văn
minh Sông Hồng Phùng Nguyên – Đồng Dậu- Gò Mun – Đông Sơn . Nhiều di tích
đã được các nhà khảo cổ học nước nhà
phát hiện từ năm 1960, từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến thời đại sắt
sớm trên lưu vực sông Hồng từ thượng
nguồn Hòang Liên Sơn đến vùng đồng bằng
ven biển Hải Phòng, Thái Bình và lưu vực sông Mã. Tương đương niên đại cùng văn
minh Sa Hùynh ở các tỉnh ven biển miền Trung từ đèo Hải Vân đến miền Đông
Nam Bộ, như di tích Long Thạnh ( sơ kỳ
thời đại đồng thau ), di tích Bình Châu ( qua giai đọan trung kỳ đồng thau ),
nở rộ, đạt đỉnh cao thuộc sơ kỳ thời đại
sắt, theo các di tích Gò Ma Vương, Tam
Mỹ, Dầu Giây, Phú Hòa v.v… Niên đại C14 ở Long Thạnh -Phú Hòa cho thấy văn minh
Sa Huỳnh phát triển từ đầu thiên niên kỷ 2 đến 1,2 thế kỷ trước Công
Nguyên. Phần lớn các nhà nghiên cứu cho
rằng văn minh Sa Hùynh đã tiến lên thành
văn minh Champa – Chiêm Thành sau này.
Cổ Loa - Bắc Ninh, thủ đô của nước Âu
Lạc thời vua An Duơng Vuơng Thục Phán còn
lưu giữ dấu vết của con người thời đá cũ
cách đây mấy vạn năm, nhiều di tích của đủ các chặng đường phát sinh và phát triển của thời đại kim khí từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn của nền văn minh sông Hồng rực
rỡ. Ở Cổ Loa, khảo cổ học đã tìm thấy hàng vạn mủi tên đồng, hàng trăm các lọai
lưỡi cày đồng và mấy chiếc trống đồng. Trồng đồng Cổ Loa phát hiện năm 1982
được xếp cùng trống Ngọc Lũ, trống Hòang
Hạ thành bộ ba trống đồng to và đẹp nhất
hiện nay trong dòng trống đồng Đông Sơn. Như vậy Cổ Loa không chỉ là một trung tâm
chánh trị, quân sự, một trung tâm lúa
nước mà còn là một trung tâm luyện
kim lớn thời Cổ đại .
Một góc thành Cổ Loa xưa |
Trống đồng Cổ Loa |
Thời vua Hùng: Các
huyền thọai Kinh Dương Vương , Con Rồng
( Lạc Long Quân) cháu Tiên ( Âu Cơ )
Rất nhiều huyền thọai Bắc Ninh
vẫn còn trong trí óc của dân Việt, tỉ như
Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng , Mỵ Châu và Trọng
Thủy.
Từ thuở xa xưa, Kinh Dương Vương cầm đầu nước Xích Quỷ, lấy con gái của Thần hồ Động Đình, thuộc nòi rồng tên là Long Nữ. Hai người sinh được con trai là Sùng Lâm , lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân có thân hình rồng, tính ưa ở nước, có sức khỏe phi thường và nhiều tài biến hóa . Nối nghiệp cha, Lạc Long Quân cai quản Đất Lạc Việt, thuộc miền Lĩnh Nam. Lúc ấy ở biển Đông Nam bây giờ là đất tỉnh Quảng Đông ( Trung Quốc ) và miền Bắc Bộ nước ta, có một con cá rất dữ tợn, sống lâu đời thành tinh, dân chài gọi là Ngư Tinh. Thân dài hơn 50 trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng 10 người một lúc. Chỗ ở của Ngư Tinh là một hang lớn, trên hang là một dãy núi cao ngăn miền duyên hải làm thành 2 vùng. Ngư Tinh lấy đá lấp ngang làm cho eo biển hẹp đi, gây khó khăn cho thuyền bè đi lại. Lạc Long Quân liền cho đóng một thuyền lớn, rèn một khối sắt nung đỏ tiến đến hang Ngư Tinh. Khi con quái vật há miệng, Lạc Long Quân ném khối sắt lữa vào miệng nó. Ngư Tinh không chống nổi bị chém làm 3 khúc. Khúc đầu nó hóa thành con chó biển , bị Lạc Long quân đuổi theo chém chết ném lên một ngọn núi, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Khúc giữa trôi ra xứ Mạn Cầu , nay gọi là Cẩu Đầu Thủy. Khúc đuôi bị Lạc Long Quân lột da đem phủ lên một hòn đảo giữa biển, bây giờ là hòn đảo Bạch Long Vĩ . Trừ xong Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến miền Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi, hay hóa thành người, thành vật, trà trộn trong đám đông, gieo rắc bệnh họan, hảm hiếp phụ nữ. Lạc Long Quân đến sào huyệt, đánh nhau với hồ tinh, cuối cùng giết được cáo. Rồi cho chảy nước sông Cái làm ngập hang nó. Nước xóay mạnh , đánh băng núi đá đi mất tích, còn lại một cái hồ, sau gọi là Đầm Xác Cáo , Hồ Tây ngày nay. Diệt trừ được các lòai yêu quái, Lạc Long Quân lo cho dân cư an cơ lạc nghiệp, bày cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn và xây dựng lâu đài, cung điện ở đất, không về với mẹ ở dưới thủy cung. Lúc bấy giờ ở phương Bắc có thần Đế Lai đem quân tràn xuống, cùng đi với con gái là nàng Âu Cơ cho dựng thành, đắp lũy, định ở lâu dài trên đất Lĩnh Nam. Lạc Long Quân đem quân về đánh, biến thành một chàng trai đẹp đẽ, khỏe mạnh đến trước cửa thành của Đế Lai gảy đàn và hát chọc ghẹo. Hai người yêu nhau và Âu Cơ theo về cung điện chồng. Đế Lai mất con đi tìm. Quân lính bị nhiều ác thú Lạc Long Quân sai ra chặn đường, xé xác. Ngày một ngày hai, lực lượng Đế Lai hao tổn nặng, phải thu quân về Bắc. Lạc Long Quân và Âu Cơ lấy nhau sinh được một cái bọc. Quá 7 ngày, bọc nở ra một trăm cái trứng, mỗi cái trứng nở thành một người con trai. Lạc Long Quân hay về dưới quê mẹ nơi thủy cung. Âu Cơ ở nhà cùng đàn con, có lúc định đưa con về phương Bắc, nhưng bên ấy Đế Lai đã bị một ông vua khác đánh đuổi, đành cùng con giữ gìn đất Lạc. Nhưng sau họ cũng chia tay: 50 người theo Âu Cơ lên núi, 50 người theo Lạc Long Quân xuống biển. Thành Tổ tiên người Bách Việt. Người con truởng ở lại Phong Châu thành vua Hùng của nước Văn Lang . Dân Việt Nam tự nhận là nòi giống Rồng Tiên, tôn vua Hùng làm thủy Tổ chính là do sự tích này.
Từ thuở xa xưa, Kinh Dương Vương cầm đầu nước Xích Quỷ, lấy con gái của Thần hồ Động Đình, thuộc nòi rồng tên là Long Nữ. Hai người sinh được con trai là Sùng Lâm , lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân có thân hình rồng, tính ưa ở nước, có sức khỏe phi thường và nhiều tài biến hóa . Nối nghiệp cha, Lạc Long Quân cai quản Đất Lạc Việt, thuộc miền Lĩnh Nam. Lúc ấy ở biển Đông Nam bây giờ là đất tỉnh Quảng Đông ( Trung Quốc ) và miền Bắc Bộ nước ta, có một con cá rất dữ tợn, sống lâu đời thành tinh, dân chài gọi là Ngư Tinh. Thân dài hơn 50 trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng 10 người một lúc. Chỗ ở của Ngư Tinh là một hang lớn, trên hang là một dãy núi cao ngăn miền duyên hải làm thành 2 vùng. Ngư Tinh lấy đá lấp ngang làm cho eo biển hẹp đi, gây khó khăn cho thuyền bè đi lại. Lạc Long Quân liền cho đóng một thuyền lớn, rèn một khối sắt nung đỏ tiến đến hang Ngư Tinh. Khi con quái vật há miệng, Lạc Long Quân ném khối sắt lữa vào miệng nó. Ngư Tinh không chống nổi bị chém làm 3 khúc. Khúc đầu nó hóa thành con chó biển , bị Lạc Long quân đuổi theo chém chết ném lên một ngọn núi, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Khúc giữa trôi ra xứ Mạn Cầu , nay gọi là Cẩu Đầu Thủy. Khúc đuôi bị Lạc Long Quân lột da đem phủ lên một hòn đảo giữa biển, bây giờ là hòn đảo Bạch Long Vĩ . Trừ xong Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến miền Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi, hay hóa thành người, thành vật, trà trộn trong đám đông, gieo rắc bệnh họan, hảm hiếp phụ nữ. Lạc Long Quân đến sào huyệt, đánh nhau với hồ tinh, cuối cùng giết được cáo. Rồi cho chảy nước sông Cái làm ngập hang nó. Nước xóay mạnh , đánh băng núi đá đi mất tích, còn lại một cái hồ, sau gọi là Đầm Xác Cáo , Hồ Tây ngày nay. Diệt trừ được các lòai yêu quái, Lạc Long Quân lo cho dân cư an cơ lạc nghiệp, bày cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn và xây dựng lâu đài, cung điện ở đất, không về với mẹ ở dưới thủy cung. Lúc bấy giờ ở phương Bắc có thần Đế Lai đem quân tràn xuống, cùng đi với con gái là nàng Âu Cơ cho dựng thành, đắp lũy, định ở lâu dài trên đất Lĩnh Nam. Lạc Long Quân đem quân về đánh, biến thành một chàng trai đẹp đẽ, khỏe mạnh đến trước cửa thành của Đế Lai gảy đàn và hát chọc ghẹo. Hai người yêu nhau và Âu Cơ theo về cung điện chồng. Đế Lai mất con đi tìm. Quân lính bị nhiều ác thú Lạc Long Quân sai ra chặn đường, xé xác. Ngày một ngày hai, lực lượng Đế Lai hao tổn nặng, phải thu quân về Bắc. Lạc Long Quân và Âu Cơ lấy nhau sinh được một cái bọc. Quá 7 ngày, bọc nở ra một trăm cái trứng, mỗi cái trứng nở thành một người con trai. Lạc Long Quân hay về dưới quê mẹ nơi thủy cung. Âu Cơ ở nhà cùng đàn con, có lúc định đưa con về phương Bắc, nhưng bên ấy Đế Lai đã bị một ông vua khác đánh đuổi, đành cùng con giữ gìn đất Lạc. Nhưng sau họ cũng chia tay: 50 người theo Âu Cơ lên núi, 50 người theo Lạc Long Quân xuống biển. Thành Tổ tiên người Bách Việt. Người con truởng ở lại Phong Châu thành vua Hùng của nước Văn Lang . Dân Việt Nam tự nhận là nòi giống Rồng Tiên, tôn vua Hùng làm thủy Tổ chính là do sự tích này.
Thánh Gióng (Dóng), Sơn Tinh – Thủy
Tinh , Mỵ Châu – Trong Thủy, dân gian
hình dung, chống bảo lut, gìn giữ, phát triển đất nước và cuối cùng mất nước (chiếu theo chuyện kể của Hoàng Khôi )
Phù Đổng Thiên Vương |
Đời Hùng Vương thứ 16 ở làng Đổng,
có một bà già không chồng. Một ngày ra vườn, thấy một vết chân người to lớn, bà
ướm thử bàn chân mình và từ đó có thai; sau 12 tháng sinh được một cậu bé đặt tên là Dóng. Lên ba rồi mà Dóng vẫn không biết đi và chẳng nói, chẳng
cười. Khi giặc Ân sang cướp phá, nghe sứ giả cầu hiền, Dóng tự nhiên ngồi nhổm
dậy, nói với sứ giả: xin đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt,
một nón sắt và một roi sắt, ta sẽ đi dẹp giặc. Các đồ roi, ngựa giáp sắt đúc đến 3 lần mới vừa sức Dóng. Thiết
bị đầy đủ, dân làng bày tiệc có 7 nong
cơm, tiễn chân Dóng. Dóng ăn lóang một cái đã xong 3 nong phần mình. Vươn vai
đứng dậy, Dóng thành người khổng lồ, đội nón cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngưa
phi như bay, thét ra lữa. Ngựa Dóng đi tới đâu, lữa cháy rực trời đến đó. Giặc
bị chết cháy, chết chém. Vua Ân cũng bị bỏ
mạng giữa trận tiền. Dóng đuổi theo đến chân núi Sóc Sơn thì giặc không còn một mống. Đến núi Sóc, Dóng cởi giáp và treo nón lên một cành cây, cúi xuống uống một hơi cạn cả
giếng nước cạnh đường. Rồi cả người cả ngựa
bay thẳng lên trời. Nhà vua biết
ơn thần tướng, sai lập đền thờ, tôn Dóng
là Phù Đỗng Thiên Vương .
Trận chiến Sơn Tinh Thủy Tinh |
Giặc ngồi sau lưng nhà vua đó! |
Huyền Thọai Nỏ Thần Mỵ châu- Trọng Thủy ở quê hương truyền thuyết là -kinh đô Cổ Loa, An ( ? ) Dương Vương Thục Phán, thay vua Hùng lên ngôi , dời từ vùng Bạch Hạc – Việt Trì xuống- bị Triệu Đà, gửi con là Trọng Thủy sang đấy làm rể ( lấy con gái Thục Phán là Mỵ Châu ) – làm con tin 3 năm do thám, điều tra tình hình, rồi trốn về nước, báo vua cha xuất quân đánh chiếm Cổ Loa và Âu Lạc năm 179 trước Công Nguyên. Đánh dấu ngàn năm giặc Tàu đô hộ, một chặng đường bi tráng lịch sử Việt Nam cổ đại.
Từ trận Bạch Đằng Giang đến trận Như Nguyệt , Tuyên ngôn Độc Lập đầu tiên đọc ở bờ sông Cầu
Ngô Quyền và Bạch Đằng giang |
Trận thắng lớn trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938, đánh tan ý đồ xâm lăng của vua tôi Nam Hán, ghi dấu một cơ sở cho việc khôi phục quốc thông, một cái mốc mở ra nền Độc Lập – Tự Chủ của dân tộc. Trận Như Nguyệt thắng các đạo quân xâm lăng nhà Tống; đêm tháng 3 năm 1077, Lý Thường Kiệt đem 400 chiến thuyền của quân ta ngược dòng sông Như Nguyệt , (sông Cầu tỉnh Bắc Ninh ) bất ngờ đánh vào cụm quân Quách Quỳ từ hướng Đông, rồi nắm đại quân vượt sông đánh thẳng vào cụm quân Triệu Tiết. Quách Quỳ cuối cùng phải phá vòng vây chạy về phía Bắc, lại bị quân của phò mã Thân Cảnh Phúc chặn ở Chi Lăng, bị truy kích mạnh, đại bộ phận bị tiêu diệt, buộc lòng phải rút hết quân về nước Tàu .
Bắc Ninh cũng là nơi sinh quán ở
làng Cổ Pháp ( nay là làng Đình Bảng,
huyện Từ Sơn-Bắc Ninh ) của Lý Công Uẩn,
vị vua đầu tiên Lý Thái Tổ ( 974- 1028 ) triều đại nhà Lý ( 1010- 1225 ) , truyền ngôi được 8
đời, lập ra “văn minh Đại Việt”, con
tinh thần của những vị cao tăng xuất sắc
như nhà sư Vạn Hạnh, nhà sư Lý Khánh Văn chùa Ứng Tâm còn có tên là chùa
Dặn …
của trung tâm kinh tế văn hóa Lục Tổ- Cổ Pháp thế kỷ thứ 10,
chiếu theo giáo sư sử học Trần Quốc Vượng.
Sau thắng trận Như Nguyệt năm 1077, bài thơ của danh tướng Lý Thường
Kiệt “
Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư” nhiều người xem đó là bản Tuyên Ngôn Việt Nam độc lập đầu tiên, được đọc
trên bờ sông Cầu.
Từ trấn Kinh Bắc qua trấn Bắc Ninh, rồi tỉnh Bắc Ninh, sáp
nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, rồi trở lại tỉnh Bắc Ninh hiện nay
.
Trấn Kinh Bắc được thành lập thời
vua Lê Thánh Tông năm 1469. Năm 1822, vua Minh Mạng đổi trấn Kinh Bắc ( phía Bắc kinh đô ) thành trấn Bắc Ninh ( an
ninh phía Bắc ? ). Năm 1831, trấn Bắc
Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Từ những
năm đầu thế 20 đến cuộc Cách Mạng tháng
8 năm 1945, địa lý hành chánh Bắc Ninh ít thay đổi. Bắc Ninh lúc đó gồm 2 phủ ( phủ là huyện lớn nay cấp này đã bị bỏ
), 8 huyện, 78 tổng ( cấp này nay cũng đã bỏ ) và 599 xã. Như đã nói trên, năm 1962, Bắc Ninh và Bắc
Giang sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc. Năm 1996
Hà Bắc tách thành 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang .
Địa hình , đất đai
Địa hình
Bắc Ninh chủ yếu là đồng bằng châu thổ
được phù sa của sông Đuống và sông Thái Bình bồi đắp. Tác động các quá trình địa mạo và họat động
kinh tế của con người tạo ra các
dạng đồng bằng sau đây :
- Đồng bằng tích tụ xâm thực đồi sót ở Yên Phong, Quế Võ
với độ cao 100-200m, có các đồi bào mòn xâm thực hình thành các thềm phù sa cổ cao 10-20m .
- Đồng bằng tích tụ xâm thực phù sa ở các huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận
Thành, Gia Bình, Lương Tài. Ở đây không
có đồi sót, chỉ có phù sa sông Hồng, sông Thái Bình mới bồi tụ, phủ trên lớp trầm tích biển. Hiện
nay là vùng đất phù sa trong đê, nên không còn được bù đắp nữa .
- Ở một số xã thuộc huyện Thuận Thành, nơi giáp
ranh với thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, có một vài nơi là đồng bằng tích
tụ trên nền địa chất phù sa mới của sông Hồng, nhưng do
đê ngăn không còn được bù đắp hằng năm
nữa .
Đất
đai phân chia ra: ( phần này chiếu theo Thái Công Tụng )
-
Đất xám bạc màu trên phù sa cổ - Haplic Acrisols ở các
huyện Yên Phong - Quế Võ , hình thành gắn liền với qúa trình sử dụng và canh
tác lúa nước, qúa trình rửa trôi và bào mòn.
Cấu trúc phẩu diện đất bạc
màu phân tầng rỏ rệt theo màu sắc, trong
phẩu diện xuất hiện loang lổ đỏ vàng xen lẫn các ổ kaolin trắng. Hàm lượng hửu
cơ ( mùn ) các chất dinh dưỡng: lân, đạm, ka li
nghèo nàn - thấp. Năng xuất cây trồng cũng thường rất thấp. Vài nơi có hiện
tượng gley- hóa thành đất chua- acid,
nghèo hửu cơ, các dưỡng liệu.
- Đất phù sa được xám gley – Gleyish
Acrisols, Low –humic gleysoils, gặp
ở độ cao trên 10m, địa hình bậc thang thấp vùng gò đồi, bồi hằng năm- Eutric Fluvisols,
ởcác vùng ngòai đê sông Đuống, sông Thái Bình, dọc theo sông Cầu. Đây
là lọai đất phù sa trung tính nhiều
dưỡng liệu, độ phì nhiêu khá cao, làm
được nhiều vụ lúa mỗi năm.
- Đất phù sa không được bồi hằng năm ở Tiên Du, Từ Sơn, Thuận
Thành, Gia Bình, Lương Tài. Hàm lượng hửu cơ trung bình, dưỡng liệu từ trung
bình đến khá cao, ít chua. Tuy nhiên ở
địa hình chiêm trũng, ngập nước gần quanh năm có hiện tượng gley hóa, biến thành đất Gley – Dystric Gleysols,
hay đất Gley chua, có phản ứng rất acid ở tầng đất mặt, khả năng hấp thu kém,
nghèo dưỡng liệu. Quá trình gley hóa này
ở những nơi quá yếm khí, nhiều hửu cơ có thể tạo ra “đất phèn” . Bắc Ninh, năm
2000, ước lượng còn 5000 ha đất trũng
thuộc các huyện Gia Bình, Quế Võ và Yên Phong;
chỉ mới làm ruộng được hai vụ mà
thôi, cố gắng lắm mới làm đến 2.5 vụ một
năm.
Thủy Văn , khí hậu
Sông
Cầu nước chảy lơ thơ
Đôi
ta thương nhớ bao giờ cho nguôi .
( Ca Dao )
…Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
… Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà
lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp….
…
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy
trăm năm thấp thóang mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên
Thai
Trong chùa Bút Tháp .
Giữa huyện Lang Tài
Gửi
về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở
đâu ? …
( Hoàng Cầm 1922 - 2010 )
Như đã nói trên, Bắc Ninh có 4 sông lớn chảy qua là sông Đuống, sông
Cầu, sông Thái Bình và sông Ngũ Huyện Khê.
Sông Đuống dài 65 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình, đoạn qua Bắc
Ninh từ Đình Tổ ( Thuận Thành ) đến Cao Đức ( Gia Bình ) dài 42 Km. Sông Cầu dài 290 km, đọan chảy qua địa phận Bắc
Ninh từ
Tam Giang ( Yên Phong ) đến Đức Long ( Quế Võ ) dài 69km. Sông Thái Bình dài 63 Km, đọan chảy
qua Bắc Ninh từ Đức Long đến Cao Đức dài
16km. Sông Ngũ Huyện Khê chảy qua Bắc Ninh 24 km, từ Châu Khê đến Vạn Yên ( Yên
Phong ). Dòng chảy sông ngòi phân phối
thành hai mùa rỏ rệt. Mùa lũ từ tháng 6
đến tháng 10; các tháng lũ lớn nhất là
6, 7 và 9; cực đại vào tháng 8 (
như đã nói ở huyền thọai Sơn Tinh – Thủy Tinh ). Lượng dòng chảy mùa lũ chiếm 70-85 % lượng dòng chảy cả năm. Mùa cạn từ tháng 10
đến tháng 5; cực tiểu vào tháng 2, tháng 3. Các sông Bắc Ninh là nguồn lợi về thủy sản, nguồn nước tưới cho đồng ruộng và là các tuyến giao thông
đường thủy tỉnh nhà.
Ba con sông ( sông Cầu, sông Đuống và sông
Thái Bình ) chảy qua Bắc Ninh tạo ra một mạng lưới đường thủy, có thể nối liền
Bắc Ninh với các tỉnh khác. Tổng chiều
dài đường thủy là 127km; có 2 cảng trong
đó cảng Thị Cầu năng lực năm 1999 chỉ mới đến 200 000 tấn .
Bắc Ninh thuộc đới khí hậu gió mùa chí tuyến, á đới có mùa đông lạnh và
khô rõ rệt. Lượng bức xạ phong phú ,
tổng xạ cao 100- 120 kcal / cm2 / năm. Vì thế Bắc Ninh có nền nhiệt độ cao, tổng nhiệt
độ trên 75000 C. Hòan lưu khí
quyển gồm : - gió mùa mùa đông có không khí cực đới từ Xibêria đến theo
hướng đông bắc làm mùa đông Bắc
Ninh lạnh khô rỏ rệt- và gió mùa mùa hè là gió mùa tây nam hội tụ với tín phong bắc
bán cầu, gây ra mưa lớn. Xen kẻ
với gió mùa còn có tín phong
đế từ áp xuất cao Tây Thái Bình Dương và từ khối
chí tuyến Đông Nam Á . Nhiệt độ trung bình cả năm là 21 – 230C,
cao nhất vào tháng 7 tới 29.2 0C,
thấp nhất vào tháng giêng 150C. Mùa đông lạnh khô, tòan tỉnh
có 3 tháng nhiệt độ dưới 180 C. Lượng mưa trung bình trong năm là
1800mm. Số giờ nắng khoảng 1700- 1800 giờ /năm , nên rất thích hợp cho cây trồng.
Thắng cảnh, danh nhân tỉnh nhà
Ngòai di
tích Cổ Loa, phải kể đến :
Đền Đô |
* Đình Đình Bảng , cách Hà nội 20km. Theo kiến trúc sư Đặng Thái Hòang, đây là một trung tâm kiến trúc lớn với vô số các điểm di tích ghi trên bản đồ, trong đó có ngôi đình Đình Bảng nổi tiếng đất Kinh Bắc, ca dao xưa từng ca ngợi
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Đình Bảng với anh thì về …
Bên ngòai Đình Bảng |
Đình làng Đình Bảng do ông Nguyễn Thác Lượng cùng vợ là bà Nguyễn thị Nguyên hiến gỗ đứng ra tạo dựng, dân gian và thợ trong vùng góp công, góp sức 36 năm sau ngày khởi công ( 1700- 1736 ) ngôi đình mới hòan thành. Đình Bảng thờ thần Cao Sơn ( Thổ thần), Bạch Lễ ( thần Ngày mùa ), Thủy Bá ( thần Nước ), sau đó thờ thêm vợ chồng Nguyễn Thác Lượng. Đinh gồm tòa Đại Đình đồ sộ nối với Hậu Cung ở phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Tòa Đại đình dài 20m , rộng 14m cao 8m phần mái rủ xuống đẹp đẽ đã chiếm tới 5.5m. Vẽ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở sự tỏa rộng trong không gian của mái đình, sự đồ sộ của những đầu đao, khả năng thích nghi với khí hậu của công trình ( kiểu nhà sàn, của bức bàn chống mưa, nắng ) và sự sung mãn về trang trí điêu khắc. Những cây gỗ lim ở đây to hiếm thấy, đường kính 0.65m đối với cột lớn và 0.55m đối với cột con. Trang trí, điêu khắc nội thất đình Đình Bảng với những đường uốn lượn tài tình, khi bay bổng mạnh mẽ khi lan tỏa nhịp nhàng, thể hiện cụ thể ở các vì nóc, cốn, cữa võng gây cho người xem một cường độ xúc cảm mạnh mẽ, là một điểm trội đáng ca ngợi nhất của ngôi đình. Hình khối tổng thể của kiến trúc ngôi đình nói chung đơn giản, giàu sức khái quát, nhưng chi tiết trần thiết lại phức tạp, đó cũng chính là một trong những nguyên lý nghệ thuật đưa công trình tới chỗ thành công.
bên trong Đình Bảng |
* Chùa Dâu ở thôn Khương Tự ( còn gọi là
làng Dâu ), xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, cách Hà Nội 30km. Chùa được dựng vào thế kỷ thứ 2 hay đầu thế kỷ thứ 3 và trở thành
Trung tâm Phật Giáo thời bấy giờ. Đây
là chùa đền xây dựng đầu tiên ở Việt Nam. Chùa được
Mạc Đĩnh Chi tái dựng và nới rộng
vào thế kỷ thứ 14, trùng tu lại nhiều lần ở thế kỷ thứ 15. Hiện nay trên sân
chùa có Tháp Hòa Phong, ba tầng cao 17m. Trong tháp, Vua Minh Mạng năm 1817 đã cho đúc
một thạp chiêng- gong đồng thau lớn, tiếp theo chuông đồng lớn kiểu thời Cảnh Thịnh ( 1793 ). Từ thế kỷ thứ
nhất sau Công nguyên, vùng Thanh Khương
đã lừng danh Phật Giáo trong nước và ngọai quốc. Trong Phật điện chính có pho tượng nữ thần Pháp Vân ( nữ thần Mây ) ngồi trên tòa sen, cho nên chùa còn có tên là Pháp Vân tự . Ngòai ra còn có tượng Kim Đồng,
Ngọc Nữ.
* Chùa
Phật Tích được khởi dựng vào khỏang
thế kỷ 11 ở sườn núi Phật Tích, xã Phật Tích , huyện Tiên Du
Chùa Bút Tháp |
Tượng Phật ngàn tay bên trong Chùa Bút Tháp |
Ngòai ra còn có đình Cổ Mễ , đình Đông Hồ ( còn gọi là đình Tranh, thuộc
làng Đông Hồ, huyện Thuận Thành) nơi chợ
Tranh họp vào dịp tết Nguyên đán, khách xa gần nô nức về mua tranh và nơi tổ
chức hội thi đồ mã phản ảnh một nét đặc thù họat động kinh tế và văn hóa người
dân làng Đông Hồ .
Tranh Đông Hồ |
Di tích lịch sử Bắc Ninh thường nói đến di tích phòng tuyến sông Như Nguyệt thuộc thôn Thọ Đức,Tam Đa, huyện Yên
Phong. Tại Thọ Đức, Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng nhiều trại quân lớn, hiện
còn dấu tích trong lòng đất: trại Chinh,
trại Chùa, trại Quýt, trại Mái Ấm, trên khu vực bãi Miễu, Lý Thường Kiệt cho
xây dựng một phòng tuyến lớn chặn giặc ở cửa sông Thọ Đức. Xung Quanh là các
khu hậu cần: kho Dốc Gạo kho Cung ở gò
Cung, kho Gươm ở gò Guơm. Di tích Núi
Dinh còn có tên là núi Thanh hay núi Pháo Đài, nằm trên đất của hai phường
Thị Cầu và Đáp Cầu.
Danh nhân Bắc
Ninh là Lý Vạn Hạnh, Lý công Uẩn, Lý Nhân
Tông và Nguyên Phi Ỷ Lan…. đã được nhiều người đề cập đến nên không bàn
thêm ở đây nữa. Trên phương diện văn hóa,
văn học, Bắc Ninh là một tỉnh hiếu học từ
ngàn xưa, có nhiều người đổ hòang
giáp tiến sĩ (đệ nhị giáp, tiến sĩ xuất thân), tam khôi ( đệ nhất giáp hay tiến
sĩ cập đệ ): trạng nguyên , bảng nhãn, thám hoa … Trong 800 năm
lịch sử các kỳ thi hội, thi đình
Việt Nam thời xưa, Bắc Ninh có hơn
600 tiến sĩ và 17 trạng nguyên, chiếm 1/3 tiến sĩ và trạng nguyên cả nước. Trong số
trạng nguyên xứ Kinh Bắc như Nguyễn Quan Quang (đổ trạng năm 1232), Lý Đạo
Tái ( đổ trạng năm 1272 ), Nguyễn Nghiêu
Tư ( đổ trạng năm 1446 ), Vũ Kiệt ( đổ trạng năm 1473 ), Nguyễn Quang Bật ( đổ
trạng năm 1484 ), Nghiêm Hỏang ( đổ trạng năm 1496 ), Nguyễn Giang Thanh ( đổ
trạng năm 1508 ), Ngô Miên Thiều ( đổ trạng năm 1518 ), Nguyễn Lượng Thái ( đổ
trạng năm 1553 ), Phạm Quang Tiến ( đổ trạng năm 1565 ), Vũ Giới ( đổ trạng năm
1577), Nguyễn Xuân Chính ( đổ trạng năm
1637 ), Đặng Công Chất ( đổ trạng
năm 1661 )… đáng lưu ý thêm là Lý Đạo
Tái ( 1254- 1334 ) làng Vạn Tài, huyện Thuận Thành. Lý Đạo Tái làm quan
ở Đông Các Viện Hàn Lâm, nhưng bỏ đi tu ở chùa Quỳnh Lâm ( Hải Dương ),
được sư Pháp Loa và Trần Nhân Tông ( tổ thứ nhất phái Phật Trúc Lâm) rất trọng. Năm 1371, Pháp Loa ( vị tổ sư thứ 2 ) đem y bát của Điều ngự giác hòang ( tổ thứ nhất ) truyền cho. Sau Lý Đạo Tái lên
tu ở núi Yên Tử làm vị tổ thứ 3 của phái
Phật Trúc Lâm, với đạo hiệu Huyền Quang
tôn giả. Huyền Quang tôn giả giỏi thơ
văn. Hiện còn tác phẩm Trần Triều thế
phả hành trạng .
Trong số các nhà văn Bắc Ninh phải kể
đến Ngô
Tất Tố (1894-1954), con một nhà nho nghèo làng Lộc Hà , huyện Từ Sơn là một
nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu Hán học. Lớn lên trong lúc Nho học suy tàn, Ngô Tất Tố đã “ bỏ bút lông, cầm bút sắt”, viết báo ,
viết văn. Sáng tác văn xuôi của ông là các tiểu thuyết “ Lều
chỏng”, “ Việc Làng “ , phóng sự
“ Việc Làng”. Các sách nghiên cứu lịch sử và văn hóa là: “
Vua Hàm Nghi và việc kinh thành thất thủ”, Phê bình cuốn “Nho giáo của Trần Trọng Kim” , “ Lảo Tử” , “Mặc Tử” v.v… Các tác phẩm
sau Cách Mạng tháng 8 là vở chèo Bùi Thị
Phát , các bút ký Phiên Chợ Trung Du , Quà Tết Bộ Đội ….Ngô Tất Tố còn là một
nhà chính luận xuất sắc, có uy tín, mang tư tưởng dân tộc - quốc gia và xã hội
cấp tiến.
Phần II :
Lạm
bàn phát triển tỉnh Bắc Ninh
Khái niệm một quốc gia công nghệ
Năm 1996, Việt Nam đã tự cho là đang
ở giai đọan ” cất cánh phát triễn kinh tế”
khi Tổng Giá trị Sản phẩm Nội địa - Gross Domestic Products (GDP) đạt khỏang trên 200 đô la Mỹ ( USD ) mỗi
người ( vào năm 1990 ), tuy rằng đến
năm 2000 dự kiến cũng chỉ dưới 600 USD,
theo cách xếp hạng của Ngân hàng Thế giới vẫn thuộc nhóm các nước có thu nhập thấp kém. Dự kiến đến năm 2020, GDP
trên mỗi người sẽ đạt trên 2000 USD , chỉ mới tương đương mức quân bình của
các Nước Công nghiệp Mới – Newly Industrializing Country ( NIC ) ở giữa thập niên 1980, nằm trong
số các nước có mức thu nhập trung bình, mặc dầu vẫn còn dưới mức quân bình GDP/ người tòan thể thế giới. Và đến năm
2020, Việt Nam sẽ có cơ cấu kinh tế căn bản của một nước công nghiệp. Nhắc lại là một nước muốn được xem là NIC phải có GDP xấp xĩ bình quân tòan thế giới,
thu hút tập trung vốn đầu tư của các tổ
chức đa quốc gia, tiến tới có sản phẩm
công nghiệp chế biến hiện đại xuất khẩu với qui mô lớn, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cao 8-10%
hàng năm và liên tục nhiều năm,
tỉ trọng dân cư đô thị vượt trên 50 %
dân số cả nước v.v … Tăng trưởng GDP
bình quân trong 5 năm 1990-95 là 8.2%, năm 1995
trên 9% , tương đương mức tăng
trưởng các nước mạnh Đông Nam Á ( Singapore 9%,
Thái Lan 8.5%, Malaysia 9.3 % ).
Sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận và Việt Nam tham gia ASEAN, đầu tư nước ngòai vào
Việt Nam cuối năm 1995 tăng gần gấp đôi, so với số đầu tư giai đọan
1988- 1994 , nâng tổng số vốn đầu tư của
nước ngòai vào Việt Nam lên trên 18 tỉ USD . Cơ cấu kinh tế trong nước bắt
đầu chuyễn biến theo hướng công nghiệp hóa; tỉ trọng các ngành công thương nghiệp dịch vụ
tăng lên. Tỉ trọng nông nghiệp ở GDP giảm dần từ 39,5% năm 1991 xuống 28.7% năm 1994. Công nghiệp
chiếm tỉ trọng 29.5 % , dịch vụ là số còn lại. Dự kiến năm 2000, nông lâm ngư
nghiệp sẽ chỉ còn 19- 20 % ; công nghiệp và xây cất căn bản tăng lên đến 34- 35
% và dịch vụ tăng lên đến 45 – 46 % .
Theo Dự án Trung Ương - Hà Nội năm 1982, phân chia phát triễn kinh tế Việt
Nam thành 5 vùng kinh tế lớn. Bắc Ninh thuộc Vùng
I là Vùng Đông Bắc Bắc Bộ gồm 10 tỉnh : Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao
Bằng, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình
và thành phố Hải Phòng. Trung tâm Vùng I là Hải Phòng. Vùng I có diện tích
là 40 000 km2 , dân số năm
1999 là 14 triệu. Tài nguyên chánh là than, sắt, kim lọai màu , đá vôi, kaolin-
caolanh, khí dầu, lâm sản, hải sản , cảng quan du lịch, nghĩ mát. Nông
nghiệp vùng I có sản lượng lương thực
bình quân cao trên trung bình cả nước và chiếm
80% sản lượng đay , 30% sản lượng cói,
1/3 sản lượng rau quả và gia súc cả nước… Bắc Ninh của Vùng I là một tỉnh nghèo về tài nguyên khóang sản . Các
khóang sản chủ yếu là phi khóang ( vật liệu xây dựng) như đất sét làm gạch ngói, gốm với trử lượng
không lớn - khỏang 4 triệu tấn - ở Quế Võ , Tiên Du và thị xã
Bắc Ninh, đá cát kết trử lượng khỏang 1 triệu tấn ở Thị
Cầu – Bắc Ninh, đá sa thạch
ở Vũ Ninh – Bắc Ninh, trử lượng 3 triệu
m3, than bùn ở Yên Phong trử lượng
khỏang 60 – 200 000 tấn. Vì vậy cho nên chuyễn dịch qua hướng công nghệ
xây cất Bắc Ninh từ năm 1995 đến
năm 2000
có phần chậm trễ , khu vực nông nghiệp
năm 1999 vẫn còn chiếm 35. 9% GDP
tỉnh nhà , tuy cũng đã giảm xuống từ
51.55 % năm 1995. Trong công nghiệp, chỉ có
xây dựng tăng khá nhanh từ 8.0 % năm 1995 lên 29.5 % năm
1999. Dịch vụ cũng tăng khá chậm
từ 27.6 năm 1995 và 29.0% năm 1996,
lên 31.15% năm 1998 và 34.6 %
năm 1999. Năm 1999 về qui mô GDP, Bắc Ninh đứng thứ 42 , GDP/ người thứ 35, thu
ngân sách thứ 56 trong số 61 tỉnh, thành phố cả nước.
Nhiều cố gắng đáng kể mới đây về
công nghiệp hóa Bắc Ninh
Từ năm 1990 đến năm 2000, nhìn
chung các cơ sở công nghiệp Bắc Ninh có quy mô nhỏ
và tiểu thủ công nghiệp, tuy
phân bố tương đối đều trên tòan tỉnh. Năm 2000, chỉ thiết lập được 2 khu công
nghiệp đáng kể là khu công nghiệp Từ Sơn, thuộc các xã Đồng Nguyên , Hòan Sơn , Nội
Duệ nằm sát Từ Sơn cách Hà Nội 23 km,
giữa quốc lộ 1A cũ và quốc lộ 1B mới,
gần đường sắt đường thủy và sân bay quốc
tế Nội Bài, dự trù phát triễn chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất các sản phẩm
thêu, may mặc, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử, tin học, tự động
hóa ( rôbốt ), sản xuất bao bì, giấy, nhựa, xốp. Khu công nghiệp tập trung Quế Võ thuộc xã Phương Liễu – Vân Dương (
Quế Võ), cách thị xã Bắc Ninh 6km, nằm bên quốc lộ 18 ( Bắc Ninh- Phả Lại
) và gần giao điểm hai quốc lộ 18 và
quốc lộ số 1B mới. Dự trù phát triễn ở
khu Quế Võ một số ngành công nghiệp nặng chế tạo các sản phẩm vật liệu xây dựng
cao cấp, cơ khí, phân bón hóa học, và các ngành công nghiệp vừa và nhỏ phục vụ
nông nghiệp. 5 cụm công nghiệp hình thành ở Bắc Ninh năm đó là cụm Lạc
Vệ chuyên chế biến thực phẩm, dệt, da; cụm Thuận Thành chuyên chế biến có quy mô
vừa và nhỏ; cụm Đình Bảng chuyên về các nhành vật liệu xây dựng, cơ kim
khí vừa và nhỏ, sành sứ gốm; cụm Đông
Tiên- Hàm Sơn ( Yên Phong ) chuyên các ngành bảo quản chế biến nông sản
thực phẩm , sản xuất vật liệu xây dựng
cao cấp, dệt may, phân hửu cơ vi sinh… ; cụm
Phá Lãng chuyên chế biến nông sản thực phẩm, vật liệu xây dựng cao cấp, dệt
may … quy mô vừa và nhỏ .
Mười năm sau , tính
đến năm 2010 , Bắc Ninh khởi sự một phục hưng đầu tư khi các hảng tòan
cầu khổng lồ như Canon, Foxcom , Samsung, Orion, Sumitomo và ABB chọn Bắc Ninh xây dựng cơ sở ở Việt Nam . Các hảng này cũng làm
nam châm từ tính giúp các hảng khác thịnh vượng thêm ở tỉnh nhà. Lợi
dụng hòan thành các xa lộ cao tốc, đường xe lữa Xuyên Việt cải thiện ( đọan Yên
Viên –Bắc Ninh dài 20km ) và đường sông
đáng kể, kế cận thủ đô Hà Nội …., Bắc
Ninh nhắm mục đích trở thành một trung tâm phát triễn kinh tế quan trọng cho Tam giác
Kinh tế Hà Nội- Hải Phòng – Quảng Ninh. Trước hết, phát huy tiềm năng lớn lao các khu công
nghiệp cận đại. Bắc Ninh nay đã thiết lập 15
khu công nghệ ( công viên công nghệ ) tập trung , tổng số diện tích là 7 681
ha ( 6847 ha cho khu công nghệ và 834 ha
cho khu đô thị ); 10 khu này đã đầu tư xong
xây cất và hoạt động với hạ tầng cở sở tân tiến
như hệ thống giao thông nội khu,
hệ thống điện thắp sáng và cho sản xuất, hệ thống nước sạch, hệ thống trị sạch nước thải ống cống, đúng
theo nhu cầu hiện đại của các nhà đầu tư. Phát triễn
các khu công nghệ tập trung Bắc Ninh được quy họach kỹ lưỡng, nối
kết phát triễn xã hội kinh tế giữa nhiều vùng trong tỉnh nhà, giữa các khu công nghệ và các nhóm khác, giữa
Bắc Ninh và các địa phương lân cận. 15 khu công nghiệp tập trung là :
Tiên Sơn , Đại Đồng- Hòan Sơn , VSIP- Việt Nam Singapore Industrial Park,
,Hanaka và Từ Sơn ở xa lộ 1, Yên Phong I, II ở xa lộ 188, Quế Võ 1, 2, 3 , Đại
Kim và Nam Sơn – Hạp Linh ở quốc lộ 18 , Thuận Thành 1, 2, 3 và Gia Bình phía
Nam sông Đuống ( chiếu theo Nguyễn Nhân Chiến, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bắc Ninh ).
Khu công nghệ Quế Võ |
Đến cuối tháng
5 năm 2010, các công viên công nghệ đã sử dụng 44 506 nhân viên lao động , gồm
21 906 nhân công địa phương, nghĩa là
49.2 % tổng số người đến tuổi lao động tỉnh nhà. Vào cuối năm 2009, có 15 quốc gia và lảnh thổ thế giới đầu tư ở các công viên
công nghệ Bắc Ninh . Gần đây nhất là các dự án lớn FDI của những tổ hợp đa quốc
gia như Canon ( Nhật Bổn ), Sam Sung (
Hàn Quốc – Nam Hàn ) và ABB ( Thụy Điển
) đầu tư mạnh mẽ vào các lảnh vực điện,
điện tử, viễn thông và công nghệ chính xác – precise engineering. Tính
đến cuối tháng 3 năm 2009, các công viên công nghệ Bắc Ninh đã đầu tư tư bản tổng gọp là 3.126
tỉ USD, gồm luôn 359 triệu USD ở ngành công nghệ - engineering
sector , 178 triệu USD vào chế biến thực phẩm, 62 triệu USD vào vật liệu
sản xuất, 1 621 triệu USD vào điện tử và viễn thông và 915 triệu USD ở những
lảnh vực khác. Nam Hàn dẫn đạo các
nhà đầu tư ngọai quốc ở Bắc Ninh với 46 dự án tổng cọng tư bản là 989.8 triệu
USD. Tiếp theo là Nhật Bổn với 36 dự án trị giá 404 .4 triệu USD, Đài Loan 18
dự án trị giá 218.2 triệu USD, Singapore 13 dự án trị giá
172 triệu USD, Hồng Kông 15 dự án trị giá 100.69 triệu USD, Trung Quốc
11 dự án trị giá 32.59 triệu USD, Liên
Hiệp Âu Châu 3 dự án trị giá 34 triệu US và các quốc gia khác 35 dự án trị giá
285,27 triệu USD.
Năm 2009, gía
trị sản xuất công nghệ Bắc Ninh là 19 421 tỉ đồng Việt Nam ( VND). Năm 2010 đạt hơn 23 000 tỉ, cao hơn chỉ
tiêu 11,4 % và chỉ tiêu cho 2011 là 38 600 tỉ VND ( ? ). Năm 2009, tỉnh
xuất khẩu 1004 triệu USD ; năm 2010 ước lượng 1 485 triệu và chỉ tiêu cho năm
2011 là 1782 triệu. Năm 2009, nhập khẩu vào tỉnh là 881 triệu USD, năm 2010 ước
lượng 1214 triệu và chỉ tiêu cho năm 2011 là 1457 triệu. Năm 2009, dự trù 36 doanh nghiệp mới , năm 2010 ước
lượng 30 doanh nghiệp mới, năm 2011 chỉ
tiêu là 34. Năm 2009, tư bản đầu tư là
326 triệu USD, năm 2010 ước lượng 350 triệu, cao hơn chỉ tiêu là 300 triệu . Dự án đầu tư năm 2009 là 51, năm 2010 là 50
cao hơn số chỉ tiêu là 35 và năm 2011 chỉ tiêu là 40. Nhờ đóng góp của
những họat động doanh nghiệp tại các công viên công nghệ, từ năm 2007 đến năm 2011, Bắc Ninh đã tiến lên hàng thứ
6 trong số chỉ tiêu khả năng cạnh tranh
các tỉnh tòan quốc.
Các sản phẩm xuất tỉnh hiện nay là áo quần, đồ in, điện tử , bàn ghế và tiểu công nghệ mỹ phẩm… Đến
giữa năm 2011, các khu công nghệ sẽ tụ điểm vào các lảnh vực cao kỹ- high tech, thân thiện môi
sinh , kỷ thuật sạch hầu trở thành một trong ba tỉnh có đầu tư ngọai quốc
FDI cao nhất nước và chuyễn hướng cơ cấu kinh tế theo một chiến
lược tân tiến và bền vững để trở thành một
tỉnh công nghệ vào năm 2015 ( ? )
Sau đây là sơ lược vài tổ hợp đầu tư ở Bắc Ninh
MiTac Precision Technologi Vietnam |
Nhà máy Quế Võ này chiếm 134 600 m2, đầu tư trị giá 15 triệu USD. Giai đọan đầu, hòan thành giữa năm 2006, để sản xuất giữa năm 2007 chế tạo những sản phẩm điện tử như các máy in – printers , máy chụp hình kỷ thuật số- digital cameras, các máy chạy DVD , hộp đựng và các bộ phận điện thọai di động. Riêng máy in sẽ sản xuất 350 000 máy một tháng. Các chức năng nhà máy nới rộng sau 2007, sẽ gồm luôn cả họa kiểu và phát triễn khuôn đúc tiêm – injection molds . Giai đọan đầu sẽ sử dụng 1000 nhân viên giáo dục tỉnh cấp cao. Năm 2007, lợi tức đã trên 1 tỉ đô la NT và dự trù đầu tư và tuyễn thêm nhân viên, triễn khai nhà máy biến MPT Việt Nam thành một nhà máy kích thước lớn chế tạo hội nhập thẳng đứng của Tổ hợp. Ngòai việc kế cận thủ đô Hà Nôi, so với nhiều tỉnh khác nhân công Bắc Ninh tương đối rẽ, nhiều cán bộ chuyên viên giáo dục đào tạo tốt, chánh phủ Việt Nam có chánh sách muốn phát triễn công nghệ cao kỹ, một khung cảnh luật pháp, hành chánh và thuế khóa khích lệ đầu tư ngọai quốc, công viên công nghệ Quế Võ gần nhà máy MiTAC Quảng Đông có hệ thống xe lữa và xa lộ nối mau chóng hai nhà máy; hơn nữa một khách hàng của Tổ hợp là Tổ hợp Canon cũng đầu tư thiết lập một nhà máy mới ở công viên Quế Võ, nên tổ hợp có nhiều khích lệ, khả năng mở rộng thêm trong tương lai.
* Nhà máy Không Khí Lõng – Air
Liquide Việt Nam. Sau 11 năm họat
động thành công ở Việt Nam, ngày 7 tháng chín năm 2007, Công ty Việt Nam Industrial Gases. Ltd –
VIG , một hợp doanh giữa Air Liquide-Pháp, BOC – Vương Quốc Anh và Sumitomo
- Nhật Bổn, đổi tên thành Air Liquide Việt Nam, ltd- ALV. Từ năm 1999 đến nay , Đơn vị Phân
Chia Không Khí- Air Separation Unit đầu tiên ở Bắc Ninh họat động tốt đẹp cung cấp cho khách hàng và người cùng công ty
ở miền Bắc, ALV đã quyết định hăng hái
đầu tư cả ở miền Bắc lẫn miền Nam. Đơn
vị thứ hai phân chia không khí ở miền Bắc đi vào họat động năm 2007, để cung cấp tốt hơn yêu cầu tăng gia của khách
hàng. Air Liquide Việt Nam triễn khai thị trường ở miền Nam , xây dựng
đơn vị thứ ba Air Separation ở công viên Phú Mỹ 1, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu và đã
được Công Viên Cao Kỹ Sài Gòn chấp thuận
cho xây dựng thêm một đơn vị Air
Separation thứ tư ở công viên này. Air Liquide
cung cấp khí – gases qua đường
ống dẫn – pipeline( nitrogen, hydrogen ), ngay tại vị trí nhà máy (
nitrogen , hydrogen ), chất lỏng ở các
thùng chứa , tồn trữ ( oxygen , nitrogen , argon ) và khí ép – compressed gases ở xy lanh – cylinders. Các sản phẩm
của Air Liquide cũng gồm cả Helium
Lỏng - Liquid Helium, những trộn lẫn
khí đặc biệt và cho la bô, cách
định cở các khí nhập khẩu từ các công ty chị em các quốc gia khác ( Singapore, Pháp,
Hoa Kỳ ).
* Công ty Cố Vấn Sản xuất công
nghệ Thụy Điển ABB – Royal Haskoning thành lập năm 2008- 2009, ở khu công
nghệ Tiên Sơn có diện tích sàn là 11
250m2, cung cấp dịch vụ cố
vấn thiết lập công nghệ từ quan niệm họa kiểu đến hòan tất .
ABB ở Bắc Ninh |
Đô thị hóa Bắc Ninh hội nhập với phát triển các công viên công nghệ tập
trung
Đến năm 2000, Bắc Ninh có 2 hệ thống quần cư chủ yếu : quần
cư nông thôn và quần cư thành ( đô ) thị. Loại hình quần cư nông thôn phỏng theo địa thế , thủy văn, đất đai truyền thống gồm 3 kiểu :
- quần cư ngòai đê, bải bồi rộng và tương
đối cao, dân cư thường sống tập trung thành
từng làng chạy theo sườn ngòai đê Có nhiều xã dân gian sống hầu hết ngòai đê như Thượng Mao, Hòai Thượng ( Thuận Thành ),
Cảnh Hưng ( Tiên Du ). Kiểu quần cư này giúp
dân gian có thể khai thác những vùng đất mới ở ngòai đê. Khi nước lũ lên cao, dân
cư có thể mau lẹ dời những đồ đạc cần
thiết của gia đình lên trên mặt đê
- quần cư trong đê, ở bên cạnh các con sông lớn có đê bao bọc, diện
tích ven đê tương đối rộng, dân cư lại sống
trong các làng chạy theo sườn sát
trong đê. Kiểu quần cư này thường gặp ở
các xã nằm cạnh sông Cầu, sông Đuống. Làng xóm
phát triễn theo chiều dài của các bải bồi, giúp dân gian vừa khai thác
những vùng đất trong đê, vừa khai thác những bải bồi ngoài đê.
- quần cư vùng đồng chiêm trũng,
ngập nước quanh năm, dân gian phải sống tập trung ở những vùng đất cao. Làng
xóm ở đây không phát triễn tự do vì phụ thuộc vào các gò đất cao, hoặc phải vượt thổ lên để làm
nhà. Kiểu quần cư này thường thấy ở các xã ven sông Cầu và các xã Âm Thịnh, Mỹ Lượng ven sông Đuống.
Quần cư đô thị vẫn còn theo
tiến trình đô thị hóa chậm ở thị xã Bắc Ninh và 5 thị trấn huyện lỵ. Thị xã Bắc Ninh diện
tích 265km2, dân số năm 1999
chỉ là 71 000 người, 54 % tập trung ở 5 phường với 38.400 người, còn
lại ở 4 xã thuộc thị xã. Cũng vào năm 1999, 90.6 % dân tỉnh sống chủ yếu ở nông thôn, dân cư thành thị tập trung ở các thị trấn và thị xã Bắc Ninh
chỉ chiếm 9.4 % dân số.
Nay thị xã Bắc Ninh được xác nhận là
một thị trấn vệ tinh quan trọng của phát
triễn Vùng “Đại Hà Nội- Hà Tây” và có hạ
tầng cơ sở, tài nguyên nhân sự tốt, nằm trong trọng điểm tam giác tăng trưởng then
chốt cho đồng bằng sông Hồng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, nên đã có mức
phát triễn mạnh mẽ từ 5 năm nay. Nhắc lại các đường xá quan trọng là xa lộ quốc
gia số 1B nối Hà Nội -Bắc Ninh – Lạng Sơn, Xa lộ Cao tốc-
Expressway số 18 nối phi trường quốc tế Nội Bài- Bắc Ninh – Hạ Long và quốc
lộ 18 nối Bắc Ninh – Hải Dương – Hải
Phòng. Hầu giúp mức đô thị hóa mau lẹ hơn, mọi quy họach mới về công viên công nghệ tỉnh nhà, đều được qui họach cùng một lúc với các phát triễn đô thị, dịch vụ và cư xá.
Như đã nói
trên, trong diện tích 7681 ha ở 15 khu công viên công nghệ, 834 ha dành cho phát triễn các khu đô thị. Đáng
kể ra là các dự án hội nhập phát triễn thị
trấn – townships với khu công nghệ của
Công ty Công viên Công Nghệ Việt Nam Singapore Industrial Park- VSIP theo kiểu phát triễn đô thị Singapore ( có lẽ nên chiếu theo trang trí, họa kiểu
những kiến trúc Việt Nam cỗ truyền hay tân thời hơn là quá thiên về những họa kiểu Tàu- Trung Quốc ?
), biến viễn cảnh đồng quê thành những giải đáp
công nghệ, thương mãi và cư xá, sử dụng lề lối quy họach đô thị cải tiến
và tiện nghi cận đại. 4 dự án VSIP( 2 ở tỉnh Bình Dương, một ở Hải Phòng, một ở
Bắc Ninh )tại Việt Nam chiếm 4854 ha
diện tích sàn, diện tích đất khu công nghệ bán được là 1940 ha và diện
tích thương mãi - cư xá là 1170 ha. Diện
tích VSIP Bắc Ninh là 700 ha. Cư dân ở công viên này có thể đến thủ đô Hà Nội trong vòng 30 phút, vì chỉ cách Hà Nội có
20km. Dự án cũng liên kết với các cửa
khẩu Việt Nam -Trung Quốc, cách hai cửa khẩu Tân Thành – Hửu Nghị chừng 140 km,
mở rộng thêm thị trường Bắc Việt và Nam Trung Quốc. Trung tâm hậu cần
tại địa điểm gồm các cơ sở kho hàng giữ hàng hóa lại trước khi thuế được nộp
hay không nộp – bonded and non -bonded warehouses .
Sân bay Nội Bài |
Theo quy họach đến năm 2020, Bắc Ninh dự tính
thực hiện mạng lưới đô thị kế cận Hà Nội. Những thị trấn lớn đã thành thị hóa như thị xã Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, các vùng
thành thị ở Tiên Sơn và Nam Từ Sơn sẽ là vùng thành thị vệ tinh của Hà Nội.
Trung bình đất thành thị sẽ là 45m2 mỗi người, đưa diện tích
thành thị hóa Bắc Ninh lên 2 529 ha. Khoảng
379 ha hay 15 % đất thành thị Bắc Ninh dành cho cư dân thủ
đô. Thành quả là tổng số đất thành thị
tỉnh nhà sẽ tăng thêm đến 2 908ha,
nghĩa là 1290 ha cao hơn năm 2010. Các khu cư xá quanh các thị trấn sẽ được
duyệt xét lại, hướng về thành thị hóa, và đất gia cư sẽ phát triễn mô hình nông trang- vườn hoa, nhà cửa có tường, ban
công trang trí các lòai hoa đẹp nhiệt đới hay bán ôn đới tuyễn chọn, quí hiếm, hầu cung phụng cho yêu cầu du lịch như các gia cư
dọc sông Thames, Anh Quốc v.v… Điều quan
trọng, ngòai vấn đề đền bù đứng đắn đất đai bị trưng dụng, cố gắng kiểm sóat
kỷ xây cất, nhất là cao tầng cho vững
chải, cảnh quan phỏng theo kiến trúc Việt Nam mới - cũ nhiều hơn, theo dõi thị
trường, tài chánh và tiền vay ngân hàng …tạo
bất động sản, tránh nạn nổ bong
bóng- bubble hay lừa gạt trong
ngành, có cơ xảy ra như trên thế giới
hiện nay và cũng đang lộ diện ở Trung Quốc, như ở Việt Nam .
Dịch
vụ du lịch
Năm
1995, kim ngạch xuất khẩu Bắc
Ninh chỉ đạt 7 triệu USD. Đến năm 1999 tăng lên 18 triệu USD. Bình quân là 18USD mỗi đầu người, tương đối thấp so với bình
quân của cả nước. Như đã nói trên, năm
2010, xuất khẩu Bắc Ninh đã là 1450 triệu
USD, 15 lần cao hơn dự kiến năm 1999 là khoảng
100 triệu USD cho năm 2010. Nhờ thị xã Bắc Ninh, thị trấn Từ Sơn, các khu
công nghệ tảp trung … được đầu tư xây
dựng thành những trung tâm thương mại –
du lịch- văn hóa tỉnh, có hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, mạng lưới điện,
thông tin liên lạc, mạng lưới chợ…. nâng cấp và hiện đại hóa. Đặc biệt phát
triễn mạnh là du lịch .
Năm 2010, lợi tức du lịch Bắc Ninh đạt 125 tỉ VND, thu
hút 200 000 du khách, mức tăng trưởng là
17- 20% mỗi năm. Năm 2015 hy vọng sẽ đạt lợi tức 250 tỉ VND , đón mời 400 000 du khách.
Nếu cải tiến thêm hạ tầng cơ sở ( đường xá liên
huyện liên xã …, hệ thống vệ sinh, tổ chức quét dọn sạch mau lẹ rác rưới
sau mùa hội hè, làm thêm nhiều khách
sạn 3-4 sao … thì tăng trưởng ngành du lịch còn
mạnh hơn nữa. Bắc Ninh là một thị trấn xưa cũ, một trung tâm thương mãi Việt Nam từ thế kỹ thứ 2 đến thế
kỷ thứ 10. Phật giáo du nhập tỉnh rất sớm và nở rộ đời nhà Lý như chúng ta đều
biết. Nhiều chùa, đền, đình làng đã được
xây dựng, một số đã kể ra ở phần I.
Nhiều lễ hội được tổ chức hàng năm ở các nơi này, đặc biệt trong tiết
xuân. Dặc biệt là hội Lim , hội Đền Đô ,
hội Đền Bà Chúa Kho và hội đền Dâu …
Hội
Lim được tổ chức ngày 13 tháng giêng
âm lịch trên Đồi Lim thuộc xã Lũng Giang, huyện Tiên Du, đến được
theo quốc lộ số 1,
chỉ cách Hà Nội 18km. Tục truyền trên Đồi Lim, dưới bóng cây um tùm có một ngôi chùa cổ, một người đàn bà tên là Mụ Ả, người Duệ Đông đến tu ở đó, đắc đạo có phép hô phong hóan vũ. Mỗi khi hạn hán, dân thường cầu bà “hóa phép “ làm mưa, linh ứng như thế nên làng Lim tôn bà làm thành hòang. Hội Lim tổ chức vào ngày bà mất. Hội Lim xưa có nhiều trò vui như đánh cờ, đánh đu, đô vật , bơi … Những trò mang dấu ấn văn hóa vùng Kinh Bắc nổi tiếng là nước ngựa chiến, thi thổi xôi, làm cỗ gà, thi làm bánh vừng ( mè ), chè đu đủ, thi dệt vải, bình thơ, xướng đối … Và dĩ nhiên trung tâm của ngày hội Lim là hát Quan họ với ba điểm hát:
chỉ cách Hà Nội 18km. Tục truyền trên Đồi Lim, dưới bóng cây um tùm có một ngôi chùa cổ, một người đàn bà tên là Mụ Ả, người Duệ Đông đến tu ở đó, đắc đạo có phép hô phong hóan vũ. Mỗi khi hạn hán, dân thường cầu bà “hóa phép “ làm mưa, linh ứng như thế nên làng Lim tôn bà làm thành hòang. Hội Lim tổ chức vào ngày bà mất. Hội Lim xưa có nhiều trò vui như đánh cờ, đánh đu, đô vật , bơi … Những trò mang dấu ấn văn hóa vùng Kinh Bắc nổi tiếng là nước ngựa chiến, thi thổi xôi, làm cỗ gà, thi làm bánh vừng ( mè ), chè đu đủ, thi dệt vải, bình thơ, xướng đối … Và dĩ nhiên trung tâm của ngày hội Lim là hát Quan họ với ba điểm hát:
- Hát
ngòai đồi : trên đồi Lim vào ngày
hội các liền anh ( tài tử nam ), liền chị ( tài tử nữ ) đi chơi thành từng nhóm
nhỏ. Bên Nam nếu chưa có bạn thì tìm bên
nữ mời họ xơi trầu. Nếu nữ nhận trầu tức
là nhận lời hát ( cũng có khi nữ mời nam ). Trong khi hát với nhau, nếu thấy
cách ăn ý về giọng hát và cách đối xử, họ còn hẹn nhau đến ngày nào đó gặp lại xin kết nghĩa “ Nghĩa
Quan Họ”. Khi hát ngòai đồi bất kể nắng mưa, nam đều che ô ( dù ), nữ đều đội nón thúng quai thao, vừa tình tứ vừa e ấp. Họ ăn mặc theo theo lề lối ngày hội của dân vùng Quan họ.
Quan Họ”. Khi hát ngòai đồi bất kể nắng mưa, nam đều che ô ( dù ), nữ đều đội nón thúng quai thao, vừa tình tứ vừa e ấp. Họ ăn mặc theo theo lề lối ngày hội của dân vùng Quan họ.
- Hát trong nhà : Những nhóm Quan họ khách đã được hẹn mời trước buổi sáng cứ đến thẳng hội. Phía chủ nhà,
từng nhóm Quan họ đã đóng góp tiền
cho một bà trùm cử người chịu trách nhiệm đăng cai “ làm cơm
Quan họ” Sáng ấy, một số người ra chùa
đón khách. Quan họ bạn vào đến cổng là hát mừng làng đầu năm mới, mừng nhà,
mừng bạn. Buổi hát bắt đầu rất tự nhiên.
Quan họ chủ đứng ở sân hát đón
khách, đưa khách vào nhà cất nón ( cất ô)
rồi ngồi xuống hai giường của hai gian cạnh hay hai bên tràng kỷ bàn
khách gian giữa, đối diện nhau hát tiếp. Hầu hết mọi việc, từ mời trầu, mời nước
hỏi thăm, nói chuyện đều bằng câu hát. Hát đến trưa, phía chủ mời khách ăn cơm,
lời mời cũng hát. Buổi chiều, Quan họ mời khách đi xem hội và tối về lại hát
tiếp.
- Hát trên thuyền: Từng cặp trai gái bơi trên những chiếc
thuyền thúng dưới ao, hồ hay trên lòng
sông làng. Bịu hát đối đáp nhau say sưa. Trên bờ người xem với đủ màu sắc áo
quần ngày hội, lắng nghe, bình phẩm về giọng hát, lối hát để đến lượt mình vào
cuộc. Ngày hội trôi qua thật mau lẹ trong lôi cuốn của những giọng hát say đắm, để rồi Quan họ
lại bịn rịn chia tay, chẳng muốn về. Người đi rồi mà “ em
vẫn trông theo, trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”. Người đi để lại
bao nhớ nhung, mong sao mau chóng đến ngày hội năm sau.
Hát
Quan họ hình như phát sinh từ đời nhà Lý , tiến trào từ hát đùm. Đa số hát Quan họ tỏ bày niềm thương yêu nhau
: hy vọng, nhớ nhau, ghen tuông…
nhưng không bao giờ tỏ cảm giác tình dục cả . Không có
bài hát Quan họ nào nói về công việc đồng áng. Không có anh( chị ) Bảy, Tám,
Anh chị Hai bé , anh chị Ba bé… ở các nhóm Quan họ. Khi họ hát thề thốt làm bạn – brother hood ,
nhưng cấm không được cùng nhau kết hôn. Các nhà khảo cứu say mê Quan họ hiện nay là Toan Ánh, Bùi Trọng Hiền. Nhạc sĩ quan trọng nhất về
Quan họ là Đức Miêng ( 165 bài hát ). Ca sĩ Quan họ nổi tiếng
nhất là Thùy Hương – Thùy Cái. Cử chỉ ngôn ngữ Quan họ là “Người Quan họ
nói “như có văn có sách”. Lời như thơ văn tình tứ, có đặc điểm của ca dao, ngụ ngôn, truyện Kiều … Vùng địa
lý tiếng hát Quan họ là dọc theo hai bên
bờ sông Cầu,phía bắc Hà Nội tại 49 làng
dân ca cũ , 44 làng ở Bắc Ninh và 5 làng ở Bắc Giang . Ngày
30/9/2009, Cơ quan Văn hóa – Giáo dục Quốc tế UNESCO nhìn nhận Quan họ là di sản
văn hóa quốc tế. Năm 2010, tuần báo Hoa Kỳ “Time Magazine” đã
công nhận Quan họ là “ hay nhất cho tâm hồn – the best for soul” Nay đã có thể
nghe hát Quan họ qua điện thọai,
chỉ cần gọi điện thọai cho các nghệ sĩ hát Quan họ.
Rước kiệu ở Hội Đền Đô |
Hội
Thánh Dóng ( Gióng ) tổ chức trong nhiều ngày với nhiều trò vui, song ngày mồng 9 tháng tư mới là ngày hội đông vui nhất. Hôm ấy dân gian
diễn lại thành tích Thánh Dóng, người đã giúp vua Hùng dẹp tan giặc Ân. Nghi lễ
về cuộc chiến tranh, trang phục binh bị thời cỗ, tinh thần quyết chiến của quân
tướng.. . tất cả đều được diễn tả bằng những hình thức tượng trưng rất sinh
động. Các em nhỏ và các ông Hiệu cờ, Hiệu Chiêng … đóng làm quân ông Dóng. Còn 28 thiếu
nữ đóng tượng trưng là quân giặc. Trong
khoảng đất trống làm trận địa đã trải sẳn 3 chiếc chiếu. Trên chiếu có chiếc
bát úp trên tờ giấy: chiếu tượng trưng cho cánh đồng, bát cho đồi núi, tờ giấy
cho mây. Khi cuộc giao tranh bắt đầu, cờ lệnh được phất lên kéo theo hàng ngàn
mảnh giấy sặc sở tung ra. Dân gian xô
nhau cướp lấy để làm khước… Khi xé xong 3 chiếc chiếu thì quân giặc cũng tan.
28 cô gái lên kiệu về làng Phù Đỗng.
Các hội khác là -hội Đông Hồ diễn ra từ ngày 4 đến ngày 7 tháng giêng tại đình làng Đông
Hồ, huyện Thuận Thành. Đây là một lễ hội mang tính chất hội làng nghề, nơi sản
xuất tranh dân gian nổi tiếng. - hội Chùa Phật tích thường diễn ra từ ngày 4 đến ngày 5 tháng
giêng âm lịch tại chùa Phật Tích, nhằm tưởng nhớ công ơn vua Lý Thánh Tông. - lễ
hội chùa Dâu vào ngày 17 tháng giêng âm lịch tại làng Dâu-Thanh Khương,
huyện Thuận Thành mở vào ngày sinh của
Phật Mẫu Man Nương, tiêu biểu cho sự hội
nhập của tín ngưỡng nông nghiệp vào đạo Phật. - hội chùa Tổ diễn ra tại làng
Vạn Ty, Thái Bảo huyện Gia Bình
quê hương của Huyền Quang Lý Đạo
Tái, một trong ba vị sáng lập thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Hàng năm tổ chức từ
ngày 18 đến ngày 23 tháng giêng âm lịch.
Cải tiến không ngừng và chuyển
hướng nông nghiệp Bắc Ninh để chống đói giảm nghèo
Cho
đến năm 2015, nông nghiệp vẫn có thể còn là lợi tức chánh cho 50 %, nữa triệu
dân cư Bắc Ninh. Vì GDP nông nghiệp càng ngày càng thấp kém so với công nghệ
xây cất và dịch vụ; muốn mức chênh lệch giàu nghèo không tăng nhiều giữa nông
thôn và thành thị, phải mau lẹ chuyễn hướng cơ cấu nông nghiệp,
lợi dụng tình trạng kế cận thủ đô Hà Nội, tính chất đô thị hóa của nhiều huyện,
thị trấn tỉnh nhà và trị giá cao hơn lúa
của những lòai rau đậu, cây trái, hoa tươi cắt cành hay không, chậu kiểng hoa,
trồng bồn hoa .vv… Cần tăng cường giáo
dục kỷ thuật dạy nghề cập nhật hơn cho
con em nông thôn gia nhập đông đảo công nghệ, dịch vụ mới tỉnh nhà, bổ sung lợi
tức thấp kém gia đình nông thôn, vì hình như đa số công nhân cho công nghệ mới
vẫn còn là tự học ( ? )
Trong
tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Bắc Ninh năm 1999 là 79 900 ha, diện tích đất
sử dụng mục đích nông nghiệp chiếm 62%, lâm nghiệp chiếm 0.5% và chuyên dùng - thổ cư là 21.3 %. Đất chưa sử dụng còn 9.600 ha,
tập trung ở Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Thuận Thành, Từ Sơn. Kiểm kê năm 2010,
cho thấy Bắc Ninh chỉ còn 43 282 ,93 ha
đất nông nghiệp chiếm 52. 61% tổng diện tích đất tự nhiên giảm mất 10% so
với hơn 10 năm trước do tình trạng thành thị hóa, mở mang hạ tầng
cơ sở … phát triễn kinh tế xã hội tỉnh
nhà. Ở hai xã Mộ Đạo và Trúc Ô ( ? ), 300 ha đất công điền –communal land huyện Quế Võ đã bị lấy đi xây cất thị trấn
huyện lỵ và khu công nghệ. Nhưng đất đai
nông nghiệp lại phân tán ra
làm nhiều mảnh, lô – plots nhỏ xíu, trung
bình 9.12 mảnh mỗi gia đình, một trung bình
manh mún lớn nhất nước, hơn cả những tỉnh đông dân như Thái Bình, Nam
Định. Theo báo cáo Ủy Ban Nhân dân
tỉnh năm 2006, mỗi gia đình chỉ có 3500m2
mà lại rải rác thành nhiều mảnh ở nhiều
nơi khác nhau. Chẳng hạn ở xã Mộ Đạo ( ? ), điều tra năm 2006, trung bình mỗi
gia đình có 8 mảnh đất, mảnh nhỏ nhất chỉ có 48m2, tuy rằng xã chỉ có một hợp tác xã duy nhất. Có khi một
mảnh này cách mảnh kia đến 2 km. Từ năm 1998, chánh phủ đã thi hành chánh sách Cũng cố điền địa- Land consolidation, tìm cách Đôn
điền,Đổi thửa- Plot Exchange, đặc biệt ở Bắc Việt, điều kiện tiên quyết tăng gia năng xuất lúa, hoa màu, cây trồng trọt
nông trang gia đình ( rất khó lòng cải thiện hệ thống tưới tiêu, đê điều
suy thóai, nếu không cũng cố điền địa manh mún quá độ như vậy !) . Sau khi thử
nghiệm cũng cố nông trang gia đình thành công năm 2009 ở xã Mộ Đạo, theo Sở Địa Chánh - Cadastre , mỗi gia đình chỉ
còn 1-3 mảnh đất mà thôi. Mảnh đất nhỏ nhất diện tích 720m2, lớn nhất
đạt 7200m2 .Nhờ vậy mới thiết lập được một hệ thống tưới tiêu mới, xây dựng đường xá và nhiều tiện nghi hạ tầng khác trong xã, để cho canh tác dễ
dàng hơn và tăng năng xuất, sản xuất( chiếu theo báo cáo củaViện Nghiên cứu Xã
hội, The Hague , Hòa Lan năm 2010 ). Thế nhưng còn nhiều lý do khiến cho công
cuộc củng cố điền địa Bắc Ninh cũng như ở nhiều tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng
tiến hành chậm rải , tỉ như thiếu chỉ dẫn chi tiết thực hiện cho cấp tỉnh,
khung cảnh luật pháp chính sách mơ hồ, nhập nhằng – an ninh sở hửu chủ điền
thổ thiếu thông tin, nhất là khi phương thức chánh phủ cho thuê đất ruộng 20
năm từ năm 1993 sắp hết hạn vào năm 2013,
thiếu tài trợ, thiếu trách nhiệm giải thích trong trắng …
Vì vậy, có lẽ không nên cố sức khuyến khích
làm thêm một vụ lúa nữa ( chỉ số 3 vụ
, nhưng nay Bắc Ninh mới đạt chỉ số 2.5 vụ như kể trên) ; khi nước nhà hay tỉnh nhà đã
cải thiện sản xuất nhiều ruộng hai vụ,
tỉnh đã trên mức bình quân thóc cần
thiết, quốc gia đã xuất khẩu nhiều gạo . Năng xuất lúa ( thóc ) trung bình Bắc
Ninh cả năm1995 chỉ đến 3.4 tấn /ha, năm 2002 – 2003 đã tăng đến 5-5 -5.6 t/ha nhờ lúa lai đời F1, phổ thông giữa thập niên
1990 ở đồng bằng sông Hồng và ở các tỉnh miền Bắc Trung Việt ( trong khi ở miền
Nam và Duyên Hải Nam Trung Việt là các giống Thần Nông IR …). Có lẽ về lúa gạo,
Bắc Ninh nên chú trọng khuếch trương các giống nếp cao năng, thơm nồng ( như
Hòang Cầm đã nhắc đến từ thập niên 1940-50 và
Bắc Ninh cũng nổi tiếng về lễ hội thi thổi xôi), trồng các giống lai
japonica thơm cao năng hay cả những giống lai indica kiểu gạo Jasmine, có máu Basmati 370 ( lòai
lúa thơm ngát nhất thế giới ngay từ cây
lúa đang sinh trưởng
) Hồi Quốc, Ân Độ. Cần chuyễn
hướng qua những lòai cây trồng khác cho nhiều lợi tức hơn, nếu những ruộng lúa
vài vùng huyện -tỉnh nhà vẫn còn tiếp tục cho năng xuất kém cõi, dưới 6-7 tấn/
vụ là năng xuất các tỉnh sông Hồng khác đã đạt từ năm 2002 ( Nam Định, Thái Bình ) ; dù đã áp dụng các cải
tiến như Lề lối Canh nông Tốt- GAP
,Good Agricutural Practices “ ba
tiến ba thóai” ( ? ), Hội nhập Xử lý Bảo vệ Mùa màng – IPM, Integrated Protection Management , Hội nhập Xử lý Hoa màu- ICM, Integrated Crop
Management… Nhấn mạnh chuyễn hướng qua hoa cắt cành, chậu kiểng,…
thích hợp tỉnh nhà, thường có thể cho lợi tức 10 – 15 lần hơn lúa hay nhiều
lòai rau đậu lợi tức 6-7 lần hơn .
Ngay cả có khi cần thay các vụ ngô ( bắp ), vụ ngô đông
làm thực phẩm gia súc mà năng xuất chỉ
đến 2- 3t/ha năm 2002 và 4.5 t/ha năm
2010; trong khi nước nhà nay đã trồng và sản xuất hột giống
ngô lai ( 90 % tổng số ngô trồng ) tiềm năng năng xuất 9-10 tấn/ha (
các gíống lai LVN 10 , LVN 4 ,
LVN 9 , LVN 99 v.v…). Chú trọng hơn đến
các giống ngô ăn tươi kiểu rau cải –
vegetable corn , vegetable maize (
bắp nếp , bắp ngọt, bắp bê bi – baby corn) , cho đến khi nào năng xuất,
giá thành bắp tỉnh nhà sản xuất cạnh tranh được bắp làm thực phẩm của Thái Lan,
bớt nhập khẩu và xuất khẩu được sang Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc ước
lượng có thể lên đến 40 triệu tấn ngô – bắp các năm 2020 – 2030.
Khoai tây sạch bệnh Bắc Ninh |
3 lòai họ đậu nên khuếch trương thêm ở Bắc Ninh là đậu xanh – mungbean thị trường
Nhật cũng đang đòi hỏi mua thêm, đậu
phụng – lạc và đậu nành – đổ tương.
Nước nhà đã tuyễn chọn được các giống
đậu phụng lai trên 3 tấn/ha phổ thông ở Nam Định, cũng như các giống đậu
nành ngắn ngày thời gian tăng trưởng chỉ 73 ngày, cao năng 2-3 tấn/ha,
hầu chấm dứt hay gia giảm nhập khẩu đậu nành làm thực phẩm gia súc và làm tàu
hủ - tofu. Việt Nam chỉ mới tiêu thụ
1kg/ đầu người tofu, so với 12kg/ đầu người
trung bình trên thế giới và mức tiêu thụ tofu trong nước lại có khuynh hướng
gia tăng. Bắc Ninh có thể trồng thêm nhiều diện tích đậu phụng, đổ tương hơn là
con số khỏang 2000 ha hiện nay cho mỗi lòai.
Trong số rau đậu tiêu thụ gia tăng thêm ở trong nước nhờ đô
thị hóa hay yêu cầu xuất khẩu vào mùa
đông ( từ tháng chạp đến tháng 3 mỗi năm ), không trồng hay trồng nhà kiếng giá
thành cao quá ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông , Nhật.. , Bắc Ninh nên chú trọng thêm đến dưa chuột, cà chua, cà rốt, họ đậu ( cô ve, đậu đủa ,đậu rằn… ), cải bắp, hành
tây, bắp bê bi… ngòai su hào, cà chua,
cải bắp … năng xuất địa phương còn quá thấp, phẩm giá còn kém cõi và chưa áp dụng được nhiều phương pháp sạch -an tòan vài quốc gia đã và đang phổ thông ở Việt Nam ( Đan Mạch , Bỉ … ) . Khuyến nông mau lẹ hơn các giống cà chua
lai cao năng như FM 29 , FM 20 , VT3; các giống dưa chuột CV5 , CV 11; các giống ớt
cay HB9, HB 14.
Về ngành hoa, Bắc Ninh cần cải thiện, phổ biến thêm các
giống hoa hồng – rose, cúc – chrysanthemum , cúc đồng tiền -gerbers,
hoa lan – orchids, lay dơn – gladioly, huệ hương tuberose, cẩm chướng – carnation. Khi nước nhà đang cố gắng gia tăng mức tiêu thụ hoa tươi,
chỉ mới là 1 USD mỗi đầu người VN
so với trung bình 16 USD mỗi đầu người ở Hoa Kỳ, Đức, Nhật, Hòa Lan, Ý. Hai lảnh vực khác Bắc Ninh còn chậm tiến là trồng cỏ
nuôi bò sửa ( hiện các giống cỏ họ đậu nhiệt đới và các giống cỏ hòa bản
nuôi bò ở Việt Nam, năng xuất còn quá kém so với các lọai này trồng trên thế giới ), dù rằng
tương lai Bắc Ninh có thể hình thành một
khâu vòng đai trắng ( sửa , phó mát, da ua – yogourt … ) cho
vùng lớn “Đại Hà Nội” và nuôi trồng thủy sản , vì Bắc Ninh còn
nhiều đất ở vùng chiêm trũng, ngập nước quanh năm .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét