Cập nhật hiểu biết nước nhà :
Tiến triển ở ngành công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến cuối năm 2012
G S Tôn thất Trình
Cách đây gần một năm rưởi vào
tháng 6 năm 2011, nhân dịp lạm bàn phát triển tỉnh Đồng Nai , chúng tôi đã
trích dẫn báo cáo năm
2010 – 2010 Report on Việt Nam của
các Cố vấn Kinh tế và Thương mãi Hiệp hội Âu châu trình bày ở Hà Nội cho
biết là năm 2009 , Việt Nam đã đầu tư
2.1 tỉ đô la Mỹ vào hạ tầng cơ sở 3G, dịch vụ
cần thiết cho internet di động,
gọi viđêô call và Tivi di động- mobile TV đã có 13 triệu người đăng ký (
và theo IBM có khỏang 100 000 người thật sự thuê bao – subcribers ) .
Một trong những phòng triển lãm về gọi viđêô và Tivi di động ở VN năm 2010 |
Nhưng ở Sách Sự kiện thế giới -World
FactBook, Cơ quan Tình báo CIA Hoa Kỳ -US Central Intelligence Agency
, các trang nói về Việt Nam cập nhật ngày 13 tháng chạp năm 2012, thì số
điện thọai đường chánh - telephones main
lines xử dụng năm 2011 ở Việt Nam đã lên đến 10.175 triệu , nâng Việt Nam lên hạng thứ 21 trong mọi quốc gia sử dụng điện thoại đường
chánh và số điện thọai tế bào di động
– telephones mobile cellular sử dụng
lên đến 127. 318 triệu, giúp Việt Nam
xếp hạng thứ 8 trong so sánh với mọi quốc gia thế giới . Số
người dẫn truyện, đăng cai- Internet hosts năm 2012 là 189 553 ( mã số
Internet Việt Nam là vn ) còn ở hạng 74 trong mọi quốc gia thế giới,
nhưng số người dùng Internet năm 2009 đã là 23. 382 triệu, đứng hạng thứ 17 rồi. Theo Runckel & Associates đến tháng 3 năm 2010, số người dùng
Internet đã là 23. 6 triệu người .
Tình trạng kỹ thuật hiện nay của công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam
Chúng tôi
cũng phát họa sơ qua những hướng tiến của công nghệ thông tin và truyền thông –
information and communications industries , chiếu theo quan
điểm của James Gleick, nguyệt san Khám phá – Discovery, Hoa Kỳ ngày 15
tháng 6 năm 2011, đăng tải ở Blog the Gift, Irvine – Nam Ca Li. Sau đây là tóm
tắt những kỹ thuật các ngành này, hiện Việt Nam đang sử dụng, cũng chiếu theo
bá cáo của CIA nói trên .
Hệ thống điện thọai
Trên phương diện tổng quát, Việt
Nam đang cố gắng cận đại hóa và nới rộng hệ thống viễn thông của mình. Trong nước, mọi trao đổi các tỉnh với nhau
đều được kỹ thuật số hóa – digitalized và nối kết với Hà Nội, Đà Nẳng và Sài Gòn –
TP HCM theo cáp sợi quang – fiber
optic cable hay các mạng
lưới chuyễn tiếp vi ba rađiô – microwave
radio relay network . Các đường
chánh đã được tăng gia và việc sử dụng điện thọai di động đang tăng trưởng mau lẹ .
Trên quốc tế, mã số Việt Nam là 84, một điểm đổ bộ cho SEA-MEWE, C2C, và những hệ thống cáp dưới biển- submarine
cable Thái Lan – Việt Nam – Hồng
Kông ; hệ thống cáp dưới biển
Cổng Vào Mỹ Á châu – Asia – America Gateway đã thiết lập xong năm
2009, cung cấp các mối nối mới đường vào đến Á Châu và Hoa Kỳ; các trạm vệ tinh
trên đất-2 Interspunik ( vùng Ấn Độ
Dương ).
Môi trường phát hình – Broadcast media
Chánh phủ kiểm sóat mọi phương tiện truyền hình dưới sự duyệt xét
của Bộ Thông tin và Truyền thông
MIC, hảng cung cấp TiVi quốc gia cũng do
chánh phủ kiểm sóat là Ti Vi , Truyền hình Việt Nam – Việt Nam
Television ( VTV ) họat động một mạng lưới
9 kênh cùng nhiều trung tâm truyền hình địa phương; chương trình được chuyễn đi khắp nước xuyên
qua các trạm ti vi tỉnh và thị trấn; luật pháp giới hạn Ti Vi vệ
tinh , nhưng nhiều gia thất đã đủ khả năng
đi vào các chương trình ngọai quốc xuyên qua các thiết bị vệ tinh; chánh
phủ kiểm sóat Tiếng Nói Việt Nam – Voice of Việt Nam, phát thanh rađiô quốc gia – national radio
broadcaster, phát thanh trên 6 kênh
và lập lại trên AM, FM và các
trạm làn sóng ngắn khắp nước từ năm 2008.
Những sự kiện quan trọng Thông tin và Truyền
thông , định giá Việt Nam năm 2012
Hạ tầng cơ sở tin học VN năm 2010 |
Tháng 10 năm 2010, bộ Thông tin và Truyền thông- Viêtnam Ministry of
Information and Communications đang
hoàn tất chiến lược Chánh phủ nâng cấp
hạ tầng cơ sở - infrastructure kỹ thuật thông tin- IT xứ
sở cho đến năm 2020. Chiến lược nhắm vào
tăng gia lợi tức cho lảnh vực
IT đất nước, sẽ chiếm một tỉ xuất GDP từ
17 đến 20% , và trong dài hạn tăng gia góp phần của lảnh vực Thông tin truyền thông lên đến giữa
20 và 23 %. Tưởng cũng nên nhắc lại là theo UNDP năm 2001, sức mua tương
đương mỗi đầu người -GDP – PPP per
capita của Việt Nam là 1860 $ ( Inđônêxia
năm đó là 2857$, Trung Quốc l3617 $, Thái Lan 6132$, Singapore 20767$ và Nhật 24 898 $ ).
Theo CIA, năm 2009, GDP-PPP Việt
Nam lên đến 3000$ mỗi đầu người; năm 2010
lên đến 3200 và năm 2011 ước lượng đạt 3400$. GDP- PPP năm 2009 là 265.4
tỉ đô la Mỹ, năm 2010 là 283.3 tỉ , năm
2011 ước lượng đạt 300 tỉ ( theo USD năm 2011 ) xếp hạng 42 trên thế giới. Nghĩa là năm 2011, lảnh vực công nghệ IT Việt
Nam đã có lợi tức khỏang 60 tỉ đô la Mỹ (
? ). Một bước tiến đáng kể vì vào
những năm đầu mới thành lập, lợi tức ngành công nghệ IT
năm 2000 chỉ mới là 50 triệu đô la Mỹ, năm 2009 ( ? ) đạt 880 triệu, nhưng năm 2010 lên đến 6.26 tỉ. Cũng theo Runckel
& Associates , năm 2009, Việt Nam
đã thu 290.7 triệu đô la Mỹ từ
các dịch vụ điện thọai cố định, 4 032 triệu từ các dịch vụ di động và 358.9 triệu từ các dịch vụ Internet.
Có lẽ vì thế cho nên một cuộc điều tra của 40 nhà báo chí chuyên
nghiệp về công nghệ IT quốc tế, đã lựa chọn năm 2012 là năm Việt Nam có 10 sự
kiện quan trọng, ưu điểm cũng như khuyết điểm, trong ngành này đã xảy ra , tiêu
biểu nhất ở tiến trình cận đại công nghệ nước nhà . CIA cũng
ước lượng là năm 2011, GDP Việt Nam theo khu vực , thì công nghệ đã có lợi tức
tổng thể 46.3 % GDP, hơn gấp đôi lợi tức nông nghiệp chỉ còn
22% và lợi tức dịch vụ đạt 37.7 % .
Sau đây là vài sự kiện ( sự cố ) quan trọng ở ngành công nghệ IT năm 2012 :
- Hãng di động Beeline của Nga tháo lui.
Gtel Mobile VN |
Hảng Vimpelcom, hảng chuyên chở - carrier
truyền thông di động Nga, đã quyết định
bán 49% cổ phần của mình ở liên doanh cùng hảng chuyên chở Việt Nam GTel
Mobile và từ bỏ kiểm sóat hảng, nêu lý
do là không có cơ hội phát triễn thị trường Việt Nam. Tiếp theo di chuyễn của
hảng Vimpelcom, GTel tung ra nhãn hiệu “
G mobile” thay thế Beeline, đã hòan tòan
tháo gỡ sau thời gian 6 tháng chuyễn
tiếp. Beeline đã xuất hiện như thể là mạng lưới di động thứ 7 tại Việt Nam, đã thật
sự gây một cú sốc mạnh ở thị
trường Việt Nam, khi tung ra gói hàng dịch vụ siêu rẽ tiền tên gọi là Big Zêrô. Tuy nhiên như thế vẫn
không đủ giúp cho Beeline đúc xi măng làm dính chặt vị trí thị trường của mình.
- Thương gia trực tuyến – online marketer lừa bịp hàng triệu người sử dụng .
Những thủ
tục giao thương bất hợp pháp của hảng Muabán 24- MB24 , một công ty thị
trường đa mức trực tuyến – online multi level marketing , đã bị phám phá
tháng 8 năm 2012 , gây ra những làn sóng
cú sốc khắp cộng đồng trực tuyến, sau khi
rất nhiều người dân nghèo, có lợi tức thấp kém bị lừa bịp gia nhập mạng lưới. Cảnh sát công an đã bố
ráp bất ngờ trụ sở MB24, một công ty buôn bán trực tuyến tại huyện Từ Liêm – Hà Nội , chiếu theo những lời viện dẫn là hảng đã
chiếm đọat một số tiền lớn của khách hàng. MB24
tự quảng cáo là một nền sàng cho thương
mãi điện tử - e commerce , nơi các hội viên
có thể làm ra tiền bằng cách phát triễn
mạng lưới của công ty. Hảng cũng cống hiến huấn luyện bán trực tuyến và chuyên
môn IT. Muốn gia nhập MB24, các khách hàng phải trả 5.2 triệu đồngVND ( 248 $
Mỹ ) để mua “ kho tồn trử - store space”. Muốn có lợi cho đầu tư mình, các khách hàng phải thuyết phục nhiều người khác gia nhập mạng lưới. Họ thu 1.5 triệu đồng
VND ( 71 $ ), khi giới thiệu thêm được
một hội viên. Càng có nhiều khách hàng
giới thiệu, họ càng có thể thu thêm tiền, nhưng thật sự họ không được hòan lại tiền nào
cả. Chỉ trong 1 năm, MB24 đã thiết lập
51 chi nhánh ở 32 thị trấn và nhiều tỉnh. Khách hàng phần lớn là dân
gian thiếu tiền mặt như sinh viên, nông dân và các cư gia các vùng nghèo khổ,
hiểu biết rất giới hạn về Internet và thương mải điện tử - e commerce .
- Quyết định nhấn mạnh tầm quan trọng của IT
Phiên
họp khóang đại- plenum thứ tư của Ủy ban
Trung Ương Đảng, phiên họp thứ 11, chấp thuận Nghị quyết – Resolution 13,
tháng giêng năm 2012, xây dựng hạ tầng cơ sở đồng bộ - synchronous
infrastructure, mục đích giúp cho Việt Nam trở thành một
quốc gia công nghệ cận đại vào năm 2020.
Nghị quyết nói rằng Kỹ thuật
Thông tin IT là một thành phần then chốt của hạ tầng này và thúc dục Việt Nam phát triển chánh phủ điện tử - e
government và thương mãi điện tử .
- Tháng 5 năm 2012
, Vinasat2 đã được phóng lên
Dự án là một tư bản đầu tư tri gía 280 triệu đô la Mỹ 80% đến tư các tiền cho vay ; phần còn lại là của VNPT. Các nhà đầu tư hy vọng là sẽ huề vốn sau 10 năm và có lời 5-6 năm kế tiếp. Vệ tinh do hảng Mỹ Lockheed
Martin chế tạo, sẽ tăng cường chuyên môn cho địa phương và phát triển xa
hơn nữa kỷ thuật truyền thông bằng vệ tinh của Việt Nam, cũng như tiên đóan
thời tiết và an ninh quốc gia. Đây là vệ tinh thứ hai Việt Nam đặt vào quỉ đạo.
Vệ tinh thứ hai này có khả năng lớn hơn, cân nặng hơn, có nhiều phản ứng máy
dò- sensors responses hơn, khả năng bề
rộng băng tần – bandwith capacity cao hơn.
Vinasat2 |
- Lợi tức công ty
Viettel vượt xa VNPT
Tổ hợp Viettel, hảng cung cấp viễn thông –
telecoms lớn nhất Việt Nam, lần đầu tiên, đã
vượt nhóm đối thủ VNPT Group về
thu họach. Như chúng ta đã biết VNPT
có hai đối thủ chánh của Viettel là
Vinaphone và Mobilfone. Lợi tức của
Viettel đến cuối tháng 12 năm 2012 ước lượng
là 140 ngàn tỉ- trillions đồng
VND ( 6.6 tỉ $US ), so với 130 ngàn tỉ đồng VND ( 6.1 tỉ $US ) của VNPT năm 2012. Viettel
tung ra các dịch vụ di động năm 2004, một chục năm sau VNPT, nhưnghành động
năng nổ hơn, để trở thành nhà cung cấp các
dịch vụ viễn thông dẫn đạo ở Việt Nam. Ngòai việc đã chiếm trên phân nữa thị trường di động nội địa, Viettel đã mở rộng dịch vụ hảng sang Lào,
Cambốt, Zimbabwe, Chi Lê, Đông Timor, Haiti và Tanzania.
- Các người sử dụng di động mới trả tiền trước – new prepaid phải trả một lệ phí họat hóa – activation fee.
Các nhà
ghi thuê bao - subcribers
các dịch vụ di động trả tiền trước sẽ phải trả 25 000 đồng VND, kể từ tháng giêng năm 2013, ngọai
trừ phí tổn một thẻ SIM Card. Biện pháp
này có mục đích giảm bớt số thuê bao ảo(
ảnh ) càng ngày càng nhiều thêm về các
dịch vụ trả tiền trước, trong đó các
người chỉ sử dụng tạm thời các con
số họ thuê bao. Thuê bao cho các dịch vụ di động trả tiền sau – postpaid vẫn giữ mức là 30 000 đồng VND, theo lời Bộ Thông
tin và Truyền thông. Bộ cũng đòi hỏi các
nhà cung cấp mạng lưới di động phải được phép, nếu họ mong muốn thay đổi sác xuất thuê bao hay đề xướng cung cấp.
- S-fone sa thải nhân viên
S-fone tiếp tục phấn đấu hầu sống còn sau khi thua
lỗ lớn lao và mất đi nhiều người ghi thuê mua. Một số lớn nhân công hảng đã bị
sa thải , trong khi họ chưa nhận được
lương bổng và cung cấp qui định.
Hảng chuyên chở di động đau ốm
này làm cho đa số nhân viên ở Hà Nội thừa
thải vào tháng 7 năm 2012 để chấm dứt cơ
chế Khế Ước Doanh Vụ Hợp tác - Business Cooperation Contract , thay
bằng một công ty trách nhiệm hửu hạn – limited liability company. Quyết định
đã đạt theo một thỏa hiệp giữa Saigon Postel ( SPT ), một công ty bà con của S-Fone và Nghiệp
đòan Thương mãi – Trade Union của S-
fone , theo nhà đại diện công ty. S- fone là một công ty liên doanh giữa viễn thông Hàn Quốc ( Nam Hàn ) khổng lồ SK Telecom và SPT, thiết lập năm
2003 và là một hảng họat động di động thứ 3, sau Mobilfone và
Vinafone. Hảng S-fone là hảng họat động đầu tiên áp dụng kỷ thuật CMDA
tân tiến- Advanced Code Division Multiple Access tại Việt Nam, trong khi các hảng chuyên chở
khác sử dụng GSM -Global system for
Mobile Communications . Tuy nhiên,
vì số kiểu mẩu máy cầm tay cuối
đường- terminal handsets giới hạn, công ty đã không đủ sức tăng thêm căn
bản khách hàng, chỉ đạt có 1 triệu, sau 10 năm họat động mà thôi. Sau khi SK Telecom rút lui khỏi liên doanh
năm ngóai, S- fone không đủ khả năng tìm
ra một nhà đầu tư mới, để phát triễn mạng lưới khốn đốn của mình.
-Tiền bản quyền phải nạp khi tải nhu liệu kỹ thuật số
Mọi trang
web âm nhạc Việt Nam đều bắt đầu phải trả lệ phí khi tải nhu liệu xuống– download, tháng 11 năm 2012 . Tuy nhiên, lệ phí nạp theo báo cáo vẫn còn khiêm tốn vì người nghe
đã quen dùng âm nhạc không trả tiền và không có ý định trả lệ phí cho dịch vụ này. Các trang web nhạc
trực tuyến ở Việt Nam tuyên bố là họ muốn bắt các
người dùng trả 1000 đồng VND cho một hồ
sơ các bản hát tải từ các ngõ cổng chánh– portals trong một công tác thực thi các quyền sở hửu
trí thức. Biện pháp này hy vọng sẽ thay đổi khuynh hướng tư tưởng các
công dân Việt Nam dùng net Việt Nam thường quen thói tải nhu liệu bất hợp pháp từ các trang
web chia xẻ hồ sơ- file sharing websites .
-Các tần số rađiô nằm dưới búa
Theo một
quyết định của thủ tướng, các tần số rađiô sẽ phải đấu thầu thay vì phát không.
Thể lệ điều hành mới nhắm tạo dựng một thị trường cạnh tranh và trong sáng cho
các tần số rađiô mà chỉ có các hảng đủ
khả năng mới có tư cách sử dụng các tài nguyên không dây – wireless resources.
Ngòai các
lựa chọn các sự kiện quan trọng chóp bu cho năm 2012, các nhà báo cũng làm tiên đóan cho năm tới 2013. Họ tiên
đóan là một số các công ty sẽ lỗ lã năm
2013, trong khi các điện thọai thông minh và các dịch vụ 3G sẽ bum - phồn thịnh.
-Lảnh vực Phần mềm (Nhu liệu ) – Software ở Việt Nam
Cũng chiếu theo Runckel & Associates, năm 2010, công nghệ phần mềm nước nhà đạt mức bán là 800 triệu đô la Mỹ, tăng 40 %
so với năm 2009. Nhân công làm việc phần mềm công nghệ IT trung bình là gần
4560 đô la Mỹ một năm mỗi người năm 2009 , so với mức 3600 $US năm 2008 . Đây
là mức lương cao nhất ở công nghệ IT, và tiếp tục tăng thêm, vì lương bổng phần cứng – hardware chỉ
là 2809 $US và phần công nghệ
chứa kỷ thuật số- digital content industry năm 2009 là
3505 $. Năm 2009,Việt Nam có trên
1000 công ty phần mềm, sử dụng đến 64 000 người . Trên 200 công ty kích
thước trung bình là 150- 200 nhân viên, phần lớn ở dịch vụ nguồn ngọai phần mềm – sofware outsourcing services . Vài công
ty có hơn 1000 nhân viên như FPT Software
, FPT Information Systems , TMA, PSV v.v…
Các ứng dụng phần mềm nguồn ngọai đến Việt nam năm 2010, đều tập trung
vào tiêu khiển điện tử - electronic entertainement, các dịch vụ giá trị
thêm trên Internet và các mạng lưới di
động.
-Lãnh vực phần cứng ( cương liệu) – hardware ở Việt Nam
Năm 2009, số vốn luân chuyễn tổng thể-
total turnover từ phần cứng đã lên đến mức
gần 4 tỉ $US , 8 lần hơn năm 2000. Lảnh vực phần cứng năm đó hút dẫn
trên 5.7 tỉ $US đầu tư ngọai quốc trực tiếp – FDI, gồm
luôn cả các hảng danh vang thế giới như Intel, Canon và Fujitsu. Vốn luân chuyễn xuất khẩu máy computer, các
bộ phận thay thế và các sản phẩm điện tử
năm 2009 là 3.953 tỉ $US , năm 2008 là 3.714 tỉ. Các thiết bị viễn thông xuất khẩu trị giá
2 .573 tỉ năm 2009 và 1.995 tỉ năm
2008. Vốn luân chuyễn nhập khẩu các máy
computer, bộ phận thay thế và các sản phẩm điện tử năm 2009 là 2.763 tỉ ;
năm 2008 là 2.638 tỉ.
-Các công viên Parks IT Việt Nam
Bản vẽ Park IT Hà Nội |
Chiến lược mới của Bộ
Thông tin và Truyền thông Việt Nam về hạ tầng cơ sở kỷ thuật thông tin cho biết
là các công viên IT sẽ cống hiến 6 chức năng chánh yếu gồm chế tạo - thương mãi
cung cấp các sản phẩm IT và dịch vụ ;
khảo cứu và phát triễn; huấn luyện tài nguyên nhân sự, phát triễn các công ty
kỷ thuật và IT; tổ chức các hội chợ và triễn lãm, hút dẫn các nhà đầu tư địa phương và quốc tế hầu gia tốc
phát triễn các công viên . Bản dự thảo cũng phân
lọai ra thành các công viên IT hạng nhất sử dụng ít nhất là 2000 nhân
viên và công viên IT hạng nhì với lực lượng nhân công ít nhất là 1000 người. Hầu khuyến khích các nhà đầu tư vào công viên,
Chánh phủ nói rằng sẽ giúp làm dễ dàng việc dọn quang đất đai – land
clearance , cho nhập vào vay ưu đải – preferential loans từ Ngân
Hàng Đầu tư và Phát triễn Việt Nam – Bank for Investment and Development ,
BIDV, và quyền phát hành các bông( cỗ ) phiếu tổ hợp – corporation bonds. Các hảng IT được miễn tiền thuê đất, chỉ phải
trả sác xuất thuế lợi tức tổ hợp là 10% trong 15 năm, kể từ khi bắt đầu thu lợi
tức và miễn thuế nhập khẩu các thiết bị
IT đặc thù thị trường trong nước không sản xuất được. Việt Nam năm 2010 đã có 7 công viên IT , nhưng chúng họat động còn
thiếu hiệu quả. Các nhà phân tích cho rằng nghị định của bộ rất thiết yếu
hổ trợ phát triễn ngành công nghệ mới mẽ này
-Tài nguyên nhân sự của công nghệ IT Việt
Nam
Năm
2009, phần cứng có 121 000 nhân viên ( năm 2008 là 110 000 )
; phần mềm có 64 660 ( năm 2008 là 57 000)
và phần chứa đựng kỷ thuật số có 41 000 ( năm 2008 có 33 000 ). Nhưng dù rằng ngành công nghệ IT nước nhà
tiến triễn mau lẹ, thách thức lớn là thiếu tài nguyên nhân sự - human
resources cho các lảnh vực này. Theo tài liệu , chánh phủ sẽ chi tiêu chừng
900 tỉ đồng VND ( 50.54triệu $US ) để huấn luyện các nguồn tài nguyên nhân sự cho IT trong vòng 5 năm tới. Đến năm 2015, Việt Nam hy vọng là sẽ có 600
000 chuyên viên ngành IT và con số mong đạt sẽ lên đến 1 triệu vào năm 2020.
Năm 2008
có 271 trường dạy IT, con số năm 2009 y như cũ . Nhưng số sinh viên ghi
danh học đã tăng thêm nhiều : từ 50 050
sinh viên năm 2008 lên 56 406 năm 2009 ;
trong khi năm 2006 chỉ mới có 30 352 ( và 192 trường ). Không rỏ Việt Nam sẽ đủ sức
đối đầu thách thức về tài nguyên nhân sự cho IT mình không?. Một thách thức khác cho Việt Nam là nạn đạo
tặc phần mềm - software piracy , rất
thông thường ở nước nhà. Việt Nam cho rằng rất khó cân bằng việc giảm sử dụng
phần mềm và tôn trọng bản quyền – copyright, khi giá cả phần mềm hợp
pháp còn quá cao so với lợi tức dân gian. Theo Rebecca Hồ, nhà chiến lược chương
trình IP cho Microsoft ngày 30 tháng 7 năm 2010, tăng trưởng của công nghệ IT
Việt Nam tùy thuộc vào khả năng nước nhà
chống trả nạn đạo tặc phần mềm. Không biết là cuối năm 2012, vụ này giải
quyết đến đâu rồi !
( Irvine, Ca Li ngày 10 tháng giêng năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét