Hiểu biết rõ thêm
tỉnh nghèo nhất, nhiều tộc dân sống hài hòa cùng nhau, trên hai vùng: thung
lũng cao và rặng núi có đỉnh cao nhất nước, nơi duy nhất có tuyết rơi ở Việt Nam … :
Lạm bàn phát triển tỉnh Lào Cai
G S
Tôn Thất Trình
…Tuyết xuống nơi nào lạnh lắm
không ?
Mà
đây lòng trắng một mùa đông …
( “Đời vắng em rồi, say với ai ?: Vũ Hòang Chương,
nhưng ở đây
hướng về tuyết Sapa, thay vì Paris
!)
Phần I :
Tổng Quát
Vị trí và lãnh thổ
Ai mang tôi đến chốn này,
Bên kia Cốc Lếu bên này Lào Cai.
Lào Cai là một tỉnh vùng núi
vùng Đông Bắc Việt Nam . Bắc giáp Trung Quốc với 103km đất liền và 110
km sông suối.Nam giáp tỉnh Yên Bái. Đông giáp
tỉnh Hà Giang. Tây và Tây Nam
giáp các tỉnh Lai Châu, Sơn La. Diện tích tòan tỉnh là 6 383,9 km2 (
2 464 dặm Anh vuông ). Nằm ở vĩ tuyến Bắc 220 20’N và kinh tuyến Đông 10400’E. Dân số năm 2008 là 602 300 người , và năm 2011 có lẽ đã đến trên
630 000 người.
Thời Pháp thuộc, người Pháp viết
tên của Lào Cai là Lào Kay. Nhưng đến tháng 11, năm 1950 tên Lào Cai đã được gọi chánh thức khắp nơi. Nguồn
gốc tên Lào Cai cũng không rỏ rệt và có nhiều giải thích. Khu vực phường Cốc
Lếu là một huyện thương mãi phát triễn
thành một thị trấn – chợ, thị trường. Cho nên được gọi là Lão Nhai, có nghĩa là
Phố Cũ , thị trấn cũ. Sau đó thị trấn
chợ phát triễn thêm và được gọi là Tân Nhai hay Phố Mới, thị trấn mới . “ Lão”
hay “Lạo” là tên một tộc dân , nên “ Lão Nhai” có nghĩa là thị trấn của “ Lão
/Lạo”. Từ Lào Cai nguồn gốc của “Lao Kàu” xuất hiện năm 1872, nguyên là tên một chiếc tàu của Đồ Phổ Nghĩa- Jean
Dupuis , một kẻ đã thám hiểm bằng
tàu ở mạn ngược sông Hồng. Theo học giả Đào Duy Anh, Lào Cai phát nguồn từ từ Lão Nhai. Khi lập đồ
bản, Pháp viết là “ Lào Kay “ và từ này
xuất hiện trong nhiều tài liệu. Tộc dân
Việt đọc trại ra là Lào Cai và từ này lưu
truyền đến bây giờ.
Lào Cai nằm trên trục kinh tế Sông Hồng, có
hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt ( xe lữa ), đường sông nối liền của khẩu quốc tế Lào Cai ( cũng là
tỉnh lỵ tỉnh Lào Cai, bên kia biên giới là thị trấn Hà Khẩu- Hekou thuộc
tỉnh Vân Nam – Yunnan , Trung Quốc ) và
các cửa khẩu quốc gia Mường Khương, Bát Xát. Hà Nội cách Lào Cai 335 km đường bộ, trước theo đường quốc lộ số 2
qua Việt Trì đến Đoan Hùng, rẽ
trái qua Yên Bái rồi theo quốc lộ 4D đến Lào Cai. Hay đi xe lữa, mỗi ngày nhiều chuyến. Chỉ có
một chuyến ngày, khởi hành lúc 6 giờ
sáng, chạy rất chậm vì tàu phải đổ lại nhiều ga dọc đường. Các chuyến tàu đêm
tiện nghi hơn, khởi hành lúc 21- đếm 23
giờ đêm và đến ga Lào Cai sáng sớm hôm
sau. Hà Nội cũng cách thị xã Điện Biên
Phủ 200 km đường bộ và đây cũng là cách duy nhất đến
Sapa và Lào Cai từ Điện Biên Phủ qua Lai Châu và Phong Thổ( Tam Đường ). Du
khách hay đáp phi cơ từ Hà Nội đến Điện
Biên Phủ rồi tham quan du lịch bằng
đường bộ . Lào Cai cách thành phố Côn
Minh - Kunming , thủ phủ ở trung tâm
tỉnh Vân Nam , 500km. Hành khách dùng đường bộ từ Côn Minh đến Hà Khẩu rồi
vượt qua biên giới ở Lào Cai, mất chừng 9- 10 giờ bằng xe búyt. Hay từ Côn Minh đến Hà Khẩu bằng xe lữa, hai
chuyến mỗi ngày. Thủ tục quá quan vào Lào Cai
rất mau lẹ, chỉ mất độ 5 phút là xong.
Phân chia hành chánh
Thời xưa, Lào Cai là một căn
cứ lịch sử trao đổi hàng hóa, buôn bán. Tộc
dân Hoa (Tàu ), tộc dân Việt và các tộc
dân thiểu số khác trong vùng đã chiến đấu cố kiểm sóat vùng. Năm 1463, các vua Việt lấy Lào Cai làm thủ phủ vùng xa nhất về phía Bắc đất nước, rồi gọi
tên là Hưng Hóa. Pháp chiếm làm thuộc địa năm 1889, và đóng đồn quân sự ở thị
trấn Lào Cai. Pháp lập tỉnh Lào Cai năm 1907, gồm châu Thủy Vĩ và châu Bảo Thắng. Từ đó cho đến
năm 1945, Lào Cai là một trong 23 tỉnh thuộc Bắc Kỳ. Tháng 12 năm 1975, Lào Cai sáp nhập cùng Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh Hòang Liên Sơn. Ngày 12-8- 1991,
Quốc hội Việt Nam khóa VII phê chuẩn việc chia tỉnh Hòang Liên Sơn thành 2 tỉnh
lấy tên là Yên Bái và Lào Cai. Tỉnh Lào
Cai được tái lập gồm 9 đơn vị hành chánh
là thị xã Lào Cai và 8 huyện : thị xã
Lào Cai 5 phường , Bát Xát (huyện lỵ là Bát xát) , Sa Pa ( huyện lỵ là Sa Pa),
Mường Khương ( huyện lỵ là Mường Khương và 1 thị trấn là Lào Cai ), Bắc Hà ( huyện lỵ là Bắc Hà), Bảo Thắng ( huyện
lỵ là Phố Lu, 2 thị trấn khác : Phong Hải và và Tằng Lỏong ), Bảo Yên( huyện lỵ
là Phố Ràng ), Văn Bàn ( huyện lỵ là Khánh
Yên ), Than Uyên ( huyện lỵ là Than Uyên, 1 thị trấn là Khau Cọ ). Ngày 20-6 – 1992 lập lại thị xã Cam Đường 4 phường. Ngày 18-8 – 2000 tách huyện Bắc Hà thành
2 huyện là Bắc Hà và Si Ma Cai ( huyện lỵ là Sima Cai, chưa có thị trấn
). Thành phố thị xã Lào Cai, năm 2003,
đã có 84 192 người, năm 2008 là 96 000, năm 2012 có lẽ đã trên 100 000
người. Đáng tiếc là năm 1979, Đặng tiểu Bình xua 60 000 quân ( có người nói là
300 000) đánh chiếm các tỉnh biên giới miền Bắc từ Phong Thổ ( còn gọi là Paso,
Tam Đường) miền Tây Bắc đến Cao Bằng và Lạng Sơn miền Đông Bắc,
để “ dạy Việt Nam một bài học”, đã giám
đánh trả đủa Khmer Đỏ Pol Pot Trung Quốc hổ trợ, đang đánh phá Việt Nam, đe dọa
biên giới từ Tây Ninh xuống đến Hà Tiên. Quân
đội Nhân dân Trung Quốc lúc đó không chuẩn bị sẳn sàng cho một chiến trường lớn, lại phân chia lực lượng tấn
công nhiều mặt, nên chỉ trong vòng 2 tuần lễ
tấn công Tàu sụp đổ, khi bị quân
Việt phản công, khiến 20 000 quân Tàu bị
giết chết và bắt buộc quân Tàu phải rút
lui, tuy Trung Quốc vẫn huênh hoang là đã thắng trận ( Ó Dowd, và Edward
C., 2007 ở “Chinese
Military Strategy in The Third Indochina
War : the last Maoist war”). Mà thật
ra Việt Nam đã thắng trận
quyết định ở khắp nơi ( Boobbyer, Claire
– 2008 ở Foot Print in Việt Nam
). Quân đội Tàu đã phá tan tành thị xã
Lào Cai , cách Hà Nội trên 295 km, có đường sắt, đường bộ, đường sông tốt đẹp để Tàu
xua quân đe dọa Hà Nội và đồng bằng sông Hồng, ngăn chặn quân phòng thủ
Việt Nam di chuyễn bảo vệ Lào Cai. Khi rút lui, Tàu phá hủy Lào Cai
cũng như nhiều thành phố, thị trấn khác miền Bắc và đặt nhiều mìn trong vùng. Hiện
vẫn còn nhiều mìn sót lại chưa nổ, đe
dọa dân chúng khai khẩn làm ăn, đặc biệt
dọc theo biên giới hai nước. Lào Cai phải đóng cửa nhiều năm đến năm 1993 mới
mở cửa lại. Nhưng nay đã thịnh vượng trở lại, buôn bán sầm uất với Trung Quốc,
một thành phố có nhiều tỉ phú ( đồng VN
) và là một trung tâm du lịch chánh giữa
Hà Nội, Sa Pa và Côn Minh.
Thành phần các tộc dân và sắc thái văn hóa độc đáo Lào Cai
Lào
Cai có 25 tộc dân. Các tộc dân ít người chiếm
trên 64 % tổng số dân tỉnh. Từ năm
1999, tộc dân đông nhất là Kinh ( Việt ) vì từ năm 1960, chánh quyền
miền Bắc đã thiết lập chánh sách đưa cán
bộ đảng Cọng Sản người Kinh từ các vùng
thấp lên các vùng cao, thường do các tộc dân ít người sinh sống. Năm
2008 , tộc dân Kinh chiếm 35.9 % dân tỉnh nhà.
Thứ đến là tộc dân Hmong ( Mèo , Miêu ) 22.21% , Tày 15,84%, Dao 15.05%,
Giáy 4.7 % , Nùng 4.4%. Các tộc dân khác
trong tỉnh là Phù Lá, Sán Chay, Hà Nhì
và La Chí… Trên phương diện xây dựng
và phát triễn kinh tế xã hội , Lào Cai
đã đạt nhiều thành tích đáng kể . Các
tộc dân tỉnh nhà đã tạo ra một bản sắc độc đáo về văn hóa , mang đậm sắc thái Lào Cai. Văn hóa, văn nghệ quần chúng rất đa dạng như truyện cỗ, thơ ca, tục ngữ. Chẳng hạn người Tày có lối hát giao duyên khá phổ biến với các làn điệu lượn, Phong Slư.
Người Mường có hát xét bùa, hát bọ mẹng , hát đồng dao , hát ru v.v… Người Dao
thích múa. Người Thái có múa xòe, múa sạp, hát thơ… Người H’Mông thích thổi khèn,
họ dùng khèn lá, đàn môi để trao đổi tâm tình.
Địa hình , khóang sản
Địa Hình
Địa hình Lào Cai có
3 hình dạng tổng quát khác nhau : núi cao , đồi thấp và thung lũng. Trung bình độ cao Lào Cai là 1000m trên mặt
biển. Phân chia thành các bậc đai như
bậc đai cao 200 – 500m chiếm 28.1% diện
tích, đai cao 501- 1000m chiếm 36.7% diện tích,
phần còn lại là các đai cao 1001- 2000m và trên 2000m. Lào Cai có dãy
núi Hòang Liên Sơn chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam . Dãy núi này có các đỉnh sắc
và nhọn răng cưa có khi có hình mũi kim như Phan
Xi Păng ( tiếng Pháp là Fansipan ) cao 3143m (10 312 bộ Anh ) là đỉnh núi cao
nhất Đông Dương, Pu Luông 2985m…. Dãy Hòang Liên Sơn và Pu Luông , giữa Sông
Hồng và Sông Đà, độ cao trung bình các
ngọn núi từ 1700 đến 2800m, chạy dài 150
Km từ biên giới tới tỉnh Yên Bái, nối dài núi và cao
nguyên tỉnh Vân Nam, phía Nam Trung Quốc
. Nhiều núi non cao nên Lào Cai là miền Thượng Du miền Bắc, tuy rằng về hành
chánh thuộc miền Đông Bắc bên trái sông
Hồng , nhưng cũng như Yên Bái, Lào Cai lại có nhiều lảnh thổ địa lý thuộc vùng Tây Bắc ( bên phải sông Hồng
). Dãy núi cổ Con Voi giữa sông Chảy và
sông Hồng, cao độ 400 – 1400m, phần lớn thuộc Yên Bái, cũng kéo dài tới Lào Cai. Lào Cai còn có các
cao nguyên cacxtơ - karster Bắc Hà, Mường
Khương. Các núi Sa Pa nằm về phía Tây tỉnh nhà. Phía Tây dãy Hòang Liên Sơn là cánh đồng Mường Than ( Than Uyên ) rộng 1600
ha.
Khoáng sản
Lào Cai là một tỉnh giàu khóang sản, khóang sản kim lọai đen, kim lọai màu. Trên lảnh thổ nay
đã phát hiện 150 mỏ hay điểm quặng
thuộc 30 lọai khác nhau, vài lọai lớn nhất đất nước. Tập trung ở ba dãi, trùng
hợp với các hệ thống đứt gãy sông Hồng, Sa Pa, Phăng xi Păng. Ở
đới sông Hồng, chủ yếu là apatít, đồng, phóng xạ , đất hiếm, môlybđen, mica,
cao lanh , đôlô mít, đá hoa. Ở đới Sa Pa
là môlybđen, quặng xạ, đất hiếm, cao lanh, đô lô mít, đá hoa. Ở đới Phăng xi
Păng là các khóang sản và quặng xạ, đất hiếm, batít, fluorit, môlybđen, chì,
kẻm, đá xây dựng, granoxienit, một vài điểm thạch cao. Ngòai ra còn có biểu hiện vàng, thủy ngân ở dạng các vạnh phân tán trọng sa tại Văn Bàn
, Bát Xát… Apatít là lọai khóang sản
duy nhất của đất nước có ở Lào Cai với trữ lượng chỉ mới ở Cam Đường đã lên đến 2.5 tỉ tấn , và chạy dài từ dưới Bảo Hà lên qúa thị xã Lào Cai đến tận
huyện lỵ Bát Xát. Mỏ sắt Quý Xa trữ
lượng 124 triệu tấn. Mỏ đồng Sinh Quyền
trữ lượng 53 triệu tấn, chiếm 70% trữ lượng quặng đồng cả nước. Mỏ
graphít ở Nậm Thi trử lượng 15 triệu tấn.
Mỏ môlybđen ở Ô Quy Hồ
trữ lượng 15 400 tấn … Các mỏ
phần lớn lộ thiên, dễ khai thác .
Tài nguyên thực vật- flora
, động vật - fauna
Rừng chiếm 2789 .07 km2
( 1 733. 05 dặm Anh vuông ) hay 278 907 ha, nghĩa là 43.87 % diện tích cả tỉnh. Trong số này 229 297 ha
là rừng thiên nhiên và phần còn
lại là các đồn điền rừng trồng lại. Rừng
Lào Cai đa dạng về thực vật nhiệt
đới ( hoa quả , thân gỗ , thân thảo – cỏ
) phong phú về số lượng lòai, đã kiểm kê
được 1195 lòai thuộc 550 tông chi và 154 họ thực vật bậc cao . Rừng bảo tồn Lào
Cai nổi tiếng chứa nhiều danh mộc gỗ
quý như
pơ mu – Fokienia hodginsii, một lọai đại mộc họ Tùng bách
- Cupressaceae , lát hoa - Chukrasia tabularis, một đại mộc
họ Xoan -Meliaceae, chò chỉ-
Hopea recopei , một đại mộc họ Dầu - Dipterocarpaceae , giổi đá- Mangletia insignis , môt đại mộc họ Dạ Hợp -Magnoliaceae và nhiều cây dược liệu.
Ở các dãy núi Phăn Xi Păng
thực vật thay đổi theo cao
độ cao độ trên 1500m
( 4000 bộ ) thường còn lại rừng .
Trên cao độ 2500 – 2800m là vùng sương
mù, rừng kiểu Elfin là nhóm thực vật
chủ trì cây mộc có bướu – gnarled
trees, lọai cây thiết sam-
Tsuga yunnanensis họ Thông -
Pinaceae cao không qúa 8m ( 26 bộ
Anh ) phủ đầy rêu. Trên 2800m ( 9200 bộ
) kích thước cây còn nhỏ hơn nữa, thường là các lọai tre nứa và đổ quyên-
rhododendrons. Công viên Hòang Liên
Sơn chỉ còn rộng 12 km2 là một rừng sống sót dưới áp lực con
người tàn phá nhiều thế kỷ qua. Cỏ hòa
bản, lùm bụi và cây nhỏ bé mọc đầy đất
đai, không còn có thể gọi là rừng nữa và nhiều
khu vực đã được khai phá trồng trọt đặc biệt là gừng.
Trên đỉnh Fansipan |
Theo một nghiên cứu của nhà sinh học Pháp Delacour tháp tùng tổng
thống Theodore Roosevelt tham quan vùng Đông Nam Á năm
1929, các động vật có vú – mammals kiểm kê ở vùng này là báo mây – clouded leopard Neofilis
nebuiosa , báo - leopard Pantherus pardus , cọp, hổ - tiger
Panthera
tigris, cầy mực -binturong Arctictus binturong , vượn đen - black gibbon Hylobatus
concolor , khỉ cụt đuôi - stump tailed macaque Macaca arctoides và gấu đen Á Châu- Asiatic black bear Selenarctos thibetanus.
Ở rừng Sa Pa đã liệt kê 150 lòai chim như cù rốc xẽ đỏ -Red vented Barbet Megalaima lagrandieri, sẽ mỏ vòng cổ - Collared Finchbill Spizixo semitoroues , sáo cười hầu trắng -White throated Laughingthrush Garrulax algogularis , chim hạt dẽ - Chestnut Bulbul Hypsipetes castaotus. Tất cả các lòai chim vừa kể thảy đều là các lòai chim đặc biệt cho miền Bắc Việt
cù rốc xẽ đỏ |
Động vật Lào Cai đã kiểm kê được
442 lòai: 251 lòai chim thuộc 41 họ, 84 lòai thú thuộc 28 họ, 73 lòai bò
sát thuộc 12 họ, 34 lòai ếch nhái thuộc 7 họ.
Đất đai
Đất đai Lào Cai phân chia ra làm 10 nhóm chánh thuộc 30 lọai . Chủ yếu là:
- Nhóm đất phù sa ven sông Eutric
Fluvisols với 6 lọai đất hình thành
trên trầm tích trẻ, nguồn gốc phù sa sông suối, dọc theo sông Hồng. Nhóm đất này có diện tích
10 530 ha , chiếm 1.47% diện tích tự nhiên tòan tỉnh.
- Nhóm đất feralic vàng đỏ Feralic
Acrisols gặp ở địa hình núi thấp, cao độ dưới 900m, phong hóa từ nhiều lọai đá mẹ khác nhau, bề
dày tầng đất thay đổi từ 0.60m đến1.20m, diện tích tổng cọng trên 365 000 ha,
chiếm trên 45 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Nhiều vùng rộng lớn lọai đất này bị
xói mòn, vì nạn đốt phá rừng.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ Humic
Ferrasols, phân bố ở độ cao từ 900 m đến 1800m. Diện tích trên 240 000 ha, chiếm gần 39% diện tích tự nhiên tòan tỉnh.
Mức phong hóa feralít ít hơn đất đỏ vàng. Phản ứng đất chua, độ no baz thấp,
nhiều mùn vì ở cao độ.
- Nhóm đất mùn alít Humic
alisols trên núi cao , cao độ từ 2000 m trở lên. Đá phong hóa yếu, tầng đất mỏng,trên cùng là
một thảm lá mục, lá lẫn rêu. Diện tích ở Lào Cai là 92 000 ha, chiếm trên 11,.5 % tổng diện tích
tỉnh nhà, phần lớn ở huyện Sa Pa.
- Nhóm đất đen carbonat Calcic
Luvisols , hình thành trên sản phẩm phong hóa của đá vôi ở địa hình sườn
dốc. Diện tích chỉ chừng 1050 ha, chiếm
0. 12 % tổng diện tích tỉnh.
- Đất mùn thô than bùn, diện tích 530 ha. Ở Hòang Liên Sơn, từ 2800m
trở lên.
- Đất đỏ
vàng bị biến đổi do trồng lúa nước, diện tích 17500 ha, chiếm 2,2 % tổng diện tích tỉnh. Là đất làm ruộng
bậc thang – terraced rice fields nổi tiếng, ở hai huyện Bắc Hà và Sa Pa.
- Đất xói mòn trơ sỏi đá, diện tích 470 ha
- Đất lầy, có độ phì nhiêu cao, diện tích 260 ha.
- Đất dốc tụ thứ sinh, phát
triễn trên các sản phẩm rửa trôi và tích
tụ của tất cả các lọai đất ở các chân
sườn và khe dốc.
Khí hậu, Thủy văn
a) Khí hậu
Vì địa hình phức tạp nhất là nhiều núi cao, nên Lào Cai có khí hậu đa dạng, phân hóa theo mùa
và khác biệt giữa các vùng. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 20 -230C
( 68 – 73 độ F ). Những vùng cao độ trên 700m có khí hậu á nhiệt đới pha ôn đới , nhiệt độ trung bình hàng năm từ
18- 280C( 64 độ đến 82 độ F ). Ở những thung lũng, nhiệt độ lên tới
300C . Riêng Sa Pa, nhiệt độ
có khi xuống dưới 00C( 32 độ F ), thậm chí có mưa tuyết.
Lào Cai có lượng mưa thấp. Trung
bình hàng năm khỏang 1400- 1500mm/ năm. Năm mưa nhiều có thể đạt 2700mm /năm
. Các vùng ít mưa nhất là Than Uyên, Sa Pa
.
Gió Lào Cai mang nhiều sắc thái địa phương. Đặc biệt ở Than Uyên có gió lốc
mạnh, ở Sa Pa có gió Ô Quy Hồ . Những dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc Đông Nam tạo ra những
bức tường thiên nhiên ngăn chặn gió bão. Vì thế
Lào Cai ít bão và ít bị ảnh hưởng
gió mùa Đông Bắc.
b) Thủy
văn
Lào Cai có sông Hồng , sông Chảy, sông Nậm Mu,
ngòi Nhu, ngòi
Bo…chảy qua . Sông Hồng là sông lớn nhất tỉnh, bắt nguồn từ Vân Nam,
chảy qua địa phận tỉnh với chiều dài 120km. Sông Chảy
chảy qua tỉnh với chiều dài 124 km. Sông
Nậm Mu 122km. Ngòi Nhu 68km. Sông Hồng và sông Chảy có lưu vực rộng, lưu lượng
nước lớn và tốc độ dòng chảy cao.
Tiềm năng nước mặt
với dòng chảy mặt hàng năm khỏang 9.5 tỉ m3, phân bố không
đều, phân hóa theo địa hình, theo mùa và phụ thuộc vào lớp phủ bề mặt đệm. Lào Cai
hiện chỉ mới sử dụng 2.25% lượng nước
đến. Vào mùa kiệt, tiềm năng khai
thác tối đa là 0.9 tỉ m3 nhưng cũng chỉ mới sử dụng 55 triệu m3
năm 2000.
Tiềm
năng thủy điện các sông suối Lào Cai khỏang
1865 MW. Đến năm 2000,
chỉ 58 có công trình thủy điện nhỏ, tổng công xuất 2397 KW, 0.13 % tiềm năng thủy điện tỉnh.
Trữ lượng tài nguyên nước ngầm Lào Cai khỏang 30
triệu m3/năm, tương đối đủ cho
các đối tượng dùng, chất lượng nước tốt, ít bị ô nhiễm. Lào Cai có 4 nguồn nước khoáng, nước nóng . Đó là các nguồn nước
sulfat, sulfat bicarbonat, nước nóng
silic, sulfua hydrogen, nhiệt độ cao trên
400C, độ khóang thấp ( 0.92-2.89g/l )
Phần II:
Lạm bàn phát triển tỉnh Lào Cai.
Hiện nay Lào Cai là một trong hai tỉnh nghèo
nhất đất nước song song với tỉnh Lai Châu ; 70 % dân chúng sống dưới mức nghèo khổ. 75 %
dân tỉnh sống ở nông thôn . Lợi tức GDP
bình quân đầu người năm 1995 chỉ bằng 45
% mức trung bình cả nước . Năm 1999, lại
thấp hơn nữa vì ngành công nghiệp và xây
dựng giảm sút, từ 22. 4 % GDP
năm 1995, xuống 20.7 năm 1999. Năm 2007, ngành công nghệ Lào Cai chỉ đạt
1916. 2 tỉ đồng so với trị gía tòan quốc là 1. 47
triệu tỉ đồng, nghĩa là 1. 3% trị gía công nghệ quốc gia. Dịch vụ dậm chân tại chỗ, không mấy thay đổi
từ khỏang 38- 39 % GDP, trong thời
gian 1995 – 2000. Nông lâm ngư nghiệp
cũng không mấy thay đổi, khỏang 40- 44% GDP Lào Cai. Theo thống kê, tính đến tháng
6 năm 2010, nông nghiệp Lào Cai chỉ
chiếm 4.3 % ( theo giá giữ cố định 1994 là 663 tỉ đồng VN) của tổng gía trị nông nghiệp quốc gia là 156681,9
tỉ đồng .
Ngành du lịch và dịch vụ Lào Cai
Các tuyến du lịch tỉnh nhà
Lào Cai
không chỉ huyền diệu với các thắng cảnh thiên nhiên mà còn đầy hấp dẫn với các
lễ hội, di tích và các phiên chợ vùng
cao. Lào Cai có nhiều tiềm năng để phát
triễn du lịch với những Thác Bạc, Cầu
Mây, hang động Tả Phìn, chợ tình Sa Pa, nước khóang Tắc Kô, chợ phiên Bắc Hà (
thị trấn Bắc Hà cách Sa Pa 80km ), lâu đài Hòang Yên Chao ở bản Nà Hối Thổ
thuộc huyện Bắc Hà , quần thể hang động
Mường Vi ở huyện Bát Xát, suối thác Cốc
San ở phía Tây Nam thị xã Lào Cai v.v…
Tính ra sơ bộ hàng năm có đến 24
lễ hội các tộc dân sinh sống ở Lào Cai: hội chơi
núi mùa xuân của tộc dân H’Mông ; tết « Nhảy » của người Dao đỏ ; hội « Gầu Tào » của người H’Mông ; hội « Lồng Tồng » của người Tày ở Văn Bàn, Bắc Hà ;
hội « Rồng Bọoc » của người Giáy ở Cam Đường ; hội «Khu già già » của người Hà Nhì ở Bát Xát ; hội xuống đồng của các tộc dân Giáy, Phù Lá. Mỗi lễ hội đều có nét riêng,
nhưng lại có chung những sắc thái văn hóa, tín ngưỡng từ xa xưa cư dân còn
giữ được cho đến ngày nay .
Sa Pa
Sa Pa là
một huyện vùng Thượng Du tỉnh Lào Cai,
một khu nghỉ mát trứ danh của Việt Nam ở cao độ 1500 -1600m trên mặt biển. Huyện
Sa Pa chứa đỉnh Phăng Xi Păng cao nhất nước
3143 m như đã nói trên. Huyện cũng
có rất nhiều truyền thống của 6 tộc dân chánh trong tỉnh, đặc biệt là hai nhóm
H’Mông ( Mèo - Miêu ) và Dao ( nguyên là Mán ) có 47 634 người, chiếm 78.2 dân số huyện. Ngòai tộc dân H’Mông đông
nhất huyện Sa Pa (52.7 % ) và Dao ( 25.5% ),
4 tộc dân chánh khác là Kinh (
13.6 % ) , Tày ( 5.27% ) , Giáy ( 1.65 %
) và Xa Phô ( 1.25 % ).
Tuyết rơi ở Sapa |
Nhờ các đặc
điểm khác biệt về địa chất, khí hậu, truyền thống làm việc các tộc dân
địa phương, trên diện tích tự nhiên tòan huyện là 67 864 ha là nơi có những
quần cư, nét sinh họat khác biệt các văn hóa tộc dân, chứa những lòai thực vật
và động vật hiếm có ở Việt Nam và trên thế giới, cũng đã nói sơ qua ở phần I. Vào
thập niên 1920, người Pháp đã thiết lập Sa Pa thành nơi nghỉ mát. Từ thập
niên 1990, Việt Nam đã cố tâm đầu tư và kêu gọi ngọai quốc đầu tư thêm, hầu biến Sa Pa thành một thành phố nghĩ
mát cở Đà Lạt. Nhắc lại là đến năm 1939, tuy thực dân Pháp cố hạn chế
người Kinh lên Tây Nguyên ( cả Đà Lạt,
Buôn Mê Thuột … ) , Đà Lạt đã có 427 biệt thự xinh xắn một hai tầng, đầy
đủ tiện nghi , xây cất theo nhiều phong cách
kiến trúc, nép trong bóng lá hoa trái cây vườn xứ mát ; ít ai còn
nhớ là thập niên đầu thế kỷ thứ 20, Đà
Lạt chỉ mới có độ « mươi nếp nhà
tranh với mươi tá lưu dân Kinh » so
với hơn chục vạn dân năm 1939. Càng ngày
càng có thêm tộc dân Kinh ( Việt ) lên
cư trú, mở rộng khí hậu, lịch sử và văn hóa Sa Pa. Trong 5 tuyến điểm du lịch
Lào Cai, tuyến 1: Lào Cai – Sa Pa
với 5 tuyến phụ và hai điểm du lịch quan
trọng là thị xã Lào Cai và thị trấn Sa Pa. Lọai hình tuyến phụ Lào Cai – Sa Pa là
du lịch tham quan, nghĩ dưỡng.
Sa Pa là một thị trấn nghĩ mát đẹp và thơ mộng nằm
ở cao độ 1600m so với mặt biển, cách Hà Nội 333 km, cách thị xã Lào Cai 38km. Khí
hậu Sa Pa mát mẽ quanh năm, nhiệt độ trung bình
hàng năm từ 150 đến 180 C. Mùa hạ không nắng gay
gắt như vùng đồng bằng ven biển. Mùa đông thường có mây mù bao phủ và rất lạnh,
nhiệt độ có khi xuống dưới 00C như đã biết, có năm tuyết rơi. Thời tiết ở Sa Pa một ngày có 4
mùa : sáng, chiều là thời tiết mùa xuân, mùa thu ; buổi trưa là thời
tiết mùa hè, thường có nắng nhẹ, trời quang mây, nhưng khí hậu vẫn dịu mát; đêm
đến trời lạnh là thời tiết mùa đông. Từ năm 1922, thị trấn Sa pa đã có
nhà nghỉ mát, có sân quần vợt, bể bơi, nhiều biệt thự của cư dân Pháp bảo hộ Bắc Kỳ, không bao
nhiêu là của dân Kinh như ở Đà Lạt.
Theo Lê Hửu ( Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989 –
1995), nếu Đà Lạt là vùng thông reo, thì
Sa Pa là vùng dáng đứng cây tùng bách đại mộc Pơ Mu. Pơ Mu là một cây to, khỏe, gốc tới hai ba ngưoi ôm mới xuể. Xẽ ra, gỗ Pơ Mu màu ngà, hương thơm chỉ kém
trầm đôi chút. Nếu làm cột nhà chôn xuống đất
100 năm gỗ cũng chưa mục. Muốn du
ngọan đến núi Phăng xi Păng, trước tiên
phải từ Sa Pa đi qua đèo Ô Qui Hồ, sang tới Bình Lư ( thuộc
tỉnh Lai Châu )là đã đi được nữa vòng quanh phía Bắc ngọn núi cao nhất nước rồi
đó. Từ Sa Pa đi Ô Qui Hồ, sẽ gặp những
thác nước trắng xóa trên vách núi đổ xuống. Hoa phong lan đủ lọai treo lơ lững
trên đầu. Ô tô thong thả lăn bánh trên con đường trải nhựa, vắt vẻo bên sườn
núi rồi đổ dần xuống cánh đồng Bình Lư .
Sa Pa là hoa và người và Sa Pa cũng là hoa
và chợ . Vì ở vĩ tuyến xa hơn Đà Lạt về phía Bắc, tuy cùng cao độ, nên cây trái cần yêu cầu lạnh nhiều hơn, ở Sa Pa có phần mọc tươi tốt hơn chăng ? Mận tây- plum Đà Lạt ít hơn, chua hơn,
trái nhỏ hơn là mận Sa Pa, gồm luôn cả mận Tả Van( Tà Vân ? ), Tam Hoa
nổi tiếng của huyện Bắc Hà . Nhưng nổi tiếng hơn là đào (lông) – peach Sa Pa . Đặc biệt là giống đào Mèo( H’ Mông ). Các vườn đào Sa Pa do
địa hình tự nhiên, có mảnh mặt bằng như chiếu trải, có mảnh bám vào sườn non cao dần lên. Vào mùa
hoa, lớp lớp hoa đào là một tấm thảm hồng khổng lồ, phủ từ trên xuống, rung
rinh gợn sóng nếu gió thổi đều. Lạc vào
những vườn đào này, bạn sẽ cảm giác như lạc vào
vườn đào tiên. Đào Sa Pa có nhiều
lọai. Lọai trái to, mùi thơm vị ngọt man mát như lê miền xuôi. Lọai trái hơi
nhọn, khẻ nếm đã ngon rồi. Cuối mùa, có đào vàng thịt vàng
lợt, hơi xôm xốp, bổ ( cắt đôi ) ra thịt và hột dễ tách rời, ăn
giòn. Dân vùng ca ngợi nhất là đào Mèo . Lọai này trái to, da đỏ ửng tự
nhiên, có trái nặng 100- 140 gr, nếm thấy hơi chua chua, thanh nhẹ hợp khẩu vị
giới trẽ. Nhưng cũng không bỏ quên màu sắc trắng xóa hoa mơ, hoa mận… Sa Pa. Nay có
thể thêm sắc màu hồng lợt nhiều
lọai hoa mơ, hoa đào anh đào xơ ri Nhật, sắc màu vàng hoa dã quì địa phương cùng các lòai hoa hướng dương thật sự hột có
thể nướng ăn như hột dưa hấu, hoa hoàng yến – chuỗi vàng thay cho Mimosa Đà Lạt ( có nhiều ở các chùa Vạn Tượng ), phượng vĩ
vàng, hồng hoa vàng, cúc vàng đại đóa, thược
dược, cẩm chướng, hoa bướm học trò – pansies. pensées , trà hoa vàng
và đổ quyên vàng, phong lan vàng địa phương ? v.v…
chợ tình Sa Pa |
Mùa đào nở
cũng là mùa chợ vui. Nổi tiếng từ lâu là chợ tình Sa Pa , một nét văn hóa đẹp lâu đời nên trân trọng gìn giữ.
Khác hẳn chợ dục tình –sex
market thị xã Lào Cai rất phổ biến với đàn ông Trung Quốc, mệnh
danh là nơi Zhao Xiao jie – Triệu Tiểu giới ? (Tìm Gái-
Looking for Girls ). Ở chợ tình Sa Pa, các cô gái Hmông mặc váy, áo xẽ ngực, có yếm lưng, một tấm vải che váy
phía trước, thắt lưng và vuông vải
nhỏ che lưng đằng sau, chân quấn xà cạp.
Chiếc váy xếp nhiều nếp , mỗi khi bước, váy xòe ra như sóng lượn. Trước đêm về
chợ, một thanh niên Mèo nào đấy dùng
khèn, đàn môi mời gọi bạn
tình :
Người yêu đang nữa đêm,
Say sưa trong giấc ngủ .
Đàn môi
bạn tình ai này réo rắc bên ngòai …
Câu dân ca H’Mông đi theo điệu khèn làm đêm
xao xuyến ! Chợ họp dưới một bầu trời hoa đào, khó mà cầm lòng được, nhất là
phiên chợ kéo dài cho đến khi trăng lên. Một tốp cô gái H’Mông chụm vào
nhau đã là một chùm hoa đào rồi. Một
chàng trai H’Mông trịnh trọng đến gỏ vào
ô ( dù ) của cô gái , nếu cô gái bằng lòng
thì thổi kèn môi đáp lại. Nếu không đồng ý thì chiếc ô được cụp xuống “ nhẹ nhàng”. Nếu
hai bên đều “ cảm” thì tiếng hát bắt đầu.
Rồi chàng trai tặng hài sảo, ô, khăn mặt, dây thắt lưng, dây xích bạc và có thể
một chiếc gương soi. Cô gái e thẹn tặng lại
chàng trai vòng tay , chiếc nhẫn hay cả bộ xà cạp nữa. Chợ tình cũng là
nơi trao duyên đổi phận của thanh niên nam nữ tộc Dao. Coi chừng là chợ tình
Mèo -Dao Sa Pa có khuynh hướng biến thành chợ dục tình
đàn ông, đặc biệt cho du khách Trung Quốc như ở thị xã Lào Cai !
Một mùa cảnh đẹp nên đến tham
quan Sa Pa
là lúc thu họach lúa gạo khỏang từ tháng 9 đến tháng 11. Lúc này
ruộng có hai sắc màu xanh, vàng
và y phục đàn bà phụ nữ các tộc dân
thiểu số pha lẫn thêm hai màu đỏ và chàm - indigo nữa.
bải đá cổ Sa Pa |
Giải mã bí ẩn Bãi đá cổ Sa Pa |
Tuyến 3 Lào
Cai - Cam Đường- Võ Lao-thị trấn Khánh Yên - Hòa Mạc - Dương Quý – Minh Luơng chưa mấy phát triễn. Lọai hình du lịch chánh tuyến 3
là du lịch sinh thái, như tham quan khu rừng nguyên sinh Dạ Lan, rừng
quế Chiềng Ken …Tuyến 2 Lào Cai- Bắc
Hà khá hơn. Năm 2000, chỉ có 27 000 du khách đến viếng thăm. Nhưng
năm 2005 đã đón chào được 50 000 du khách. Ngày nay, dịch vụ du lịch đã
chiếm trên 17 % cơ cấu kinh tế huyện Bắc Hà, dần dần xác định dịch vụ là then
chốt cho phát triễn kinh tế huyện nhà, cho xã hội địa phương.
Huyện Bắc Hà rộng 67 872 ha. Nơi cư trú của 14 tộc dân, có khí hậu
mát mẽ, có nhiều rừng thông reo, với khí
hậu ôn đới Bắc Âu. Thiên nhiên đã tạo dựng cho Bắc Hà nhiều tiềm năng du lịch, các
lọai hình nghỉ mát, nghỉ dưỡng, sinh thái, văn hóa và thể thao mạo hiểm. Huyện Bắc Hà gồm thị
trấn huyện lỵ Bắc Hà và 20 xã là Bản
Phố, Bản Liền, Bản Già, Bảo Nhai, Bản Cái, Cốc Ly, Cốc Lầu, Nậm Mòn, Nậm Khánh,
Nậm Đét, Nà Hối, Lầu Thí Ngài, Lùng Phìn, Lùng Cái, Tả Củ Tỷ, Tả Van Chư, Tà
Chải, Thải Giàng Phố, Hòang Thu Phố , Nậm Lúc.
Dân số tòan huyện là 48 988 người ( 2003 ). Lâu đài Hòang A Tường khởi công xây dựng năm 1919 và hòan tất năm 19 21 ở Bản Nà Hối Thổ, dân dịa phương quen gọi là “ Vua Mèo- King of the H’ Mong” tên một người thậtt sự thuộc tộc dân Tày Pháp gọi là Hòang Yên Chao, cha của Hòang A Tường , cai quản lảnh thổ Bắc Hà thời Pháp bảo hộ. Nơi đây
70% dân chúng là tộc dân H’ Mông
sinh sống. Ngày nay chánh quyền Việt Nam đang trùng tu lại lâu đài có
kiến trúc tương tự một lâu đài - castle,château cũ kiểu Pháp, Âu Châu. Tuy
nhiên không giữ lại nhiều chi tiết, chẳng hạn các nấc thang đi ra ngòai ở tầng
thứ hai đã bị đóng xi kín. Những
nơi làm bằng rơm, tre màu ngà sơn vôi hay
màu nước mơ mai sẽ không chịu đựng nổi thời gian quá 80 năm. Lâu đài vua Mèo
còn chứa những sự ghi nhớ về Hòang Yên Chao, tỉ như trường kỷ - couch và gương tường kiểu Tàu.
Ngòai ra nên kể ra ba đóa hoa gỗ, tồn tại lâu nhất trong lâu đài. Đã đến Bắc Hà
thì phải đi chợ phiên -market fair có đặc điểm độc đáo địa phương Bắc Hà.
Cư dân nơi này phải đến chợ từ sáng sớm tinh sương hay ngày hôm trước và ở lại đến trưa hôm sau. Chợ
thường trên sườn dốc, nhưng nay các chợ mới xây cất bê tông đã chia ra làm nhiều nơi buôn bán khác nhau, làm
mất đi phần nào nét đẹp rộn rã xa xưa. Chợ Bắc Hà là nơi buôn bán tất cả sản phẩm miền thượng du, cần thiết cho vùng : cày, cuốc,
xuổng ( thểu ),
dao, rau đậu trái cây, mật ong . Riêng cho du khách thì có áo gấm đọan các tộc dân huyện nhà, đồ nữ trang địa
phương… rất hấp dẫn . Đồ gấm là những cấu tạo, mô hình độc đáo, sáng chói của áo phụ nữ, đàn bà trẻ hai tộc dân Mèo và Dao, hình vẽ thêu tay, màu
sắc sặc sở … Một đĩa ăn độc đáo khác các chợ vùng thượng du là cháo thịt ngựa – soup horse của vùng Tây Bắc nước nhà; nồi cháo luôn luôn
để trên chảo nóng cũng như những chai rượu không bao giờ để cạn.
Rựou H’ Mông là đặc sản xã Bản Phố, rất
mạnh và nồng cay. Ngựa Bắc Hà hút dẫn nam nhân, từ bản thôn xa xôi đến đây, có khi từ các tỉnh
Bắc Giang, Hà Tây … đến mua ngựa chở về xuôi, về đồng bằng.
Các
tuyến du lịch, phát triễn kinh tế, thương mãi
Việt Nam
và Trung Quốc qua các cửa khẩu quốc tế, quốc gia
Lào Cai có 206 km đường biên giới
với Trung Quốc. Năm 2000, trên đường biên giới này đã mở cửa khẩu quốc
tế Lào Cai và các cửa khẩu quốc gia
Mường Khương và Bát Xát. Tuyến 4: Lào
Cai - Bản Phiệt- Mương Khương-Lào Cai, nhắm
các lọai hình du lịch chánh là tham quan cửa khẩu, du lịch sinh thái, du
lịch thám hiểm. Tuyến 5: từ Lào
Cai nhắm nhiều hơn vào du lịch quốc tế từ Lào Cai đi Châu Hồng Hà, Vân Nam, tổ
chức khách du lịch tham quan cửa khẩu Lào Cai qua Hà Khẩu Trung Quốc đến thắng cảnh nổi tiếng Yên Tử Đông, rồi thành
phố Côn Minh của tỉnh Vân Nam.
Quan trọng nhất là cửa khẩu Lào Cai có chức năng kiểm tra,
giám sát và làm thủ tục thông qua cửa
khẩu, phát triễn thương mãi, làm dịch vụ xuất
nhập khẩu quá cảnh hàng hóa, kho vận
ủy thác xuất nhập khẩu, kinh doanh tạm nhập, tái xuất, đại lý bán hàng
cho Trung Quốc và cho các tỉnh ở Việt Nam. Năm 1999, Lào Cai chỉ mới xuất khẩu
3.2 triệu đô la Mỹ tuy đã tăng
gấp 1. 7 lần hơn so với năm 1995 và nhập khẩu 2.35 triệu đô la so với 892 000
đô la. Năm 2011, thương mãi Vân Nam qua Việt Nam phần lớn là qua Lào Cai đã đạt
1 213 triệu đô la, tăng trung bình 20 %
mỗi năm. Vân Nam là khách hàng mua đứng thứ hai và đứng thứ ba về hàng bán trong thương mãi với nước
nhà . Năm 2001, Việt Nam
nhập khẩu từ Trung Quốc trị giá 200
triệu đô la Mỹ trội hơn xuất khẩu sang Trung Quốc. Cuối tháng chạp năm 2008, việc
cắm mốc theo thỏa hiệp biên giới hai nước đã xong (? ) , tuy Việt Nam vẫn còn
đòi Trung Quốc trả lại vài lảnh thổ
Trung Quốc chiếm đóng sau khi rút lui năm 1979 đặc biệt ở Cao Bằng, Lạng Sơn và
Quảng Ninh ( ? ). Năm 2008, sai biệt xuất
nhập Trung - Việt vẫn rất lớn; Trung
Quốc nhập khẩu từ Việt Nam chỉ trị giá 928 triệu đô la, trong khi Việt Nam nhập
khẩu từ Trung Quốc lên đến 4. 229 triệu đô la. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chánh sang Trung Quốc, năm 2008, là
cao su thiên nhiên ( 838 triệu ), than đá anthracite ( 650 triệu) và đường mía – sugar ( 64 triệu ). Năm
2010, Việt Nam đã tăng xuất khẩu sang Trung Quốc lên đến 7.3 tỉ đô la, nhưng mức nhập khẩu hàng
hóa Trung Quốc năm 2010 cũng tăng mạnh
lên đến 20.2 tỉ đô la, sai biệt xuất nhập vẫn còn rất cao: 12,7 tỉ đô la. Tuy vậy cũng còn kém hẳn mức giao thương năm
2010 giữa Thái Lan và Trung Quốc là 52.3 tỉ và cán cân nghiêng hẳn về Thái Lan xuất khẩu
sang Trung Quốc 32.2 tỉ mà chỉ nhập khẩu
19. 75 tỉ. Dù thua kém Thái Lan, tỉ lệ tăng trưởng Việt
Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, kể từ năm 2007, đã luôn luôn cao hơn mức tỉ lệ
tăng trưởng nhập khẩu. Các doanh nghiệp
Việt Nam đã nhận thức tiềm năng khổng lồ của thị trường Trung Quốc và Việt Nam
cũng đã hiểu rỏ là dễ dàng tăng xuất khẩu sang Trung Quốc hơn là sang các nước khác ( theo Đào Ngọc Chương, Cục trưởng Cục Á Châu – Thái Bình Dương, Bộ Công Nghệ và
Thương Mãi, tháng 12 năm 2011 ). Một điểm đáng chú ý là từ năm 1991 đến
năm 1997, thương mãi Việt Trung phần lớn qua biên giới,
cửa khẩu. Nhưng nay tình thế đã thay đổi,
thương mãi qua kênh chánh thức giữa hai
nước đã trở thành liên hệ thương mãi chánh. Năm 2010, buôn bán qua biên giới
chỉ còn 10 tỉ đô la, trong khi tổng số xuất nhập giữa hai nước đã đạt gần 30
tỉ, nghĩa là 3 lần hơn xuất nhập qua biên giới. Các buôn bán các doanh vụ Việt Nam
cũng thay đổi. Trước đây doanh vụ Việt Nam
nhắm vào các thương thảo nhỏ bé, chỉ nghĩ đến mang hàng hóa tới các vùng
biên giới bán cho các thương gia Tàu.
Nay họ muốn biến chế để cọng thêm
giá trị cho sản phẩm. Trường hợp
điển hình là xuất khẩu qua biên giới tủ, giường, bàn
ghế đồ mộc… thay cho gỗ xẽ tới Bình (
Bằng) Tường- Ping Xiang, khu tự
trị tộc dân Tráng – Choang tỉnh Quảng Tây-
Guangxi Zhuangzu zizhiqu. Không rỏ Lào Cai nay đã xuất khẩu bao
nhiêu đồ mộc pơ mu thay cho gỗ pơ mu sơ chế và các lọai gỗ xẽ khác ? Trên phương diện quốc gia, các nhập khẩu
chánh từ Trung Quốc là thép, nguyên liệu
cho ngành may mặc, thuốc sát trùng và phân bón hóa học, giá trị đến khỏang 12 tỉ đô la. Những ngành
công nghệ này đang phát triễn ở nhiều tỉnh Việt Nam , Riêng Lào Cai là nơi có mỏ apatit ( chế tạo
phần lân P ở phân hổn hợp NPK… ) duy nhất nước nhà, có thể dùng thêm đạm tổng
hợp chế tạo từ khí dầu ở các nhà máy Bà
Rịa, Cà Mau, từ đạm than đá ? ở nhà máy xưa cũ Bắc Giang chế tạo phân bón hóa
học hổn hợp NP . Lào Cai cũng có
quặng mỏ sắt khá lớn, có thể thiết lập nhà máy tinh luyện ra gang, ra thép ?
Phát triển giao thông và thủy điện
Đến năm 1999, Lào Cai có tổng chiều
dài quốc lộ và tỉnh lộ là 708.5 km và
1000 km hương lộ. Chiều dài các quốc lộ 70, 4E, 4D, 279 … là 473 km . Chiều dài các tỉnh lộ là 295.5
km. Hiện nay hệ thống đường bộ Lào
Cai thuận tiện nhất cho việc vận chuyễn giao lưu kinh tế trong và ngòai tỉnh. Vai trò đường xe lữa Hà Nội -Lào Cai mỗi ngày thêm quan trọng. Thị
xã -Lào Cai có thêm liên lạc với Vân Nam và Hà Nội
bằng đường sông. Tổng chiều dài đường sông
là 274 km; Lào Cai có 2 cảng sông ở thị xã Lào Cai và Bảo Hà, nhưng khả
năng chuyễn vận đường sông Lào Cai hiện
rất giới hạn.
Sau đây là lịch sử đáng kể ra về đường xe lữa Côn Minh -Hải Phòng
hay đường xe lữa Việt -Trung, dài 855 km, chiếu theo tài liệu Wikipedia ngày
29 tháng tư năm 2012. Thọat tiên, đường
được tòan quyền Đông Pháp Jean Marie de Lanessan quan niệm, phát họa. Sau đó được tòan quyền Đông Pháp Paul Doumer thúc đẩy
Pháp xây cất từ năm 1898, hòan thành năm 1910.
Khúc đọan ởTrung Quốc dài 466 km ( 290 dặm Anh ) kéo dài từ thủ phủ Côn Minh tên cũ là Vân Nam phủ, cao
độ 1900m ( 2600 bộ Anh ) xuống đến thị trấn Hà Khẩu, cao độ chỉ còn 76 m( 2 29 bộ ). Khúc đọan Việt Nam dài 389 km ( 242 dặm Anh ) chia ra làm hai: đọan đường sắt Hà Nội -Lào Cai dài 296 km ( 184 dặm Anh ) và đọan
Hà Nội - Hải Phòng dài 102 km (
63 dặm Anh) , cùng chung nhiều đường rầy ở
ga Gia Lâm , gần trung tâm Hà Nội.
Đọan Hà Nội - Hải Phòng khởi công năm
1900, nhưng lại xong trước nhất. Cầu
Long Biên có mục đích không làm gián
đọan giao thông trên đường xe lữa Việt-Trung
khởi sự năm 1898 và khánh thành năm 1902
. Cầu Long Biên dài 1 668m, còn có tên là cầu Paul Doumer
lúc đó là cầu lớn nhất Đông Nam Á. Cầu cao hơn mặt nước 13 m gồm 18 cột trụ, chân
trụ đào sâu xuống hơn 30 m dưới đất bải
sông, các nhịp cách nhau dài từ 78 m
đến 106m. ( theo Hulot và al.- 1990 ).
Cầu Long Biên Xưa |
Khúc
đọan Hà Nội- Lào Cai chia ra làm nhiều chặn. Chặn đầu khởi công năm 1903, đến
Lào Cai ( ngang qua sông Nậm Ti chảy từ
Hà Khẩu ) năm 1906. Và từ năm 1906 đi
qua sông đến Côn Minh năm 1910. Khúc đọan Lào Cai- Côn Minh xây
107 cầu cạn – viaducts , đa số bằng thép, đôi khi bằng đá và 155
hầm. Cầu cạn chế tạo ở Pháp và chuyễn
đến tại chỗ bằng súc vật hay người đẩy. Giữa các cây số 104 và 127, đường leo dốc từ 500m đến
100m xuyên qua 59 hầm, nhiều hầm nối nhau bằng cầu cạn. Paul Doumer hy
vọng là sử dụng đường xe lữa này làm phương tiện chiến lược quân sự chiếm Vân Nam ,
nhập vào Đông Pháp . Nhưng mộng không thành
vì trí óc nguội lạnh của chức quyền Pháp tại Paris
và dân Tàu chống đối khi bắt đầu đo đạt,
nghiên cứu phần Vân Nam .
Như chúng ta đã biết năm 1900 có
lọan Nghĩa Hòa Đòan- Boxer Rebellion
ở miền Bắc Trung Quốc . Xây cất đường rầy lúc
đó vô vàn khó khăn vì các điều kiện làm việc khổ sở, núi non hiểm trở ở Vân Nam
và sốt rét hòanh hành trong vùng ( theo báo cáo của Clement, thời gian này Vân Nam có
tỉ lệ sốt rét cao nhất các tỉnh nước Tàu ). Trong số 60 000 lao công - cu li tuyễn mộ làm đường xe lữa này ít nhất là 12 000 đã bỏ mạng, 10 000 ở thung
lũng Nậm Ti ( năm
1909, Nhật Báo Bắc Kinh tuyên bố có phần
phóng đại là đến 40 000 chết ). Ít nhất là 80 kỷ sư, cán sự, nhà thầu…Âu châu
cũng đã chết trong công trình này về bệnh tật hay tai nạn xây cất. Nguồn gốc
hung dữ của đường xe lữa Việt –
Trung trở thành một tượng trưng tai họa
Trung Quốc bị ngọai quốc chủ trì dày xéo và
đối với Pháp là một nguyên nhân suy
nghĩ tủi nhục hay kiêu hảnh. Còn đối với trí thức Việt Nam đương thời là thảm họa chết người do đế quốc gây nên, không
kém vụ
cò tây Bazin tuyển cu li Bắc kỳ
vào thiết lập khai thác các đồn điền Pháp cao su đất đỏ Nam Kỳ. (
theo Lâm – 2000 trích báo mật Lao Nông- Workers and Peasants underground
newspaper, năm 1927 ).
Khổ
đường là 1 m, như mọi đương rầy thời đó. Nay ở Trung Quốc, khúc đọan Côn Minh-
Hà Khẩu là một khúc đọan chánh duy nhất còn khổ đường
hẹp như vậy. Tuy nhiên, nhiều cơ cấu xây cất
có đặc điểm họa kiểu tân tiến thời trang nhất để
thông qua những khó khăn địa hình, như các cầu theo khâu ren - lace bridge, pont en dentelles, các
cầu nỏ bắn – thanh rui- bridge on rafters,
cross bow, pont sur arbalétriers . Ngọan mục nhất là cầu nỏ bắn Nậm Ti Giả - Faux Namti
hay cầu Wujia zhai, treo lũng lẳng hai
bên vách đá thẳng đứng ở cây số 111 bắt
qua suối dưới cầu 100 m và hai hầm. Cầu
khâu ren cong vòng, có tám trụ ở cây số 83.
Chuyễn vận ở đường xe lữa Việt -Trung rất
khiêm tốn, mãi cho đến thập niên 1930, mới tăng mau chóng giữa năm 1937 đến năm 1940, vì là đường cứu sống chánh phủ Quốc Dân Đảng Tàu
ở Trùng Khánh – Chongqing. Từ năm 1937
đến năm 1940 đường sắt Côn Minh – Hải Phòng tăng chuyên chở từ 3000 tấn/năm
lên đến 30 000 tấn /năm, phân nữa là vỏ khí, nhiên liệu và vật dụng Đồng Minh
cung cấp cho Trung Quốc. Đó cũng là lý
do quân đội Nhật dội bom và sau đó Pháp Vichy
phải nhượng bộ Nhật và đóng cửa. Đọan đường 178 km bị Nhật phá hủy lúc Nhật chiếm đóng Trung Quốc và chỉ được trùng tu sau các năm
1956- 1958 ( theo Piper Rae Gaubatz, báo chí viện đại học
Stanford – 1996 ). Chiến dịch Sấm Rền
- Thunder từ tháng 3 năm 1965 đến tháng 11 năm 1968 cũng như
chiến dịch nhỏ hơn Linebacker II năm
1972, cũng phá hủy nhiều cầu và cắt đứt nhiều như
đọan Hà Nội- Yougyiguan- Hửu
Di Quan ( hay Hà Hửu ) hay đọan Hà Nội- Lào Cai hay ( Hà – Lào ). Cuối tháng sáu năm 1965, công binh quân đội nhân dân Tàu vào Việt Nam giúp sửa
chửa lại đường xe lữa và quyết định thay
đường rầy khổ 1m thời Pháp rất khó
kiếm thành các đường tiêu chuẩn 1435 mm , bằng cách thêm một đường
rầy thứ ba vào đường rầy 1m, có khả năng tăng gấp đôi
chuyễn vận. Sau 757 000 ngày công, ngày 23 tháng 12 năm 1965 , công binh Tàu đã
sửa xong 363 km hai đường xe lữa Khả năng chuyên chở đọan Hà Nội- Hửu Di Quan tăng thêm từ 1.4
triệu tấn/ năm lên đến 2.8 triệu tấn. Tái
thiết còn xây thêm nhiều ga, cầu và hầm. Khúc Đông Tây này nối liền
Hà Nội- Thái Nguyên với các đường
Hà Nội –Hà Hửu. Công binh cũng phát họa thêm
một đường xe lữa khác theo tiêu
chuẩn quốc tế từ Kép đến Thái Nguyên nối
liền Hà Nội- Thái Nguyên với đường Nam Bắc
Hà Nội - Hà Hửu. Ngày 11 tháng 8
năm 1967, Không lực Hoa Kỳ dội bom nặng nề cầu Long Biên. Quân đội Tàu họat động ngày đêm và sửa chửa xong trong
vòng 8 ngày. Quân đội Tàu ước lượng là
từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 10 năm
1968, máy bay Mỹ đã thả 288 000 tấn
bom dọc theo đường xe lữa này. Công binh
Tàu chỉ rút khỏi miền Bắc năm 1970. Cuộc
chiến Việt - Trung năm 1979 đã đóng cửa
biên giới kể cả đường xe lữa; đặc biệt cầu nối liền
Lào Cai và Hà Khẩu bị phá họai. Năm 1980, đoạn Côn Minh – Hà Khẩu được
xây lại theo khổ 1m. Đường xe lữa Vân Nam
- Việt Nam chỉ được mở lại năm 1993. Nhưng
lúc đó, phải xuống tàu đi bộ qua hai bên
biên giới. Mở lại hòan tòan đường xe lữa này
tháng 2 năm 1996 là một sự cố đáng nghiên cứu về vấn đề lảnh thổ biên giới. Lý do chánh không mở lại thông thương sớm hơn vào thập
niên 1990 là vụ tranh
chấp 300 m giữa hai
tỉnh Quảng Tây và Lạng Sơn, dù cho đường
xe lữa nối Bằng Tường và Đồng Đăng đi ngang qua vùng tranh chấp này. Vì
chưng vùng do Trung Quốc kiểm sóat, phần đường xe lữa chay qua ngang đó được Trung Quốc tái
thiết và họat động. Dù Việt Nam có đôi
chút nhượng bộ, cho phép Trung Quốc kiểm sóat, xử lý đọan này đi nữa, Việt Nam
luôn luôn đòi hỏi Trung Quốc phải trả lại cho mình. Một thỏa hiệp “nguyên tắc
“ về
“chuyễn vận” xe lữa đạt được, khi
Đổ Mười Tổng thư ký đảng Cọng Sản Việt
Nam đến thăm viếng Trung Quốc từ 26 tháng 11 đến 2 tháng 12 năm 1995. Bàn thảo
xảy ra giữa bộ Xe Lữa Trung
Quốc và bộ Giao thông - Chuyên chở Việt Nam và các thủ tục quan thuế được tuyên bố
tháng giêng năm 1996,. Tiếp theo
là sửa chửa, nâng cấp đường, để có thể tiến hành giao thông ngày 14 tháng hai năm
1996. Việt Nam chịu mở Đồng Đăng, Lào Cai và Trung Quốc chịu mở Bằng Tường và Sơn Dao – Shan yao ,
nghĩa là cho nối hai tỉnh Lạng Sơn, Quảng Tây
và hai tỉnh Lào Cai , Vân Nam.
Trước năm 2000, tàu xe lữa khúc đoạn Côn Minh- Hà Khẩu chuyên chở hành khách
một tuần hai lần, nhưng từ năm 2000 chỉ dùng chuyên chở hàng hóa vì tàu hành
khách hay chậm trễ, nhiều nơi bị nhiều
lở đá lấp đường. Phía Việt Nam ,
tàu tiếp tục chở cả hành khách lẫn hàng hóa, có
thể nay đã chuyễn vận 1 triệu tấn hàng hóa /năm
và hàng ngàn hành khách một ngày. Việt Nam đã khởi sự điện hóa, mở rộng
khổ đường… xây đường xe lữa cao tốc Lào Cai - Hà Nội- Hải Phòng qua một ngân
khoản cho vay tiền lời nhẹ của Ngân Hàng Á Châu -ADB . Đọan Yên Viên ( gần Hà Nội ) – Lào Cai, cũng
trong khuôn khổ tiền vay ADB ( nhưng do
Pháp tài trợ) 160 triệu đô la; dự trù khởi công năm 2004 và hòan tất năm 2009, cùng
một thời gian với xe lữa cao tốc Yên Viên -Cái Lân, trị giá 450 triệu đô la. Cái Lân là một cảng
vùng Hải Phòng, khả năng chuyên chở 4 triệu tấn /năm và tàu trọng tải 40 000 tấn
cập bến được.
Express way Nội Bài- Lào Cai |
Quan trọng hơn nữa là đường bộ cao tốc – Express way Nội Bài- Lào Cai , từ
phi trường Nội Bài, huyện Sóc Sơn , thành phố Hà Nội ngang qua các tỉnh
Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái và chấm dứt
ở huyện Bảo Thắng, biên giới Lào Cai – Trung Quốc. Ký kết ngày 14 tháng
12 năm 2007, ADB chấp thuận cho vay 1096 triệu đô la Mỹ để tài trợ thực hiện Hành Lang
Chuyễn vận Côn Minh -Hải phòng
Transport Corridor , trong khuôn khổ Vùng phụ Sông Mê Kông Nới
Rộng – the Greater Mekong Subregion, GMS
. Dự trù khởi công năm 2008 và hòan tất năm nay 2012. Việt Nam dự trù thiết lập cao tốc này
theo 2 giai đọan. Giai đọan 1 dự án ,
làm xa lộ 4 lằn ( mỗi bên 2 lằn ) từ Nội Bài đến Yên Bái, dài 121 km và 2 lằn ở
đọan Yên Bái -Lào Cai, dài 123 km. Giai
đọan 2 mở rộng đoạn Nội Bài -Yên
Bái thành xa lộ 6 lằn và đọan Yên Bái-
Lào Cai thành 4 lằn. Riêng đoạn cao tốc ở huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai, dài 24. 155 km, phải xây một ngã ba –
interchange (có đường hầm và hầm chui)
39 đường ngầm -underpasses
( dưới đường hầm hay đường cái khác ), 9 cầu chánh và 1 vùng dịch vụ ở giai
đọan 1.
Thủy điện
Điện, nước sạch là hai hạ tầng cơ sở thiết yếu cho mọi phát triễn kinh
tế xã hội ngày nay. Năm 1999, đã ước lượng tiềm năng thủy điện Lào Cai là 1865 000 KW, nhưng năm đó chỉ mới thiết kế 58
công trình thủy điện nhỏ, tổng công xuất
là 2397 KW, chừng 0.13% tiềm năng thủy
điện tỉnh nhà. Lào Cai đã có dự án xây cất 38 đập thủy điện cở nhỏ
và cở trung bình để khỏi phải dựa vào
mạng lưới điện quốc gia ( và Vân Nam ). Đến năm 2010, Lào Cai đã có 16 dự án
thủy điện họat động tỉ như Nậm Tha 3
(10 400 KW) ở huyện Văn Bàn, Mường Hum
( 2x16 000 KW ) trên sông Mường Hum, nhánh trái sông Aifahe, một nhánh
đầu tiên bên phải sông Hồng ở huyện Bát Xát, 3 đập thủy điện ở Bản Hồ, huyện Sa Pa … , tổng
công xuất là 114 500 KW trị giá 2.4 ngàn tỉ đồng VN. Tuy nhiên khả năng phát sinh điện mùa mưa chỉ mới đạt 70 – 75 % công xuất thiết
kế và mùa nắng khỏang 15- 20 % mà thôi.
12 nhà máy thủy điện khác, tổng công xuất
thiết kế là 234 300 KW, sẽ bắt đầu
họat động cuối năm 2011, theo Sở Công Nghệ và Thương Mãi Lào Cai. Đó là các nhà máy Bắc Hà ( 90 000 KW ), Ngòi
Phát ( 72 000 KW , Sử Pán ( 34.500 KW ) Sẻo Choong Ho ( 21700 KW ) Sùng Vui (
18 000KW ), Nậm Khánh (
12 000 KW ), Nậm Pung ( 9300 KW ) , Trung Hổ ( 8 400KW ), Ngòi Dương ( 6500
KW ) , Suối Chút 2 ( 5000 KW ), Lào Chải (2 400 KW, Suối Chút 1 ( 8400KW ). Theo PanNature, một cơ quan của Hiệp Hội Khoa học và Kỷ
thuật Việt Nam – VUSTA, đến tháng 5
năm 2012, Lào Cai đã có 110 dự án thủy điện nhỏ và trung bình ( không có dự án
lớn) nhiều nhất nước, số dự án hơn hẳn Gia Lai ( 78 ), Lâm Đồng (71), Kontum ( 68 )
.
Thủy điện Bắc Hà - Lào Cai |
Theo nhà môi sinh học Đào Trọng Từ ( 8 tháng 10 năm 2011), khi nhà máy
thủy điện mọc lên thì rừng biến mất và hệ thống sinh thái thay đổi. Vì các đập Lào Cai nhỏ, chiếm ít đất rừng nên tranh cải không mảnh liệt, gay gắt như các nhà máy thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai
6A ở Công viên Quốc Gia Cát Tiên hay các nơi thiêng liêng bảo vệ chim muông thú
vật , đền thờ (? )Sông Tranh tỉnh Quảng Nam
và Pu Họat tỉnh Nghệ An của dãy Trường Sơn. Theo Lương Văn Ngữ ( 24 tháng 8 năm 2011) cứ 1000 KW thì cần 15 ha đất, phần lớn là rừng , dày hay thưa. Như vậy các đập thủy điện nay đã làm mấtthêm
khỏang 5000 ha rừng Lào Cai. Phải tăng gia công tác trồng lại rừng quanh
các hồ đập các lọai cây gỗ làm đồ mộc xuất khẩu nhất là lọai cây gỗ qúi như Pơ mu , Lát hoa v.v… vì hiện nay rừng trồng lại ở Lào Cai chỉ mới đạt khỏang 1/6 tổng diện
tích mọi lọai rừng ( 240 000ha ). Như đã nói trên rừng còn thấm giữ nước, tăng thêm nước phát sinh điện
mùa mưa ,nhất là mùa khô hiệu năng các nhà máy thủy điện nhỏ và trung bình rất
kém vì thiếu nước. Hai khía cạnh khác
cần lưu tâm hơn nữa . Thứ nhất
là việc quản trị, xử lý hồ đập thủy điện trung bình và nhỏ; chức quyền
địa phương cho phép thi công xây cất,
nhưng không ghi rỏ nhiệm vụ, điều kiện xử lý điều hành. Làm cho một ống nước nổ vỡ, giết chết 2
người, làm bị thương 3 người khác ở công
trường đập Dam Bol tỉnh Lâm Đồng. Sau đó nước
ngập tràn còn cuốn đi 2 gia cư. Tháng 5
năm 2011, đập An Khê ở tỉnh Gia Lai bất thần
giải tỏa một thể tích nước to lớn, tàn phá vài tá ha đất vườn và gia cư. Thứ
hai là thiết bị mua của Trung Quốc. Theo
Dương Chí Dũng, trưởng phòng An tòan Môi sinh tỉnh Đắc Lắc, tỉnh này có 9 nhà máy thủy điện nhỏ, tổng công xuất 58
000 KW, mọi thiết bị đều mua ở Trung Quốc. Thiết bị Trung Quốc là một hiểm nguy tiềm
tàng vì chỉ chế tạo chỉ bảo đảm đời sống 20- 25 năm, quá ngắn ngủi cho một nhà máy thủy điện. Các nhà đầu
tư chỉ trả 25 tỉ đồng VN ( 1.2 triệu đô
la Mỹ) cho 1000 KW thiết bị Trung Quốc,
trong khi phải trả 70 tỉ đồng VN ( 2.67- 3.5 triệu) mua thiết bị Âu Châu. Ống nước
dài 3.5 km, đường kính 1.6 m ở công trường Dam Bol cũng mua ở Trung Quốc, rẻ tiền và dễ thiết
đặt .
Những thế mạnh của công nghiệp Lào Cai
Lào Cai đã phát triễn công
nghệ thủy điện đáng kể như ghi trên.
Nhưng hai công nghệ thế mạnh nhất tỉnh
nhà là khai thác biến chế khóang sản và chế biến nông lâm sản . Đáng kể là công
nghệ khai thác và chế biến mỏ phốt phát ( Lân) apatite.
khai thác và chế biến mỏ phốt phát ( Lân) apatite |
Mỏ apatite Lào Cai nằm bên phải sông Hồng , rộng 1- 4km và dài 100 km
từ Lùng Pố huyện Bát Xát đến Bảo Hà, huyện Bảo Yên. Tuy chia ra làm ba, Bát Xát
– Ngòi Bo, Ngòi Bo- Bảo Hà , Bàt Xát- Lùng Pố, chỉ có mỏ vùng Bát Xát- Ngòi Bo mới là trung tâm quặng apatit Lào Cai, dài 33.5 Km có dự
trữ lớn và bền vững. Bát Xát – Lùng
Pố đang
khảo sát địa chất để ước lượng
trữ lượng. Ngòi Bo – Bảo Hà theo dữ liệu nghiên cứu , trữ lượng rất ít. Mỏ apatit Lào
Cai đã phát hiện năm 1924 và bắt đầu khai thác năm 1940. Mức sản xuất từ năm 1956 đến năm 2005 là 14
triệu tấn đá phốt phát hạng nhất (
31-33% P2O5), 3 triệu tấn đá phốt phát hạng nhì (22- 24 %
P205) , 40 triệu tấn đá phốt phát hạng ba ( 14-16% P205)
và 2. 5 triệu tấn quặng tuyễn (
31-33% P205)- beneficiated phosphate rock. Dự trữ
apatit ở vùng Bát Xát-Ngòi Bo có thể còn
cao hơn ước lượng 800 triệu tấn hiện nay , gồm 34 triệu tấn đá phốt phát hạng
nhất, 236 triệu tấn hạng hai, 230 triệu tấn hạng ba và 291 triệu tấn hạng tư. Ngày
29 tháng 6 năm 2004, công ty khai thác chế biến apatit VINAAPACO được Thủ
tướng ra nghị định cho phép thiết lập, tọa lạc ở phường Pom Hán thị xã tỉnh lỵ Lào Cai, vốn đầu tư là 364 675 tỉ đồng Việt Nam. Tuy doanh vụ chánh của VINAAPACO là khai thác và biến chế đá phosphat, nhưng công
ty quốc doanh nay cũng được phép khai thác
các khóang sản khác, sản xuất phosphor
màu vàng ( P4, thường sử dụng ở
công nghệ thực phẩm, công nghệ bột giặt, thuốc tẩy sạch v.v… ), phân bón và nhiều hóa chất khác , chế tạo và
họat động cơ họ, đổ khuôn thép, sửa chữa cơ giới, dụng cụ làm đường rầy và toa xe lữa, lập các công trình kiến trúc,
hệ thống tưới tiêu, xây cất và thiết lập
các đường chuyễn vận điện và máy biến điện
đến kích thước 35KV… Năm 2005,
VINAAPACO đã sản xuất và tiêu thụ trên 1 triệu tấn đá phốt phát để chế tạo các lọai phân bón P,
sản xuất phosphor màu vàng sản
xuất và tiêu thụ tại chỗ 20 000 tấn kaolin và feldspar. Từ năm 2006 đến
2010, VINAAPACO đã mở rộng thêm nhà máy quặng tuyễn Tằng Lỏong ( huyện
Bảo Thắng ) sản xuất 700 000 t/năm, nhà
máy quặng tuyễn Cam Đường 10000 t/năm, đầu tư khai thác hai mỏ đá mới ở vùng Bắc Nhạc Sơn và nhà máy quặng tuyễn Bắc Nhạc Sơn 400 000 t/năm, hòan thành nhà máy phân bón
hổn hợp NPK dung lượng 30 000 t/năm, Xây
cất và khai thác nhà máy chế biến đá xây dựng
dung lượng 100 000 m3/năm,
nhà máy đúc ép apatit làm hột -
extrusion granulator system chế biến P4, dung lượng
120 000 t/năm… Tưởng cũng nên nhắc lại nhà máy khai thác quặng và tinh luyện đồng ở Sinh Quyền, trữ
lượng 53 triệu tấn, nhà máy khai thác quặng sắt Quý Xa, trữ lượng 124 triệu tấn và nhà máy khai thác Molybđen ở Ô Quy Hồ v.v…
Không rỏ Công ty Thép Việt Nam -Steel
Corporation VSC dự trù
khai thác 2 triệu tấn quặng sắt
Quy Xá gần thị xã Lào Cai năm 2006 , nay đã thực hiện chưa ? hay vẫn
chậm trễ như nhà máy Thạch Khê – Hà Tĩnh
dự trù khai thác nhiều hơn, đến 4 – 5 triệu tấn quặng sắt?
Thế mạnh nông lâm Lào Cai
Chúng ta đã nói đến trồng lại rừng và chế biến
gỗ và gỗ quí làm đồ mộc xuất khẩu sang Trung Quốc và nhiên hậu qua Âu Châu ?
Như đã kể, khí hậu Lào Cai trồng được nhiều loài cây trái xứ lạnh đặc biệt là đào lông và
mận, đặc biệt ở hai huyện Sa
Pa và Bắc Hà. Mận
tây ( gọi thêm từ tây) để phân biệt với những trái mận miền Nam ( roi ,đào ,lý miền Bắc ) thuộc họ thực vật khác hẳn. Nhiều tỉnh như Lào Cai,
Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh trồng được nhiều giống mận tây thuộc hai nhóm vỏ
xanh vàng và vỏ tím . Các giống Tam Hoa ,Tả Van, Mân Hậu, Mận Đỏ … có vỏ màu
tím, mận Tả Hoang Ly, mận Trải Trảng
li, mân chua ( vỏ tím vàng ) có vỏ vàng. Mận Đông Bắc, Tây Bắc thường trồng ở chân núi sườn núi .Nhưng chỉ có hai giống
đáng kể là mận Tam Hoa , trồng nhiều ở huyện Bắc Hà- Lào Cai và mận Tả Van
trồng nhiều ở huyện Sapa.
mận Tả Van |
Mận Tả Van vỏ tím ,
ruột vàng trái ( quả ) to, 20 25
trái/kg vị ngọt, thích hợp cho đóng hộp,
nhưng nhược điểm là quá mềm khó chuyễn vận đi xa, tuy trước đây có xuất khẩu
sang Đông Đức ( ? ). Năng xuất khá cao, một
cây sai trái có thể cho 150- 200 kg trái. Mận Tam Hoa trồng đầu tiên ở Quảng Ninh năm 1964, nhưng nay trồng nhiều ở huyện Bắc Hà cao độ 900 -1000 trên mặt biển; trái vỏ tím
xanh, ruột tím đậm, nhỏ hơn Tả Van, 31- 33 trái /kg, vị ngọt chuyên chở đi xa
được. Năng xuất Tam Hoa rất lớn 20- 30
tấn/ ha ; một cây thường cho 150 kg trái.
Năng xuất cũng ổn định hơn, ít khi mất mùa. Tam Hoa là giống mận chín sớm nhất
ở Việt Nam ,
ra hoa vào tháng giêng, thu họach từ cuối tháng 5 sang tháng 6. Đào lông ( thêm từ lông để phân
biệt với các lòai mận , đào tiên , đào má hồng … thật ra là các lòai táo ta –
jujubes và lọai đào trần – nectarine không lông ), ngoài giống đào “Mèo” đã kể, giống
đào “Người đẹp nhiệt đới – Tropical
Beauty Peach” nay xuất hiện nhiều ở
Sa Pa ? . Trung Tâm khảo cứu Bắc Hà
nay đã giải tỏa thêm nhiều giống
mận tây, mơ – mai , đào lông ,đào trần
và các giống lai – hybrids đào – mơ- mận ( ? ) ít yêu cầu lạnh hơn, có thể trồng ở sườn núi chân núi cao độ thấp hơn. Muốn xuất
khẩu đi ngọai quốc hay vào miền Trung, miền Nam, cần cải thiện cách bao bì
chuyên chở đi xa chưa thích hợp, trị các
bệnh thối đen – brown rot , nấm thối
Botrytis… bằng các thuốc bài trừ sinh học hay các chất dầu thơm- aromatic
oils không độc hay ô nhiễm, cũng như nghĩ đến tẩm lạnh, tồn trử lâu hơn ở
khí hậu mùa hè trong nước; nhiệt độ chuyên chở có khi lên đến 32 độ C từ Mộc
Châu về Hà Nội. Lẽ dĩ nhiên là phải khuếch trương thêm đào- mận để đủ số lượng
chuyên chở và tuyễn chọn thêm các dòng sai trái, trái đều đặn hơn, chín đều hơn,
ít bầm dập hơn theo thị hiếu khách hàng. Ngòai việc chuyên canh cải thiện thêm
trồng trọt và chế biến chế chè đặc sản, “ chè tuyết “ Sa Pa, Bát Xát, Mường
Khương, khắc phục những lý do tại sao chuyên canh cà phê chè – arabica
không mấy tiến triễn, phải cố gắng khuếch trương rau sạch và hoa ôn đới ở Sa Pa, vùng rau cao
sản ở Cam Đường, Bảo Thắng, ven thị xã
Lào Cai. Và lưu tâm nuôi cá hồi, cá
xứ lạnh ở các hồ đập thủy điện phát triễn nhiều những năm gần đây …
( Irvine, Nam Ca Li , Hoa Kỳ, ngày
mồng 1 tháng 5 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét