Lạm bàn phát triển một trong 20 tỉnh thời Pháp thuộc từ năm 1899 chia “ Lục Tỉnh” từ năm 1831 thời vua Minh Mạng:
Tỉnh Long An, địa đầu phía Bắc “ Đồng bằng sông Cửu Long” ngày nay :
Anh không thương em, đừng nói chuyện sập sò,
Giả như (Ông Trượng) Tiên Bửu, đưa đò Giang Tân (*)
Bình bồng ở giữa Giang Tân,
Bên tình bên nghĩa, biết phân bên nào.
(Bớ này em ơi! nhứt lê, nhị lựu, tam đào,
Bên tình bên nghĩa, bên nào cũng đồng thân )
Anh về đập đá (Đồng Tháp) đưa đò,
Trước đưa quan khách, sau dò ý em.
… ( Ca Dao miền Nam do tiến sĩ Phan Tấn Tài sưu tập
– Nam Ca Li, 2005 ? )
– Nam Ca Li, 2005 ? )
Vị trí
Long An là một tỉnh trong số 12 vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nay gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp , An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Kiên Giang , Cần Thơ - Thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long là thành phần phía Nam nước nhà: các vùng khác là Đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Phía Bắc tỉnh Long An giáp tỉnh Tây Ninh: phía Đông giáp Sài gòn-Thành phố Hồ chí Minh, Cam Bốt; phía Nam giáp tỉnh Tiền Giang và phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp .
Diện tích Long An là 4 492 km2, nằm trong vĩ tuyến Bắc 10040’ và kinh tuyến Đông 106010’. Trên phương diện hành chánh, Long An gồm một thị xã là tỉnh lỵ Tân An (diện tích là 81. 79 km2 =31.58 dặm Anh vuông ) và 13 huyện là Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành ( Tầm Vu ? ), Đức Hòa( Hậu Nghĩa ? ), Đức Huệ (Đông Thành ? ), Mộc Hóa, Tân Hưng, Tân Thạnh, Tân Trụ, Thạnh Hóa, Thủ Thừa và Vĩnh Hưng. Tỉnh lỵ Tân An được nâng cấp từ thị trấn lên thành phố, thị xã – city ngày 26 tháng 8 năm 2009. Thị xã Tân An có 9 phường – wards là các phường 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, Khánh Hậu và Tân Khánh; cùng 5 xã – communes là An Vĩnh Ngãi, Bình Tâm, Hướng Thọ Phú, Lợi Bình Nhơn và Nhơn Thạnh Trung.
Dân số thị xã Tân An, năm 2005 là 121 5000 người ; năm 2009 là 165 214 người, như vậy năm 2012 dân số Tân An đã có thể trên 200 000 người . Còn dân số tỉnh Long An năm 2000 là 1 330 300 người, năm 2006 là 1 402 100 000 người , năm 2010 là 1 448 000 người và năm 2012 có lẽ đã hơn 1 500 000 người. Các tộc dân Long An đông nhất là Kinh – Việt, thứ đến là Khmer , Tày , Hoa … Tân An nằm phía Tây Nam thành phố Sài Gòn- HCM cách trung tâm Tân An chừng 47 km và được các đơn vị hành chánh sau này vây quanh: ở phía Bắc là huyện Thủ Thừa, phía Đông là hai huyện Tân Trụ và Châu Thành, phía Tây và Tây Nam là tỉnh Tiền Giang. Tân An là trung tâm chánh trị, văn hóa, kinh tế, khoa học và kỹ thuật của tỉnh Long An. Thị xã thuộc vùng phát triễn kinh tế then chốt Miền Nam nước nhà, ngõ cổng kinh tế về các tỉnh Châu thổ Sông Cửu Long, có đường xá và đường sông xuyên qua trung tâm, quốc lộ 1A, quốc lộ 62 và sông Vàm Cỏ Tây. Phường 1 là trung tâm kinh tế, chánh trị và văn hóa Tân An ngày nay . Quốc lộ 62 nối Long An đến cửa khẩu Bình Hiệp gần Mộc Hóa giáp biên giới Cam Bốt. Quốc lộ 50 nối Mỹ Tho đến Thành phố HCM qua Chợ Gạo, Gò Công của tỉnh Tiền Giang và thị trấn nhỏ Cần Đước thuộc tỉnh Long An.
Suôi dòng thời gian
Hình thành lịch sử Đồng Nai – Cửu Long.
Đa số địa thế Long An ngày nay ở trong một khu lòng chảo rộng mênh mông có lẽ trên 200 000ha, bao gồm hai tĩnh cũ Kiến Phong và Kiến Tường và một phần tỉnh Hậu Nghĩa thời Đệ Nhất Cọng Hòa. Theo nghiên cứu của nhà địa chất học H. Fontaine khỏang đầu thập niên 1950, từ cuối thời kỳ Plêistoxen – Pleistocen đến đầu Hôlôxen- Holoxen từ 100 000 dến 11 000 năm trước, nước biển hạ thấp từ 100 đế 120 m. Biển Đông khô cạn, chỉ còn là một vũng nhỏ, tạo điều kiện cho động vật từ Châu Á tràn sang châu Đại Dương giúp cho hệ động vật gần nhau giữa hai châu. Từ 10 000 năm trước công nguyên- BC trở lại đây, đã có 4 lần biển tiến dâng cao, và lùi xuống thấp. Đặc biệt là trong hai lần tiến của biển, lần thứ ba và lần thứ tư, có liên hệ mật thiết tới sự thành hình và tan biến của vương quốc Phù Nam . Trong lần nước biển lên cao lần thứ ba, từ năm 200 năm trước công nguyên đến năm 50 sau công nguyên -AD , nước biển ở đồng bằng sông Cửu Long đã ngăn chặn bước tiến của các dân sống ở vùng Đồng Nai qua định cư ở vùng này. Rồi khi nước lùi từ năm 50 AD đến thế kỷ thứ V, người Mã Lai –Polynesians từ các đảo ngòai biển vào đây định cư, làm thành vương quốc Phù Nam với nền văn minh Ốc Eo tiêu biểu của họ. Tiếp theo đó trong lần dâng cao thứ tư, kéo dài 800 năm từ năm 350 đến năm 1150, với điểm cao nhất vào khỏang năm 650, nước biển đã làm ngập cả đồng bằng sông Cửu Long, khiến không còn ai có thể sinh sống được trong vùng. Vương quốc Phù Nam tan rả, một phần người Phù Nam lên miền núi cao sinh sống và phần khác trở về các đảo trong Châu Đại Dương. Từ thế kỷ thứ XII, nước biển xuống thấp trở lại ở mức bình thường như ngày nay. Và cũng từ đó nước Chân Lạp thành hình, chiếm cả vùng đất Phù Nam trước kia ( Nguyễn Thanh Liêm, Nghiên cứu Văn hóa Đồng Nai – Cửu Long -tháng 7 năm 2006 ) .
Theo thư tịch cổ thì Trung Quốc gọi một vương quốc tập hợp nhiều các sắc tộc- tộc dân nguồn gốc Mã lai Á – polynesian là Phù Nam – Founan vì đó là một nước nổi phù, quanh năm ngật lụt, chỉ nổi trên mặt nước vào mùa khô hạn ở phía Nam Trung Quốc. Nhưng giáo sư cỗ học người Pháp G. Coedes lại cho rằng Phù Nam là do tiếng Khmer- Khơme “ Phnom” đọc trại ra. Sử nhà Lương( năm 502- 556 ) đặt nước Phù Nam về phía Nam Quận Nhật Nam, trong một cái vịnh lớn ở phía Tây Biển, cách Nhật Nam chừng 7000 lý và cách Lâm Ấp, tiền thân của nước Champa- Chiêm Thành hơn 3000 lý. Một con sông lớn ( sông MêKông ), từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển ( Le Fou nan của P. Pelliot) . Điều đáng lưu ý là đồng bằng Đồng Nai- Cửu Long do sông Đồng Nai, hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây và sông Cửu Long, tạo ra hình dạng “ Trũng Cỏ lau sậy Đồng Tháp- Plain of Reeds, Plaine des Joncs” nay phần lớn là đất đai hai tỉnh mới sau 1975 là Đồng Tháp và Long An, lúc đó đang còn là một vùng đất bồi, chưa chắc đã hiện hửu vào thời điểm này. Vương Quốc Phù Nam cũng chưa xác định chủ quyền lảnh thổ. Như vậy có thể chắc chắn là cả Phù Nam lẫn Chân Lạp chưa bao giờ xác lập chủ quyền lảnh thổ trên đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long. Riêng vùng Ốc Eo – Vọng Thê, Thọai Sơn, An Giang, các nhà khảo cổ có tìm thấy vết tích của tộc dân Naravana, tồn tại từ thế kỷ thứ I, sau đó họ bị Phù Nam thôn tính và bỏ đi nơi khác. Vào cuối thế kỷ thứ VI, Phù Nam bị Khơme là một tộc dân ở phía Bắc đánh bại, đẩy các tộc dân Phù Nam lẫn Naravana ra vùng hải đảo. Nước phía Bắc đó là Bhava, sử liệu Trung Quốc gọi là Chân Lạp- Chen La. Trung tâm khởi thủy dân Khơme của Vương quốc Chân Lạp là nơi hội tụ của Sông Sê Mun ( Korat- Cò Rạt , Thái Lan ngày nay ) và trung lưu sông Mê Kông địa điểm Vat Phu (nay là miền Nam Lào Champassak ). Vương Quốc Chân Lạp có lúc tách thành 2 nước riêng biệt: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp, luôn luôn kình chống nhau. Một bộ phận định cư theo sông Sê Mun, một bộ phận khác định cư ở trung lưu sông Mê Kông phía Bắc Biển Hồ Ton Le Sap; có nghĩa là chưa bao giờ đến đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long ( theo luật sư Lưu Vĩnh Khương, Địa Linh Nhân Kiệt Vĩnh Long, Nam Ca Li, 2006).
Đầu thế kỷ thứ IX, Jayavarman II sáng lập vương triều theo văn minh Ấn Độ. Các vương triều Jayavarman đưa Chân Lạp đến cực thịnh, xây nhiều đền tháp Angkor, nổi danh là Đế Quốc Angkor. Vào thời Cực Thịnh, Chân Lạp đã chinh phục cả vùng trung hạ lưu sông Mê Nam (Xiêm La – Thái Lan), tiến đến Vạn Tượng – Vientiane ,Viêng Chăn vùng đất Thái – Lào, mở rộng quyền lực đến biên giới Miến Điện – Myanmar . Thời gian này Chân Lạp cũng chiếm được Chiêm Thành, đặt người làm vua Chiêm Thành.Trong thời gian thống trị Chiêm Thành, vào thế kỷ XII, họ đã nhiều lần gây hấn Đại Việt, sang cướp phá Nghệ An. Sau cuộc “chiến tranh một trăm năm” giữa Chân Lạp và Chiêm Thành, cả hai bắt đầu suy yếu. Giữa thế kỷ XIII, tiểu quốc Ayuthia ( Xiêm La – Thái Lan ) ở lưu vực sông Mê Nam, địa bàn Thái Lan, giành quyền tự trị và thu phục các tộc dân trong khu vực, hình thành một vương quốc. Lào cũng tách ra lập vương quốc riêng. Nước Ayuthia trong 2 thế kỷ, liên tục hơn 10 lần đánh phá Angkor, uy hiếp và thống trị Chân Lạp. Năm 1432, vua Chân Lạp Ponhea Yat bỏ Angkor dời xuống phía Nam ở vùng Chakdomut – PhnomPênh. Năm 1520 lại bỏ chạy về Lovek- La Bích ? Năm 1595, Ayuthia đốt phá kinh thành Lovek, bắt tòan bộ quan quân Chân Lạp. Từ đây việc phế lập các vương triều Chân Lạp đều do Ayuthia quyết định. Điều đáng lưu ý là người Ayuthia tuy đánh Chân Lạp, nhưng không chủ đích chiếm đóng Angkor , chỉ cướp của và lùa bắt nông nô. Đây là giai đọan dân Khmer lưu tán, chạy trốn về đồng bằng Đồng Nai – Cửu Long. Về phía Việt Nam, Chúa Sải xứ Đàng Trong là Nguyễn Phúc Nguyên, nối nghiệp cha là Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đã khéo léo ngọai giao với Chiêm Thành và Chân Lạp ở phương Nam, để phát triễn đất Thuận Quảng. Năm 1623 chúa cho lập hai trạm thu thuế và đồn quân bảo vệ an ninh và trật tự ở Prey Nokor và Kas Kobey ( Sài Gòn – Bà Rịa ).
Đền Ankor |
Những danh nhân ít khi nói đến, đã” khai hoang” Đồng Nai -Cửu Long
1- Công nữ Ngọc Vạn, công đầu Nam Tiến vùng này, bị bỏ quên
Hoàng Nữ Ngọc Vạn |
Công nữ Ngọc Khoa đã tạo điều kiện cho người Việt mau lẹ vượt qua Chiêm Thành, tràn xuống vùng Đồng Nai – Cửu Long. Chúa Sải đã biết được vùng đất hoang vu trũng thấp mà chánh quyền Chân Lạp chưa bao quát nổi, không quan tâm đến. Người Chân Lạp cũng không quen canh tác ruộng nhập nước ; đất Thuận Hóa và Quảng
Công Nữ (lúc này chúa xứ Đàng Trong chưa xưng Vương – Vua nên con gái chưa là công chúa được ) Ngọc Vạn là Hoàng Hậu Sam Đát ( Sodach Prea … ) , là người khôn khéo, nói được tiếng Khmer, biết viết chữ Pa Li, biết mặc xà rong , bới tóc cao … nên gây được cảm tình và ảnh hưởng lớn trong triều đình Chân lạp. Ngay sau hôn nhân, bà đã xin với chồng cho phép người Việt được chánh thức khẩn hoang vùng Đồng Nai – Mô Xòai ( Bà Rịa – Bình Phước, Phước Long). Theo chân bà , một số người Việt đến tận Oudong, Pnom Pênh … mở xưởng đóng tàu, lập hiệu buôn …, thu đạt về cho tổ quốc một lảnh thổ lớn; bà là viên tướng tiên phong mở đường cho một giai đoạn mới Nam Tiến, từ Bà Ria- Tây Ninh xuống tận Rạch Giá – Cà Mau. Năm 1625 , vua Chetta II đột ngột qua đời. Triều chính Chân Lạp rối lọan, các hòang thân, hòang tử ai cũng thấy ngôi vàng là của mình. Để tránh khỏi vòng tranh chấp, bà mượn cớ đi lập chùa, đưa hai con về ẩn thân ở vùng Đồng Nai - Mô Xòai, nơi 5 năm trước bà đã chánh thức lập xóm làng. Sử Cao Miên – Cam Bốt chép: khi quốc vương thăng hà, tất cả vùng thuộc miền Nam từ Prey Nokor đến ranh giới Chiêm Thành, các tỉnh Bà Rịa và Kampeap Srekatret ( Biên Hòa ) đều do người Việt cai trị.
Năm 1642, hòang tử Ponhea Chan, ta gọi là Nặc Ong Chân, con người vợ Lào của vua Chetta II, lên ngôi, cưới vợ người Mã Lai và theo đạo Hồi. Người Chân Lạp gọi Nặc Ong Chân là “Vua Tà Đạo” vì muốn đem Hồi Giáo thay thế Phật giáo làm quốc giáo. Năm 1658, thành phần chống đối chạy trốn về vùng Bà Rịa – Mô Xóai xin Thái Hậu Ngọc Vạn che chở. Bị Nặc Ong Chân truy kích đến tận Bà Rịa, bà cầu cứu cháu là Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần. Chúa Hiền phái Nguyễn Phúc Yên trấn thủ Phú Yên, đem 3000 quân cứu cô ruột, đánh tan hạm đội quân Miên ngòai khơi Bà Rịa, bắt nhốt Ponhea Chan vào củi sắt đem về Quảng Bình và Ponhea Chan băng hà ở đó. Năm 1660, chúa Hiền đưa con trưởng của bà Ngọc Vạn lên làm vua Chân Lạp, tước hiệu là Batom Reachea , đóng đô ở Oudong. Cả hai vua Ponhea và Batom Reachea đều ký hòa ước nhận triều cống chúa Nguyễn hằng năm. Riêng vùng đất Prey Nokor và Kas Kobey, Chúa Hiền lại đặt con thứ hai của bà Ngọc Vạn làm Nhị Vương, sử việt gọi là Nặc Ong Nộn, đóng đô ở Prey Nokor – Sài Gòn .
Năm 1672, Batom Reachea bị con rễ giết chết. Ang Chey, sử ta gọi là Nặc Ong Đài, con trưởng của Batom Reachea giết được kẻ phản nghịch và được triều đình Chân Lạp đưa lên ngôi. Năm 1674, Nặc Ong Đài đưa quân Xiêm tấn công vùng Đồng Nai, đánh đuổi chú ruột Nặc Ong Nộn. Chúa Hiền sai Dương Lâm đi cứu. Đang đêm Dương Lâm đánh úp, phá các lũy Sài gòn ( lần đầu tiên chánh sử Việt năm 1674, gọi tên Prey Nokor là Sài Gòn Ong Đài lập ra) và Bích Đôi. Ong Đài thua chạy và bị đồng bọn giết chết. Em là Ang Saur, sử gọi là Nặc Thu, được chúa Nguyễn cho lên làm vua lấy hiệu là Chey Chetta IV. Năm kỷ mùi 1679, Chúa Hiền giáng dụ sang Cao Miên, bảo Thu Vương để đất cho Dương Ngạn Địch ở. Quân tướng này là một trong hai nhóm trên 3000 người di thần trung thành với nhà Minh – Trung Quốc cùng 50 chiến thuyền, không chịu thần phục nhà Mãn Thanh, đến cửa Đà Nẳng xin tá túc. Cả hai Thu Vương, chính vương ở Oudong và Nhị Vương Nặc Ong Nộn đóng đô ở Sài Gòn, nhanh chóng chấp nhận không điều kiện, không thắc mắc.
Kiến trúc Chân Lạp |
Công lao, sự nghiệp của Công nữ Ngọc Vạn đối với việc mở mang đất nước thật là to tác, nhưng ngày nay, thờ bà chỉ có một tháp nhỏ bé ở chùa Kim Cang , xã Vĩnh An tỉnh Đồng Nai – Biên Hòa mà thôi! Đáng lý Việt Nam phải xây chùa tháp đồ sộ thờ bà ở một khu Sài Gòn và ở Bà Rịa mới phải !
2- Thống Xuất Nguyễn Hữu Cảnh, người tuyên bố chủ quyền lãnh thổ Đồng Nai – Cửu Long
Sau khi chúa Hiền can thiệp với Thu Vương cho hai nhóm di thần nhà Minh vào khai thác đất Đồng Nai và Mỹ Tho, nhóm ở Biên Hòa tập trung ở Cù Lao Phố, mở mang phố xá, thu hút nhiều thương nhân nước ngòai đến buôn bán , mỗi ngày mỗi thịnh vượng … Còn nhóm ở Mỹ Tho cũng lập chợ búa, mở cảng buôn bán thuyền buôn đến tấp nập “ ruộng đất bằng tốt… có những vườn cau xum xuê. ”. Năm 1689, phó Vương Nặc Nộn không còn ở Sài Gòn nữa, về sống ở Srei Santor. Cho nên đất miền Nam trên nguyên tắc vẫn là vô chủ. Cư dân là dân tứ xứ hội tụ. Từ nê địa hoang vu không ai thèm quan tâm, nay đã trở nên giàu có, phồn thịnh làm Xiêm, Lào thèm thuồng, Chân Lạp tiếc rẽ, chưa kể kể các thế lực người Hoa đang bành trướng trong nội địa. Để ổn định việc cai trị lâu dài, bảo vệ lưu dân người Việt, Minh Vương Nguyễn phúc Chu sai Thống suất Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh ( có khi gọi là Kính, Chưởng cơ là lữ đòan trưởng, Thống xuất Chưởng cơ là sư đòan trưởng, cấp bậc ít nhất là trung tướng ngày nay), con tướng Nguyễn Hữu Dật dòng dõi Nguyễn Trãi, vào Nam kinh lược. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên mô tả họat động của Nguyễn Hữu Cảnh trên vùng đất mới như sau : - Bắt đầu đặt phủ Gia Định : Chúa sai Nguyễn hữu Cảnh kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai đặt làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên – Biên Hòa . Lấy xứ Sài Côn ( Sài Gòn ), dựng dinh Phiên Trấn (Gia Định ). Mỗi dinh đặt chức Lưu Thủ, Cai Bạ, Ký Lục và các cơ đội thuyền, thủy, bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân siêu dạt từ Bố Chánh trở vào Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã, thôn, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền, lại lấy người Thanh ( người Hoa đời nhà Thanh ) đến buôn bán ở Trấn Biên, lập xã Thanh Hà. Ở Phiên Trấn, lập xã Minh Hương. Từ đó, người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ của ta ( xác định quốc tịch ). Hành vi pháp lý này rất quan trọng và thật đúng lúc. Thống xuất Nguyễn Hửu Cảnh không phải là tiền hiền xung phong đi khai khẩn mà là hậu hiền khai cơ, nói nôm na Thống Xuất Nguyễn Hữu Cảnh là người đã đặt tên và chánh thức khai sanh đồng bằng Đồng Nai- Cửu Long miền Nam nước nhà. Một điều đáng lưu ý là kể từ đây, lảnh thổ Việt Nam đã được phân định, nên những phần đất nhập vào lảnh thổ Việt Nam sau này, mặc dù vẫn còn hoang vu chưa người khai thác, chánh quyền Chân Lạp cũng chưa bao giờ đặt chân cai trị, nhưng Trần đại Định, Mặc thiên Tứ đều yêu cầu các quốc vuơng Chân Lạp chánh thức dâng hiến cho Việt Nam: Nặc Tha dâng đất Longhor Mesa ( Long Hồ, Mỹ Tho), Nặc Nguyên dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp ( Gò Công, Tân An ), Nặc Nhuận dâng đất Trapeang, Bassac ( Trà Vinh, Ba Thắt ), Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long ( Long Xuyên ).
Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh tại dinh Ông xã Kiến An. (Ảnh Wikipedia) |
Năm 1699, Nặc Thu lại làm phản đắp lũy Bích Đôi- Nam Vang - Cầu Nam đưa quân cướp bóc dân buôn. Chúa Minh lại sai Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống xuất, lấy binh dinh Bình Khang, Trấn Biên, Quảng Nam, cùng binh tướng Long Môn Trần Thượng Xuyên đi đánh. Quân Việt tiến vào Nam Vang, Nặc Thu bỏ thành chạy trốn. Năc Yêm, con Phó Vương Nặc Nộn ra hàng. Thống xuất vỗ an dân chúng, tuyên bố chủ quyền của hai nước và chánh sách chiêu mộ dânở vùng đất mới, đối xử bình đẳng giữa các tộc dân nên được dân Chân Lạp hết sức hoan nghênh. Sau này có nhiều đợt người Miên di dời lập nghiệp miền Hậu Giang và dân Khmer lập đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh tại Nam Vang và tôn xưng ông là Thành Hòang Nam Vang. Thống xuất báo tin thắng trận rồi lui binh. Quân về theo sông Tiền Giang đến Cù Lao Tiêu Mộc ( Cồn Cái Sao – Chợ Mới, Long Xuyên ), ba quân và ông bị phát bệnh dịch ( Theo Gia Định Thành Thông Chí ), hai ngày sau đến Rạch Gầm ngã ba sông Tiền, ông trút hơi thở cuối cùng. Ông được sắc phong Thượng Đẳng Thần Lễ Thành Hầu. Một số binh bản bộ của ông còn ở Cồn Sao lập nghiệp, khai khẩn vùng đó và đặt tên là Cù Lao Ông Chưởng ( Thống Suất Chưởng Cơ – Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ). Ông là người được dân miền Đồng Nai – Cửu Long sùng bái và lập đền thờ nhiều nhất.
3-Chánh thống Cai Cơ Nguyễn Cửu Vân đào kinh Bảo Định, khai khẩn đất Tân An- Gò Công.
Năm 1705, nội bộ Chân lạp chia thành hai quyền lực: Ong Thu làm Chính Vương và Ong Nộn làm Nhị Vương. Nội bộ thường tranh chấp, nước lọan triền miên. Sau khi Ong Nộn mất, Ong Thu phong con Ong Nộn là Ong Yêm làm quan. Đến đời con Ong Thu là Ong Thâm lại xích mích. Ong Thâm viện binh Xiêm và Ong Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu. Chúa Nguyễn sai Chánh Thống Cai Cơ( theo quân sự nhà Nguyễn Phước, cai cơ tương đương với tiểu đòan trưởng – cấp bậc ít nhất là thiếu tá ngày nay, Chánh thống Cai cơ là Trung đòan trưởng ). Nguyễn Cửu Vân đem quân đánh Nặc Thâm. Đến Sầm Giang, quân Vân đánh tan viện quân của Xiêm. Nặc Thâm chạy sang Xiêm. Quân Vân hộ tống NặcYêm về thành La Bích, lập lại ngôi vua. Nước Chân Lạp nay đã yên, Vân bèn khai khẩn ruộng ở Cầu Uốc . Ông lại cho rằng, giặc thường vào ngầm đất ấy quấy rối phía sau quân ta, bèn cho đắp lũy dài từ Quán Gai đến chợ Lương Phú, đào thông hai ngòi Cầu Uốc – Mỹ Tho, dẫn nước về làm hào ngòai lũy, để việc phòng thủ được nghiêm mật. Năm 1711, ông được thăng Trấn Biên Phó Tướng. Vân cho đắp lũy và đào kinh cho Rạch Vũng Gù và Rạch Mỹ Tho ăn thông nhau, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua sông Tiền. Về sau Vân lại cho đào sâu thêm, nhưng vì có giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào nên bị cạn, thuyền to phải chờ nước lớn mới qua được. Năm 1772, con Cửu Vân là Cửu Đàm đào kinh Ruột Ngựa nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm .Như vậy đã có tạm đường nước thông thương từ Mỹ Tho qua Vũng Gù, Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo dòng nước đến Ba Cụm, rồi theo sông Bình Điền tới Chợ Lớn. Đây là đường huyết mạch hết sức quan trọng để chuyên chở lúa gạo từ đồng bằng Cửu Long lên Sài Gòn. Thuở đó đường bộ chưa thông, khi đất nước đã định hình, năm 1819 phải dùng non 10 000 người sửa lại cho rộng và đào sâu thêm.
Đào xong vua đặt tên là Bảo Định Hà. Cùng năm 1819, Huỳnh Công Ly, Phó Tổng Trấn Gia Định Thành cũng đốc xuất dân đào con kinh nói nối từ cầu Bà Thuông đến kinh Ruột Ngựa, vua đặt tên là An Thông Hà. Nguyễn Cửu Vân tuy có công lớn trong việc khởi xướng đào kinh Bảo Định, ngòai việc đưa nước vào đồng ruộng mở rộng canh tác khai khẩn vùng đất Tân An – Gò Công, còn có giá trị lớn tới ngày nay trong chiến lược và trong giao thông vận tải, nên được phong làm Trấn Biên PhóTướng. Nhưng bên cạnh đó có sự “dụng công vi tư”, nên Chúa Minh có lời quở trách. Khi mất Nguyễn Cửu Vân được truy phong là Chính Thống Vân Trung Hầu.
Kênh đào Bảo Định |
4-Tiền Quân Kiến Xương quận công Nguyễn Hùynh Đức liều thân cứu chúa
Nguyễn Huỳnh Đức |
Nguyễn Hùynh Đức còn là người sinh quán năm 1748, tại giồng Cái En làng Tường Khánh, nay là xã ( phường ) Khánh Hậu thuộc tỉnh lỵ Tân An, tỉnh Long An ngày nay. Khánh Hậu cũng là nơi một nhóm nhà chánh trị xã hội học Hoa Kỳ nghiên cứu chi tiết văn hóa, xã hội làng xã đồng bằng Đồng Nai- Cửu Long, trên căn bản Mỹ ( ? ) đầu tiên ( ? ) ở Việt Nam, cuối thập niên 1950 ( ? ). Tên tộc của ông như vừa kể trên là Hùynh Tường Đức, con của một võ quan triều Lê là cai đội Hùynh Công Lương. Năm1780, Nguyễn Ánh xưng vương hiệu tại Sài Gòn. Lúc bấy giờ Đỗ Thành Nhân đã chiêu tập một đội nghĩa quân trên 3000 người, dựng cờ đề hai chữ “ Đông Sơn “ để chống với Tây Sơn, hầu đưa hòang tử Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi cữu ngũ. Huỳnh Tường Đức hồi đó đã 33 tuổi, từ giã vợ con, vai mang cung kiếm đến xin gia nhập nghĩa quân Đông Sơn .
Năm 1783, Nguyễn Hùynh Đức cầm binh đánh với Tây Sơn Nguyễn Huệ tại Đồn Tuyên ?, bị sanh cầm, bỏ tù xa giải đến Nguyễn Huệ. Huệ nghe danh Nguyễn Hùynh Đức từ lâu, truyền quân sĩ mau mở tù xa, giắt Đức đến trước mặt rồi tự tay mở trói cho Đức, khuyến dụ Đức qui hàng. Đức trả lời vô lễ, không chịu đầu hàng. Nhưng Huệ mến tài Đức, không nỡ giết và đối đải trọng hậu, mong một ngày nào đó Đức sẽ hồi tâm qui phục Tây Sơn. Năm 1786, Nguyễn Huệ đem Đức ra miền Bắc đánh chúa Trịnh vì sợ Đức vượt ngục tìm chúa cũ, thêm vi cánh cho Nguyễn Ánh còn ở trong miền Nam. Diệt xong chúa Trịnh, Nguyễn Huệ đem quân về và khiến Đức đóng binh ở Nghệ An làm phó tướng cho Nguyễn văn Duệ cai trị Nghệ An. Lúc bây giờ chúa Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chia rẽ nhau, ai cũng muốn làm hòang đế. Duệ nguyên là tướng của Nguyễn Nhạc, thời thế bắt buộc phải làm tôi cho Nguyễn Huệ, nên giờ phút nào Duệ cũng mong muốn thóat thân trở về với Nhạc. Tin Nguyễn Hùynh Đức thật lòng muốn phò Nhạc bỏ Huệ, Duệ giao cho Đức một đội kỵ binh 5000 người, khiến vòng theo núi mà vào Qui Nhơn, vì Nhạc đóng đô ở đây. Nhưng sau một tuần lễ, Đức viết thơ cho Duệ khuyên Duệ bỏ Tây Sơn theo chúa Nguyễn Ánh trong Nam . Duệ đem quân rượt theo, nhưng Đức cùng ba quân ngày đêm băng rừng leo núi, noi theo châu Lạc Hòan, tắt sang đất Vạn Tượng – Lào đi, sang nước Xiêm tìm Nguyễn Ánh. Đến Xiêm, Đức mới được biết là Nguyễn Ánh đã trở về Gia Định rồi. Nghe danh Đức, vua Xiêm muốn lưu Đức lại để phò trợ mình, song Đức chẳng hề thay lòng đổi dạ. Cuối cùng vua Xiêm cấp thuyền bè cho Đức trở về Gia Định. Nguyễn Ánh gặp lại Đức, phong cho Đức làm Khâm Sai Chưởng Cơ quản Trung chi tướng sĩ .
Lúc ấy, Lê Văn Duyệt cũng đã ra phò Chúa Nguyễn rồi. Thấy Đức hơn mình 17 tuổi, Duyệt bèn bái kiến Đức làm nghĩa phụ để học hỏi võ nghệ lược thao. Năm 1790, Đức được thăng Chưởng Quân Hửu Quận Dinh. Đức là cánh tay mặt của chúa Nguyễn . Từ mùa thu năm 1790 đến mùa thu năm 1801, Đức đúng như câu đối ở nhà thờ làng Khánh Hậu, cách tỉnh lỵ Tân An chừng 3 km, Đức là hổ tướng khai quốc công thần nhà Nguyễn Phước: Bắc Nam tam tổng trấn, vạn lý binh quyền; Tiền Hửu lưỡng tướng quân lục sư sóai lịnh. Năm 1802, Vua Gia Long phong cho Đức tước Quận công ( nhắc lại là tước theo lớn nhỏ là : “quận” công, hầu, bá, tử, nam ) sai đi trấn thủ thành Bình Định và giữ chức Tiền Quân thay cho Nguyễn văn Thành. Năm 1808, Đức làm tổng trấn Bắc Thành. Năm 1816, vua Thế Tổ lại cho Đức vào làm tổng trấn Gia Định thay Lê Văn Duyệt. Sợ không đương nổi trọng trách, xin thêm người giúp thì Vua Thế Tổ Gia Long cho Trịnh Hoài Đức vào ở chức Hiệp Tổng Trấn. Ngày mồng 9 tháng 9 năm Kỷ Mão ( 1819 ), Đức mất, thọ 72 tuổi. Nhà vua truy tặng ông là: “ duy trung dực vận công thần, đắc tiên phụ quốcThượng tướng quân ,Thượng trụ quốc, Thái phó quận công, thụy trung nghị”. Năm Minh Mạng nguyên niên 1820, ông được thờ tại miếu Trung Hưng Công Thần, Huế- Thừa Thiên .
… Tuy Long An chiếm một phần quan trọng cho đất đai chiến khu Đồng Tháp Mười, nhưng các căn cứ kháng chiến thời Pháp thuộc do đốc binh Kiều thành lập năm 1862, nghĩa quân xây đắp một cái tháp cao 10 tầng ( khoảng 42m ) để làm đài thám thính, lại nằm trong huyện Mỹ An, gần kinh Tháp Mười, nay lại thuộc tỉnh Đồng Tháp – Cao Lãnh, Sa Đéc, nên không ghi danh đốc binh Kiều ở tỉnh Long An được. Dù rằng Long An thuở xưa chỉ có ba lối đi vào chiến khu Đồng Tháp Mười, một lối từ Gò Bắc Chiên đi xuống ( thuộc tỉnh Kiến Tường- Mộc Hóa cũ ) mới thuộc đất tỉnh Long An. Lối Đồng Bắc Chiên tỉnh Long An, cũng có tiền đồn Bắc Chiên án ngữ, có hào lũy bao quanh như ba đồn chánh Mỹ An ( đồn Tiền, đồn Tả , đồn Hửu ), ngòai lũy có hào sâu cắm chông nhọn, có 100- 150 nghĩa quân trấn giữ và có từ 15 đến 25 súng “ bắn đá”. Khi vua Tự Đức nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp, anh hùng Trương Công Định lập chiến khu “ Đám Lá Tối Trời” ở Gò Công để đánh quân Pháp xâm lăng thực dân và Gò Công nay lại thuộc tỉnh Tiền Giang - Mỹ Tho. Sau khi Trương Công Định chết, anh hùng Võ Duy Dương dựa vào căn cứ Đồng Tháp Mười đã đánh quân Pháp khắp miền Hậu Giang. Ngày 15 tháng 4 năm 1865, Pháp vây kín căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương và nghĩa quân rút về Cao Lảnh rồi sang vùng Vàm Cỏ Tây, lập căn cứ kháng chiến mới. Tại đây, ông mắc bệnh thương hàn rồi chết. Thời Nam Bộ Kháng chiến, năm 1946, tướng Trần Văn Trà tái lập chiến khu Đồng Tháp Mười, để trường kỳ kháng chiến chống Pháp, cùng lúc với Nam Bộ tổ chức chiến khu U Minh, chiến khu Dương Minh Châu và chiến khu D. Năm 1948 Pháp mở cuộc hành quân càn quét chiến khu Đồng Tháp Mười, nhưng hành quân đại qui mô này lại không chạm trán với địch quân Việt Minh ( Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, sau năm 1960 mới gọi là Việt Cọng ). Việt Minh đã ngụy trang khéo léo các công sự chiến đấu, nên Pháp không nhận ra, và bộ đội Việt Minh đã rút đi trước khi quân đội viễn chinh siết chặc vòng vây. Ngày 31.7 1951, tướng Chanson, tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở miền Nam đi thị sát công cuộc bình định ở miền Nam, bị quân Việt Minh ám sát chết tại Cao Lảnh, tỉnh Đồng Tháp. Năm 1963, quân Việt Nam Cộng Hòa dưới sự cố vấn và chỉ huy của John Paul Vann - Hoa Kỳ, bao vây một tiểu đòan chủ lực Việt Cọng ở Ấp Bắc thuộc tỉnh Tiền Giang, nhưng ở trong lòng chiến khu “mới” Đồng Tháp Mười, áp dụng chiến thuật thiết vận xa M113 và trực thăng vận mà quân đội VNCH chưa quen thuộc, để tiêu diệt bộ đội Việt Cọng. Quân VNCH và Hoa Kỳ thiệt hại nặng nề, vì tướng John Paul Vann không rành địa thế sình lầy, trống trải Đồng Tháp Mười và chiến thuật đóng chốt của quân Việt Cọng, khiến cho bộ binh và chiến vận xa M113 không thể tiến nhanh được và làm mồi cho hỏa lực Việt Cọng. Quân dù từ trên cao bị rừng tràm che mắt, không thấy được quân Việt Cọng, núp trong các công sự chiến đấu. Trái lại quân Việt Cọng thấy rất rỏ quân dù, từ các công sự chiến đấu. Trực thăng võ trang UH-1B không thể xuống thấp để oanh kích vì bị hỏa lực chụm bắn nà. Vì vậy mà suốt 14 giờ chiến đấu, từ mờ sáng đến tối, VNCH và Hoa Kỳ thiệt hại rất nhiều về quân số, thiết vận xa M113 và trực thăng võ trang UH1B. ( chiếu theo Thiện Phương Đặng Như Tây, Đồng Nai – Cửu Long số 2 – 2005 ? )
Phần II :
Lạm bàn Phát triển tỉnh Long An
Phần A :
Địa hình , đất đai , khí hậu, sông ngòi- kinh rạch…
Đường vào Mộc Hóa xa xôi
Dầu cao đứt đọ, sao rơi cánh chuồn!
Gió đưa hơi lạnh chiến trường
Ngàn năm di hận, Kiến Tường còn trơ!
…Kể từ cải cách năm xưa
Dụ Năm – Mươi- Bảy có vừa lòng dân ?
Dinh Điền, Trù Mật còn không ?
Ấp nào Chiến – Lược thù trong giặc ngòai ?
Người Cày Có Ruộng trong tay
Tấn công Bình Định, dựng xây oán hờn!
Để rồi lộng giả thành chơn
Vùng Kinh Tế Mới, mồ chôn sống người!
Trại gì Cải Tạo nực cười
Kẻ ngu vác mặt dạy đời người khôn! …
( “Bài Thơ Đồng Tháp”, Hòang Châu )
Địa hình , khí hậu, sông ngòi, kênh rạch .
Địa hình tổng thể LongAn chia ra làm nhiều vùng nhỏ hơn vì một hệ thống chằng chịt sông ngòi và kinh rạch trầm tích bùn – silt từ hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây làm cao thêm địa thế và tăng gia mức phì nhiêu của Long An cho phát triễn nông nghiệp. Địa hình tỉnh nhà rất bằng phẳng, ngọai trừ vài đồi, gò ở phía Bắc tỉnh. Phần phía Tây là Đồng Bằng Lau Sậy – Plain of Reeds, Plaine des Joncs, nhưng Việt Nam lại gọi là trũng Đồng Tháp hay đồng của những “tháp” xưa cỗ thời văn minh Ốc Eo - Phù Nam ? hay Đồng Tháp Mười ( tháp mười tầng Đốc binh Kiều xây dựng ) . Khí hậu tỉnh thuộc khí hậu gió mùa vùng nhiệt đới.
Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình tỉnh nhà là 27.4 0 C . Lượng mưa trung bình mỗi năm là 1620mm. Ba sông chánh ở Long An là sông Vàm Cỏ Đông , sông Vàm Cỏ Tây và sông Rạch Cát ( còn gọi là sông Cần Giuột, sông Sòai Rạp, chảy ra cửa Sòai Rạp, biên giới hai tỉnh Tiền Giang và Long An ngày nay). Sông Vàm Cỏ phát nguyên từ Căm Bốt có 2 nhánh: sông Vàm Cỏ Đông còn có tên là sông Bến Lức , dài 300km, chảy xuống tỉnh Tây Ninh ( Trảng Bàng – Gò Dầu ) rồi Long An và đổ ra cửa Sòai Rạp , sông Vàm Cỏ Tây chảy qua Mộc Hóa đến Thủ Thừa, qua cầu Tân An tỉnh lỵ Tân An , rồi nhập cùng Vàm Cỏ Đông để đổ ra cửa Sòai Rạp , còn gọi là cửa Vàm Láng ( theo Thái công Tụng- 2005 ) .
Ngòai một số kênh đào thời chúa Nguyễn ( Bảo Định Hà , An Thông Hà ), thời các vua Gia – Long Minh Mạng đào tay các kinh nhỏ và ngắn là kinh Bà Bèo phía sông Vàm Cỏ Tây, kinh Ông Hống, kinh Cái Cỏ nối rạch Cái Cái với Svay Rieng ( năm 1815) , đào sâu và kéo dài 20 km , kinh Bảo Định năm 1819, nối liền sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền và kinh tên Pháp là Arroyo de la Poste, từ Tân An đến Mỹ Tho... Lúc còn an ninh, Đệ Nhất Cọng Hòa đã đào kinh Đồng Tiến giữa trủng Đồng Tháp ngang qua hai tỉnh Đồng Tháp và Long An ngày nay và chiến tranh đã cản trở công cuộc phát triễn thủy nông thủy lợi ở tỉnh Long An. Từ năm 1981 đến năm 2000, riêng hai tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp ( một phần ngang qua tỉnh Long An ) đào thêm 600 km đường sông, và trên 2300 km đường kinh dùng đất đào làm thành đường bộ đến các thôn xã . Sau năm 2001, tổng số chiều dài sông ngòi, kênh rạch hai sông Vàm Cỏ tăng gia đến trên 8912 km , nhiều nhất trên sông Vàm Cỏ Đông; đưa nước sông Đồng Nai – La Ngà ( đập Dầu Tiếng ) về rửa phèn , ngăn phèn trồi lên mặt đất mùa khô… thay vì chỉ lưu ý đến nước hạ lưu sông Cửu Long mà thôi, khai thác Đồng Tháp Mười làm 2 – 3 mùa lúa cao năng, biến vùng dân thưa thớt thành những thị trấn đông đúc như thị trấn Mộc Hóa ở tỉnh Long An , thị trấn Tân Phước tỉnh Tiền Giang và thị trấn Mỹ An, tỉnh Đồng Tháp…
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.
Muốn ăn bông súng mắm kho,
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm.
Đồng xanh điểm trắng cánh cò,
Thương em vì bởi câu hò có duyên .
Đốt than nướng cá cho vàng,
Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi
(Ca Dao Miền Nam , Phan Tấn Tài sưu tập )
…Đất đai dầu có linh hồn,
Mấy lần đổi chủ đất còn nhớ chăng ?
Đất phèn vàng gốc cỏ năng
Hởi nhà trị thủy , biết chăng … Tháp Mười !
(Bài Thơ Đồng Tháp, Hòang Châu )
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh |
Cũng theo Thái Công Tụng, nước lũ chuyển về Đồng Tháp Mười từ biên giới Căm Bốt chiếm đến 77 % khối lượng, nhưng chất lượng kém vì trước khi chảy vào nước ta đã phải chảy qua cánh đồng phèn Cam Bốt và bị cây cỏ lọc gần hết phù sa. Nồng độ phù sa sông Cửu Long là 0.250kg/m3 và thể tích hàng năm lên đến hàng trăm triệu tấn. Nhắc lại là lưu lượng trung bình sông Cửu Long là 10 700m3/giây, vào mùa lũ lụt cao có khi lên đến 53 000m3/giây; vào mùa kiệt các tháng 3 -4 lưu lượng chỉ còn 2 000m3/giây . Khi lưu lượng nước trong sông vượt 25 000m3/giây , 25 % đất đai châu thổ đã bị ngập nước . Vào mùa khô, khi lưu lượng sông Cửu Long nhỏ hơn 6 000m3/ giây , nước ngọt đã bắt đầu khan hiếm và dòng chảy sông đã yếu , nên nước biển theo thủy triều lấn sâu vào nội địa, các vùng ven biển nhiễm mặn. Ủy Ban sông Mê kông ( NIAPP- 1989 ) đã chia ra 6 vùng thời gian ngập nước ( xem hình) từ không ngập nước đến ngập nước ít hơn 3 tháng, ngập nước 3-4 tháng, 4-5 tháng và lâu hơn 5 tháng. Thị xã Tân An, các vùng Long An dọc theo Vàm Cỏ Đông đến Mộc Hóa thời gian ngập nước ít hơn 3 tháng , phía trên Cao Lảnh ở các trũng “tứ giác” giữa Đồng Bắc Chiên , Cái Cái , Vĩnh Hưng , Mộc Hóa ngập lâu nhất từ 4-5 tháng đến trên 5 tháng. Ngòai ngập lụt , điều kiện khai thác đất đai còn bị trở ngại vì nước mặn xâm nhập mùa khô sâu xa, quá Bến Lức trên sông Vàm Cỏ Đông và Thủ Thừa trên sông Vàm Cỏ Tây ( xem hình ). Trên sông Cửu Long nước triều mùa khô lên đến Kong Pong Cham trên nhánh sông Mê Kông giữa Nam Vang – Pnom Penh và Kratie ở Căm Bốt. Long An có chế độ nhật triều không đều, có nghĩa là số ngày bán nhật triều ( một ngày có hai lần thủy triều lên xuống ) nhiều hơn số ngày nhật triều ( một ngày chỉ có một lần thủy triều lên, một lần thủy triều xuống). Mực nước thủy triều có ảnh hưởng lớn đến đồng bằng Long An, Đồng Tháp Mười, từ chuyên chở trên sông, kinh, rạch đến rút nước phèn, đưa nước vào ruộng tưới tiêu … Cũng vì vậy mà NIAPP, Ủy Ban Ban sông Mê Kông, năm 1989, đã chia đồng bằng Vàm Cỏ - Châu Thổ sông Cửu Long Việt Nam ra thành 15 tiểu vùng sinh thái đất đai và thủy tính- agro ecological zonation , tùy thuộc độ phèn , độ mặn , ngập nước sâu cạn và lượng mưa thấp hay cao . Đất đai dọc biên giới Việt Miên từ Tân Châu ( tỉnh An Giang ) đến Mộc Hóa, Nông Trường Đồng Tháp , Đức Huệ… thuộc nhóm 4 nghĩa là ít cản trở về phương diện đất , mực nước ngập cạn: vùng Bến Lức thuộc nhóm 12 mùa khô bị mặn, đất đai không mấy phèn, lượng mưa thấp; vùng trũng Bắc Chiên, Vĩnh Châu, Bắc Hòa, Tân Thạnh , Nam Mộc Hóa… thuộc nhóm 5 , đất đai khá phèn, ngập sâu; Vùng Lương Hòa , kinh Bo Bo phía Bắc Thủ Thừa thuộc nhóm 6, đất rất phèn và ngập sâu; vùng từ Tân An xuống Mỹ Tho, bến đò Mỹ Thuận , thuộc nhóm 8 đất không phè , ngập cạn …Thế nhưng phân chia sinh thái này của chuyên viên Ủy Ban
sông Mê Kông, hầu giúp qui định dinh chánh sách khthác Đồng Tháp Mười, sau các năm 2001- 2003, đều tỏ ra có phần bi quan.
Đồng Tháp Mười nguyên là một vùng rừng cây cỏ rậm rạp um tùm, nhưng nay phần lớn đã được khai thác trồng lúa; chỉ còn lại hai vùng thiên nhiên nhỏ được bảo vệ. Ở tỉnh Long An là Láng Sen , còn sót lại một khu rừng tràm bán thiên nhiên dọc theo một rạch thiên nhiên vì vậy còn gía trị đa dạng sinh học quan trọng. Diện tích bảo vệ ở Láng Sen là 3280 ha , trong đó rừng tràm thiên nhiên chiếm khỏang 700 ha. Những liếp hoa sen- lotus và trảng cỏ cũng chiếm chừng 700 ha. Diện tích còn lại ở Láng Sen nay cũng đã trở thành ruộng lúa . Đồng Tháp Mười kiểm kê được 127 lòai thực vật , theo 3 sinh thái chánh :
- Trảng cỏ ngập theo mùa lũ chia ra nhiều thứ . Thứ cỏ ngự trị là lòai cỏ năng (spike rush) Eleocharis dulcharis ? – dulcis họ Lác Cyperaceae làm đồ ăn chánh cho Sếu , đặc sắc cho vùng đất phèn nặng mùa nước nổi , một thực vật đa niên nhờ củ nhỏ, thân có thể cao vài mét (không nên lầm với cũ mã thầy hay năng củ – water chesnut, chataigne d’eau ,trồng nhiều ở miền Bắc và nay cũng trồng bán siêu thị Á Đông, Hoa Kỳ tên la tinh là E. dulcis var. tuberose ) và lúa ma- lúa trời Oryza rufigopon (tên cũ là O. sativa f. spontanea), một loài lúa thiên nhiên nhưng đa niên thay vì hàng niên như lòai lúa hoang dại gần gủi là Oryza nivara , hột dễ rơi rụng , xen lẫn vài đám tràm. Lúa trời là một lòai lúa hoang dại hiếm có của tông chi. Lúa Oryza, một lòai cỏ hòa bản mọc theo nước lũ được, thân lá có khi dài hơn 4m và trấu có chóp lông gai- awn dài11cm. Lòai cỏ năng khác thấy nhiều ở Đồng Tháp là cỏ năng nĩ , bụi thưa chỉ cao 20- 50cm, thân xốp dùng làm nệm , tên la tinh là Eleocharis ochrostachys.
Nelumbo nucifera |
Các lòai súng (water-lilies), họ Súng Nymphaeaceae thường thấy là lòai súng lam ( Blue Lotos of India, Indian Blue Water lily ) Nymphaea nouchali, căn hành tròn tròn, cuống dài cả 2m mặt dưới lá màu đỏ , hoa rộng 7- 15cm màu lam lợt hay trắng nở từ sáng đến trưa, lòai súng trắng ( night lotos ) Nymphaea pubescens , phiến lá xanh đậm láng mặt trên ,mắt dưới đầy lông mịn màu nâu ( khác với lòai sen súng Ai Cập- Egyptian Sacred Lotos mặt dưới lá không lông ) , hoa trắng hay hường, chỉ nở sáng sớm; và lòai súng chỉ -súng vuông- súng co Nymphaea tetragona là lòai hoa súng cây nhỏ nhất trong tông Nymphaea .
- Các rừng ngập nước gồm những đám rừng tràm rải rác bán thiên nhiên liên kết với những lòai trâm Sygysium spp, họ Sim Myrtaceae, lòai năng ẩm thấp Eleocharis hygrophilus , lòai sung gừa đại mộc Ficus microcarpa , họ dâu tằm Moraceae ,và lòai Ô môi Cassia grandis họ-phụ Điệp Caesalpinoideae và các rừng tràm trồng lại ở nhiều giai đọan tăng trưởng, từ cây tràm con đến cây trưởng thành đốn được rồi, thân cao đến 9m. Rừng tràm Đồng Tháp như vậy không còn ngút ngàn như thời xa xưa nữa, khác với rừng tràm nay còn mênh mông vùng U Minh Thượng – U Minh Hạ hai tỉnh Kiên Giang – Rạch Gía và Cà Mau. Tràm ( cajeput tree, paper bark tree, Niaouli ) theo Phạm Hòang Hộ, Cây Cỏ Việt Nam - 2003 ) tên la tinh là Melaleuca cajuputi Powel, không phải là Melaleuca leucadendron L.f. là lòai tràm lá hẹp hơn, gié ở chóp chánh chỉ tìm thấy ở Úc Châu, Tân Ghi nê và Molucca ( theo Blake từ năm 1968 ) M. cajuputi là một đại mộc cao đến 20m , thân to 30cm, vỏ trắng xốp làm nguyên liệu sản xuất giấy tốt, lá rất thơm chưng cất cho tinh dầu màu lục, phiến lá thon không lông, mùa hè hoa nở trắng xóa, huơng hoa tràm quyến rũ ong từ các nơi về hút mật hoa. Cũng xin nhắc lại là ở rừng tràm , các cây mốp và nhất là
dây
chọai ngâm nước có độ bền bỉ không
kém song mây, mọc um tùm khác với rừng đước nền là bải sình trống trải. Chọai – Chại tên la tinh là Stenochlaena- Polypodium palustris là một dây ráng – fern, fougèe, thân leo rất dài có khi đến 20m, phiến là lưỡng hình dài đến 1m. Ngòai vấn đề rạch, kênh mương bị bèo lục bình- bèo Nhật Bổn ( water hyacinth, jacinthe d’eau ) Eichornia- Pontederia crassipes , nguồn gốc Brasil không phải gốc Nhật xâm chiếm Việt Nam từ năm 1902, cản trở giao thông như trên khắp thế giới, đáng lưu ý là một lòai trinh nữ đầm lầy thay vì là Trinh nữ - Mắc cỡ ( lòai Mimosa pudica ) phát hiện đã xâm nhập Đồng Tháp Mười từ năm 1995 , năm 2005 đã lan rộng trên 2000 ha ở Tràm Chim và gần Mộc Hóa, tỉnh Long An. Cỏ Trinh nữ nhọn hay bèo Mai dương tên la tinh là Mimosa nigra L. là một cây cứng cao 2- 3 m, bụi có khi cao đến 4m , sóng lá mang một gai đứng cao 1.5cm giữ mỗi cặp thứ diệp, lá khi đụng tới cũng xếp lại, nhưng chậm hơn Mắc cở M .pudica, hoa đầu vàng không màu hường như hoa Mắc cỡ…
Cách Láng Sen khỏang 23 km phía Tây Nam là Công viên Quốc gia Tràm Chim (huyệnTam Nông) rộng 7 740 ha, có 53 km kinh rạch, chia công viên ra làm 6 nhóm sinh thái. Phần lớn thuộc tỉnh Đồng Tháp.
Nguyên thủy thiết lập năm 1985 là một khu bảo tồn có mục đích bảo vệ sinh thái đất ẩm thấp- wetland ecosystem vùng Tam Nông và Sếu Sarus Crane. Tháng 12 năm 2012, Công viên Tràm Chim được Tổ chức Qui ước Ramsar về Đầm Lầy- Đất Âm Thấp- Ramsar Convention on Wetlands công nhận có tầm quan trọng quốc tế, vì đây là một trong những mảnh đồng thiên nhiên còn sót lại của 700 000 ha vùng Đồng Tháp Việt Nam. Vị trí này cũng là một vài địa điểm đặc sắc có Lúa Ma Trấu Râu, mũi trấu nhọn dài- Brownbeard Rice ( Oryza rufipogon). Công Viên Tràm Chim còn giúp bảo tồn 9 lòai chim và 5 lòai cá có nguy cơ tuyệt tích trên thế giới là cá Bengal Florican, Houbaropsis bengaliensis, và cá chép khổng lồ - Giant Barb – Catiocarpio siamensis. Tràm Chim cũng nhận mùa khô mỗi năm 20 000 chim nước – water birds mà hơn 1% sĩ số là lòai Sếu đông phương- Eastern Sarus Crane, Ngỗng ( ?)- Grus antigone sharpii, và đặc biệt là Cò Trắng –White herons, Storks …Đáng tiếc là theo quan sát các nhà khoa học Việt Nam, năm 1988 đếm được hơn 1050 con Sếu Đông Phương Sarus Crane, năm 2011 chỉ còn đếm được 100 con thôi, có lẽ vì diện tích cỏ năng Eleocharis dulcis,củ nhỏ thực phẩm chánh cho sếu, giảm nhiều. Như vậy cần tăng gia bảo vệ Cò( Sơn ) Trắng – Painted Stork, một lòai cò lớn nặng đến 10 kg, đứng cao hơn 1m và cánh mở rộng đến 1.5 m . Cò Trắng Đồng Tháp cũng đã được xếp vào lọai bị hiểm nguy tuyệt tích. Thêm vào đó nên chú ý thêm đến đàn Bồ Nông - Cormorants lòai chim to lớn Đồng Tháp, cùng Sếu Sarus và Cò ( Sơn ) Trắng là những động vật đặc sắc thu hút khách thăm viếng. Ban quản lý Công viên vùng Tràm Chim kiểm kê được 231 lòai chim ( trong đó có 32 lòai chim hiếm có, 130 lòai cá nước ngọt, 110 động vật sống nước nổi – floating animals, trong đó 23 lòai sống dưới đáy nước, cùng nhiều lòai lưỡng cư, ếch nhái - amphibians và bò sát – reptiles. Tháng 7 năm 2005, ViệtNam khám phá ra lòai cá sấu xiêm hoang dã – siamese wild crocodile Crocodylus siamensis tưởng đâu là đã tuyệt tích ở nước nhà và được xem là động vật đang bị hiểm nguy tuyệt tích trên thế giới.
Nguyên thủy thiết lập năm 1985 là một khu bảo tồn có mục đích bảo vệ sinh thái đất ẩm thấp- wetland ecosystem vùng Tam Nông và Sếu Sarus Crane. Tháng 12 năm 2012, Công viên Tràm Chim được Tổ chức Qui ước Ramsar về Đầm Lầy- Đất Âm Thấp- Ramsar Convention on Wetlands công nhận có tầm quan trọng quốc tế, vì đây là một trong những mảnh đồng thiên nhiên còn sót lại của 700 000 ha vùng Đồng Tháp Việt Nam. Vị trí này cũng là một vài địa điểm đặc sắc có Lúa Ma Trấu Râu, mũi trấu nhọn dài- Brownbeard Rice ( Oryza rufipogon). Công Viên Tràm Chim còn giúp bảo tồn 9 lòai chim và 5 lòai cá có nguy cơ tuyệt tích trên thế giới là cá Bengal Florican, Houbaropsis bengaliensis, và cá chép khổng lồ - Giant Barb – Catiocarpio siamensis. Tràm Chim cũng nhận mùa khô mỗi năm 20 000 chim nước – water birds mà hơn 1% sĩ số là lòai Sếu đông phương- Eastern Sarus Crane, Ngỗng ( ?)- Grus antigone sharpii, và đặc biệt là Cò Trắng –White herons, Storks …Đáng tiếc là theo quan sát các nhà khoa học Việt Nam, năm 1988 đếm được hơn 1050 con Sếu Đông Phương Sarus Crane, năm 2011 chỉ còn đếm được 100 con thôi, có lẽ vì diện tích cỏ năng Eleocharis dulcis,củ nhỏ thực phẩm chánh cho sếu, giảm nhiều. Như vậy cần tăng gia bảo vệ Cò( Sơn ) Trắng – Painted Stork, một lòai cò lớn nặng đến 10 kg, đứng cao hơn 1m và cánh mở rộng đến 1.5 m . Cò Trắng Đồng Tháp cũng đã được xếp vào lọai bị hiểm nguy tuyệt tích. Thêm vào đó nên chú ý thêm đến đàn Bồ Nông - Cormorants lòai chim to lớn Đồng Tháp, cùng Sếu Sarus và Cò ( Sơn ) Trắng là những động vật đặc sắc thu hút khách thăm viếng. Ban quản lý Công viên vùng Tràm Chim kiểm kê được 231 lòai chim ( trong đó có 32 lòai chim hiếm có, 130 lòai cá nước ngọt, 110 động vật sống nước nổi – floating animals, trong đó 23 lòai sống dưới đáy nước, cùng nhiều lòai lưỡng cư, ếch nhái - amphibians và bò sát – reptiles. Tháng 7 năm 2005, Việt
Mùa khô, nước vùng Tràm Chim chỉ còn sâu 40 -50 cm. Mùa lũ nước ngập 1- 1.2 m. Cũng như bèo Mai Dương, cỏ Trinh nữ nhọn, ở nhóm động vật đất ẩm thấp, lọai ốc bưu vàng – golden snail nguồn gốc Nam Mỹ xuất hiện năm 1986, khởi đầu phá hại sinh thái ẩm thấp Đồng Tháp – Tràm Chim rồi lan rộng khắp đồng ruộng miền Nam. Lúa ma Oryza rufipogon, cỏ hội đòan cỏ Mồm Ấn Ischaemum indicum Merr. họ hòa bản Gramineae – Poaceae, một thực vật có căn hành –củ cao 0.5 -1m, phát hoa hình trụ gồm 2 gié, hột dài 5 cm vỏ trấu dưới có có cánh, các củ cỏ năng Eleocharis spp., các đám cỏ Môi, Bấc- rice cut grass Leersia hexandra, một lọai cỏ đa niên có chồi dài mọc thành đám, phiến lá hẹp và dài có bìa rất sắt,cắt đứt da, nhưng trâu bò rất thích ăn, hột trấu tương tự các giống lúa trồng trọt… là những thực phẩm chánh cho ốc bưu vàng, lọai ốc cạnh tranh mảnh liệt với các ốc địa phương. Sau vụ lúa hè thu, ruộng ngập nước và mùa lũ kéo dài, ốc bưu vàng sinh trưởng và phát triễn mau chóng. Trung bình sau mùa lũ, mỗi ha ruộng sau khi bơm nước ra làm vụ lúa đông – xuân, bắt được cả tấn ốc lớn, ngòai vô số kể ốc con. Nếu không diệt được ốc bưu vàng, chúng sẽ ăn sạch lúa. May mắn là từ năm 2009, thay vì phải dùng thuốc trị ốc, tốn kém và tai hại môi sinh, nông dân vùng Đồng bằng Củu Long phát hiện là dùng thịt ốc bưu vàng ( 2kg ốc vỏ cho 1kg thịt ốc ) làm nguồn thức ăn nuôi cá tra, cá trê ,tôm càng xanh , cua đồng… thay thế cá tạp, cám, thức ăn công nghiệp- tổng hợp thì thấy tôm cá cua ăn nhiều và mau lớn hơn . Vịt đẻ cũng rất thích ăn ốc bưu vàng hơn là lúa, cho tỷ lệ trứng rất cao.
Du lịch Long An
Cheo xuồng ba lá giữa rừng tràm
Chèo xuồng ba lá thăm viếng rừng tràm rất địa phương hấp dẫn. Xuồng ba lá làm bằng ba mảnh gỗ ráp lại. Thường do một cựu nữ quân nhân du kích miền Nam từ thời Kháng chiến, mặc áo quần bà ba đen miền Nam , đầu đội mủ vải mềm , chèo với mái chèo, mau lẹ đẩy xuồng lướt băng băng trên kinh rạch sâu, nhưng khi rạch cạn thi chống xuống tiến tới bằng một sào tre dài. Xuồng có thể chở 2-3 người tùy cân lượng nặng nhẹ .Muốn du ngọan vườn tràm thì nên khởi hành từ Xẻo Quýt tỉnh Đồng Tháp, hơn là từ một vị trí rừng tràm Long An. Xẻo Quýt là một căn cứ chiến khu Đồng Tháp thời kháng chiến chống Pháp và thời chống quân đội VNCH và quân đội Hoa Kỳ ( từ năm 1964- 69 là sư đòan 9( ? ) bộ binh Hoa kỳ đóng ở căn cứ Đồng Tâm và rút đi năm 1969 ? ) sau đó. Rừng tràm là một nơi giữ nước ngọt lớn, chống lại xâm nhập nước mặn thủy triều và nguồn trồi phèn chua- acid lên mặt đất , điều hòa ẩm độ đất vào mùa khô.Thời kỳ chiến tranh, đây là vùng đất lý tưởng cho “quân giải phóng” và bộ đội miền Bắc. Kinh chằng chịt, xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 19, nay đã trở thành những đường chuyễn vận, giúp dân gian địa phương khai khẩn đất hoang, trồng lại rừng tràm và ngừa lữa cháy rừng. Phát triễn “văn hóa, xã hội , kinh tế rừng tràm “ được khuyến khích mạnh mẽ sau 1986, liên kết cùng lịch sữ quốc gia khai khẩn hoang địa và bảo vệ lảnh thổ quốc gia. Rừng tràm ngập nước đỏ nâu đầu mùa mưa là một sinh thái điển hình miền nhiệt đới cho chim chóc, cá và động vật hoang dã vừa kể trên. Gỗ tràm mềm dẻo, kháng mục nát hay dùng xây cất nhà cửa, làm sàn nhà. Cho nên ngày nay Việt Nam thiếu gỗ trầm trọng, rừng tràm hay bị tàn phá, lạm thác trong một nền kinh tế chuyễn động về thị trường theo trào lưu hội nhập quốc tế, nếu chánh sách bảo tồn và trồng lại rừng yếu kém, quản lý không mấy hửu hiệu. Hơn nữa mùa khô, cây tràm dễ cháy, gây ra những đám lữa rừng lớn khó chửa, như đã xảy ra năm 1984. Mùa mưa, thăm viếng rừng tràm vô tận, mênh mông khu Đồng Tháp Mười là một chuyến du lịch hi hửu. Chèo ghe, xuồng trong rừng tràm Xẻo Quýt cần phải khéo léo. Muốn tiến tới xuồng phải lướt đi giữa các hàng cây tràm rễ chắc nịch và võ nhiều lớp mỏng màu nâu. Nhưng khí trời mát lạnh, ẩm ướt và hương hoa tràm thơm ngát. Thỉnh thoảng lại được nghe chim hót và tiếng động cá nhảy vọt vang dội trong bầu không khí yên tĩnh. Rừng tràm trông tựa một phong cảnh vẽ trên mặt nước nổi. Ánh dương làm sáng chói những hàng cây tràm đầy dây chọai leo quấn, tạo dựng một sắc khí đầy sống động, hoang sơ.
Di tích Bình Tạ ( ?) cổ xưa
Bình gốm có vòi bằng đất nung, văn hóa Óc Eo |
Gò Xòai là một đền thờ xây bằng gạch, hình thể có phần vuông vức , mỗi cạnh dài 20m. Cấu tạo nền đền thờ rất chắc chắn và rất phức tạp vì những vật liệu xây dựng rất khác nhau tỉ như basalt, sỏi đá cuội, sạn đỏ, cát trắng, cát hồng v.v… Kiến trúc Gò Xòai chứa một lỗ hổng vuông làm nơi thờ phụng, mỗi cạnh dài 2.2 m và sâu trên 2. 5m cho tro xương cốt người quá cố và trưng bày những thu thập đồ vật có giá trị, gồm các vật thể khắc chạm linh thiêng lốm đốm hạt vàng kim như rùa , rắn, voi và đá quý hiếm đặt trong những vòng –kiềng và kim khí, cùng bảng ghi văn hóa Sanskrits – Pa Li gần dưới đáy lỗ mồ chôn. Cấu trúc Gò Xòai được liệt vào lại tháp – chùa chứa thi hài sư sải Phật Giáo, vào thời kỳ xưa cỗ sớm nhất ở Đồng bằng Công Cửu Long, mang đậm nét phong cách Tây Phương Thiên Trúc.
Đền thờ Gò Nam Tước
Là một đền thờ kiến trúc bằng gạch dài 17.2m và rộng 11.1 m. Phần trên đền thờ đã đổ nát , nhưng vẫn còn tiêu biểu cho kiến trúc của văn hóa Ốc Eo .Tỉ như cơ cấu góc cạnh bẻ gãy, gạch rất thẳng hàng ở các đường nền và cổng vào ba cửa hình bán nguyệt nữa tròn về phía Đông chứng minh là cơ cấu đền thuộc về Ấn Độ Giáo.
Tháp đền thờ Gò Đồn
Cũng là một kiến trúc xây bằng gạch, dài 78.5 m theo hướng Đông Tây, rộng 60m theo hướng Nam Bắc, trước khi khai quật, tổng thể là một ngôi mộ, phần mộ gần mặt đất nhất sâu 0.4 m. Các đồ vật bằng đá trưng bày trong mộ là tượng Thần giữ đền -Dvarapala genie, đầu tượng Thần Ban Phước Lành- Ganessa genie , nhiều vật thể thờ phụng gồm linga , yoni, mi, cửa vào khắc đẻo những hình hoa-lá, ống dẫn nước thánh (somasutra) cùng nhiều vật thể đồ gốm bình -chậu thu thập khi khai quật. Ở lỗ chôn thờ cúng, trung tâm di tích , sâu 3m là một vật thể đã bị bễ vở linh thiêng yoni và rất nhiều đá cuội, nghi là đá thờ phụng.
Viện Bảo Tàng Long An
Thiếp lập ở trung tâm Thị xã Tân An, thuộc phường 4. Rất nhiều cổ vật giá trị và hiếm có, nhiều ý nghĩa văn hóa, nghệ thuật được trưng bày ở đây, đa số là đồ vật khai quật từ các di tích văn hóa địa phương, rất hấp dẫn cho tham quan và khảo cứu . Đặc biệt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát – Goddess of Mercy có một ngàn tay, một ngàn mắt là một cỗ vật khắc trên gỗ duy nhất được trưng bày, đã được nghệ nhân tỉnh nhà sao chép lại từ tượng Quan Âm chùa Bút Tháp ngòai Bắc.
Đây cũng là một cơ cấu xưa cổ khắc đục, thường có tên là nhà trăm cột – one hundred column house, vì đã được dựng lên trên hơn một trăm cột, do dân gian xã Long Hữu Đông làm ra. Diện tích là 882m2, nhà trăm cột được xây cất trong một khu vườn rộng 4 044m2 , mặt tiền nhà hướng về Tây Bắc. Tòan thể nhà làm bằng gỗ lọai quý như gỏ mật- rose wood , gỏ đỏ, gỏ vua- barian king wood, mái lợp hai lớp ngói và tầng ( ? ) xây bằng đá khắc đẻo , cao 0.9 m , mặt sàn nhà lớp bằng gạch lục giác. Trên họa đồ nhà trăm cột có hình chữ “ Quốc” gồm ba gian – compartments , hai chái- lean -tos. Nhà chia ra làm hai: phía trước là căn thờ phụng và phòng khách ngoại, phía sau dùng cho gia đình ở. Toàn thể hệ thống giàn, vì kèo – trusses chạm nổi và điêu khắc tỉ mĩ! Đề tài là những đám mây hóa rồng, cây cỏ bốn mùa : dây leo – song mây, lá và hoa theo đặc điểm điêu khắc Huế. Gian thờ phụng và khách ngọai điêu khắc theo phương thức cổ điển nghệ thuật đa lọai và phong phú, tỉ như bốn siêu nhân –tứ bất tử thần thông, 8 trái cây- bát bửu tượng trưng cho Phúc - Lộc – Thọ và cây trái miền Nam như mảng cầu, bình bát, khế, măng cụt … đều được nghệ nhân địa phương tỉ mĩ, khéo tay biểu hiện kỷ thuật nhà nghề trên bao lơn- ban công, khung rầm đơn vị, tường vách, bàn thờ, ghế, bàn tròn ,bàn dài.
Từ thị xã Tân An dọc theo tỉnh lộ số 49 cách thị trấn Mộc Hóa chừng 65 km, sau khi đến ngã rẽ Biên Phòng , quay qua phía trái chừng 500m, bạn sẽ thấy Núi Đất -Earthy Mountain . Mặt mày bạn sẽ cảm giác gió núi nhẹ, mát mẽ thổi qua khi đến gần núi. Từ xa, Núi Đất tưởng như một hòn đá lớn mọc lên giữa một hồ xanh ngắt, trong sáng, yên tĩnh và thơ mộng. Núi Đất chia ra làm đảo nhỏ . Đảo nhỏ đầu tiên là một núi cao 10m, đảo nhỏ nhất chỉ cao 5m. Đa số đá lớn các đảo phủ đầy rêu, gió núi thổi qua vi vu, xói mòn đá : những cổ thụ đã trăm tuổi chen lẫn trên đá, tỏa bóng lối mòn bậc thang. Quanh Núi, những lối mòn trải đất, có đê đá chắn sóng dọc theo bờ nước hầu bảo đảm an tòan cho du khách. Đảo nhỏ thứ hai là một núi xây dựng từ mặt đất có một cầu nhỏ, dài bắt qua đảo lớn nhất. Đảo nhỏ thứ ba ở phía trái một hồ sen có hình dạng một chuông tuyết- snowbells đá. Giữa hồ có hai đình tạ nổi để du khách hưởng không khí tươi mát và trò chuyện. Bên bờ hồ là những nhà làm việc, phòng tiếp khách, khách sạ, vùng trồng hoa, cây kiểng bonsai, chim chóc và động vật Long An.
Khúc cắt ngang sông Vàm Cỏ Đông và sông Nhựt Tảo là Vàm -cửa sông nhỏ Nhựt Tảo , một vùng yên tĩnh và an lành của xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Ngày nay, khi đi tàu - ghe từ Sông Vàm Cỏ Đông xuống địa phận xã An Nhựt Tân, du khách có thể thưởng ngọan vẽ quyến rũ của Vàm Nhựt Tảo. Sông Nhựt Tảo tuồng như khá rộng, trong như pha lê, rất đẹp nhờ những nhà thu mình núp dưới các hàng dừa nước Nipa sp. và vài lòai hoang dã như cây rừng sác đại mộc Bần chua Sonneratia caseolaris L. Sương đang tan dần, trải khắp mặt nước dòng sông ửng hồng vì ánh sáng mặt trời mọc và giọng hò khoan ngư dân vọng lại từ xa.
Vùng Miếu Bà Cố
Đây là một ngôi đền nhỏ đã hiện diện hơn 150 năm nay ở thôn Bình Trị, xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành .
Nơi đây vào ngày 24/02/1954, tiểu đòan 309 và bộ đội Châu Thành đã phục kích đánh tan tành một tiểu đòan và một đại đội địch quân, sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thiết lập ngay giữa trung tâm thị xã Tân An. Vườn trưng bày nhiều hoa mới cũ và kiểng, có chậu đã trên 100 tuổi thọ. Rất nhiều chậu đã đọat giải thưởng ở hội thi đua hoa- kiểng miền Nam , vào mỗi mùa Xuân. Nhiều nghệ nhân tài ba tỉnh, đã có tầm nhìn xa xăm, nhắm vào các nghệ thuật núi Phú Sĩ ( Nhật ), đền đài Angkor ( Cam bốt), Kim tự tháp Ai Cập , thành quách nội ngọai Huế …
Phần II - B .
1- Khai thác nông lâm ngư nghiệp
Đồng Tháp Mười , trước tiên phải rữa phèn, chống ngập lũ
Như đã kể trên Đồng Tháp Mười của 3 tỉnh Long An( tỉnh lỵ Tân An) , Tiền
Giang ( tỉnh lỵ là Mỹ Tho ) và Đồng Tháp ( tỉnh lỵ là Cao Lãnh ) ngày nay chiếm
gần 700 000 ha , nghĩa là 18 % tổng diện tích ba tỉnh. Mùa khô, 70% đất đai Đồng Tháp Mười lên phèn, nhất là phèn lạnh “màu trắng – alum” , khiến cho công tác rữa phèn rất tốn kém. Nhớ
lại thuở ban đầu đến khẩn hoang vùng Hồng Kỳ, xã Phú Cường, huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp, lảo
nông Nguyễn Văn Tài nói rằng chưa có kinh nào đào ngang qua chỗ nước đầy phèn
màu đỏ nâu. Mùa khô phèn nổi lên quá nặng, nên chỉ còn chuột mới sống sót nổi. Đến
9 giờ sáng, trâu đã khó thở vì không còn
nước ít phèn trâu uống được nữa. Vùng mênh
mông, nhưng người vắng hoe .
Pyrit nằm trong tầng khử (màu xám đen) bị ôxi hóa do ôxy xâm nhập xuống, jarosit (màu vàng) và ôxít sắt (màu nâu) được hình thành - Đất phèn vùng Đồng Tháp Mười-Việt Nam |
Đầu thập niên 1980 , các chuyên viên Hoà Lan ước
tính phí tổn trung bình rửa phèn ở vùng Đồng Tháp là 1 triệu đô la mỗi ha. Nghĩa là tổng phí rữa phèn cho gần
500 000 ha đất alum ở Đồng Tháp Mười là 500 tỉ đô la Mỹ, năm đó, trên hẳn tổng lợi
tức quốc gia Việt Nam năm 2012 khỏang 6 lần . Hai nhà địa chất, thổ nhưỡng học
tên tuổi của Liên Bang Sô Viết thu thập các mẩu đất ở nông trường Láng Biên ( ?
) đem phân tích kết luận là không
thể trồng lúa được trên các đất vùng này. Các năm giữa thập niên 1950, nhiều chuyên viên quốc tế cũng khuyên là
không nên khai thác các vùng đất
phèn vùng Đồng Tháp Mười. Thật tế thì vào
mùa ngập lũ thập niên đó, đã có vài nơi trồng lúa – sạ lúa nổi một mùa mỗi năm, nhưng năng xuất lúa
nổi rất thấp, được mùa chỉ đạt 1- 1.5
tấn lúa /ha, phẩm giá gạo lại thấp kém,
vì hột gạo đỏ lúa trời –lúa ma lẫn lộn lúa nổi trồng gieo hột giống - sạ thẳng trên đất. Nhắc lại là lúa nổi- floating rice là lúa
nông dần trồng ở những ruộng đất thấp trũng không bờ, có mực nước sâu
trên 100cm và ở những nơi nước dâng lên
từ từ. Lúa nổi thích ứng với mức nước dâng chầm chậm, thân lóng trồi lên khỏi
mặt nước lũ có lúc 20cm mỗi ngày, nhờ acid gibberallic phát sinh khi cây lúa bị
ngập nước kích thích. Nhiều giống lúa nổi có thể dài cao 5- 6m. Lúa nổi thường được
sạ - broadcast thẳng vào đất đã cày xới sau vài trận mưa đầu mùa,
nên còn được gọi là lúa sạ. Nhưng nay nhờ hết chiến tranh, đào thêm rất nhiều kinh cải
thiện giao thông chuyên chở. Chẳng hạn
từ năm 1981, riêng hai tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp ,mỗi tỉnh đã đào thêm, nới rộng sâu
hơn trên 600 km đường sông rạch- waterways và trên 2300km kênh lấy đất
đào xây hai bên bờ kinh đắp thành
đường bộ nối liền các xã, ấp. Đất sông, kinh đào cũng dùng xây thêm, mở
rộng thêm đường bộ bao ngạn, che chở nhiều
khu, vùng trũng tháo nước– polders, thiết lập ấp xã, thị trấn to nhỏ, khỏi
ngập lũ mỗi năm như trước đây. Nhất là
đưa nước tưới tiêu vào rữa
phèn, giữ vững thủy cấp không làm khô
lớp mặt đất lên phèn, biến các lọai đất phèn tiềm tàng hay họat động (sulfaquepts,
sulfaquents ) dần dần trở thành đất phèn
già (tropaquepts) trồng trọt được và nhất là tưới mùa khô, trồng vụ lúa đông –xuân nhờ nhiều nắng, năng xuất
thường cao nhất trong ba vụ lúa mỗi năm ở nước nhà. Sau 10 năm thóat thủy rữa phèn, 600 000 ha
Đồng Tháp Mười, nay đã làm trung bình hơn 2 vụ lúa mỗi vụ năng xuất từ 3 đến 7
tấn lúa mỗi ha, thay vì 1-2 tấn một ha
trước đây. Trung bình, lúa- thóc mỗi đầu người dân Đồng Tháp Mười nay đã
tăng từ 800 kg lên 1700 kg năm 2012. Mỗi năm, sau 1981 mức sản xuất lúa Đồng Tháp Mười đã hơn 1 triệu
tấn rồi. Về phía giao thông đường bộ, nếu vào cuối thập niên 1990 - đầu thập niên
2000, mọi xã Đồng Tháp Mười chỉ có đường đắp đất. Nay các đường vào các huyện, xã Tân Hồng, Tam Nông, Đồng Tháp
tỉnh Đồng Tháp; Cái Bè, Cai Lậy tỉnh Tiền Giang và Tân Hưng, Đức Huệ tỉnh Long
An đều được xây bằng đá, đúc xi măng
hay trải nhựa.
a- Phát
triển nông nghiệp
- Lịch sử phát triển biên cương Đồng Tháp Mười qua các thời đại: Tầm quan trọng của tự do di cư
khai thác đồng hoang , cỏ dại
thành ruộng lúa, vườn tượt.
Từ giữa thế kỷ thứ 19, các chúa Nguyễn đặc biệt
là chúa Minh và chúa Võ , đã cho tiến sâu vào biên cương mới nước nhà. Các năm
đầu đến giữa thế kỷ thứ 20, các vua nhà
Nguyễn Phước ( Nguyễn Phúc ) sau đó đã chiếm cứ và bình định châu thổ sông Cửu
Long, diện tích tổng cọng khỏang 50 000 km2 ( Châu thổ Cửu
Long Việt Nam hơn 39 000 km 2 , phần còn lại nay thuộc Cam Bốt ) lập
“đồn điền”, đồn binh ruộng bao quanh để
cho dân gian miền Bắc và miền Trung và binh lính giải ngũ, an tâm khai thác ruộng đất hoang vu. Từ ngữ đồn
điền đã bị lạm dụng thời Pháp để dịch các từ Pháp là Plantations thay vì đại điền, nhất là cho cao su, cà phê ở miền Đông và Tây
Nguyên và từ Anh Large Estates ở các xứ thuộc địa Anh, Hòa Lan. Các đại điền
ít khi có đồn binh trú đóng, bảo vệ an
ninh. Về ruộng đất thấp, đó là các “dinh
điền” , thời vua Minh Mạng đã cử nhà nho văn vỏ tòan tài Nguyễn Công Trứ làm Dinh( Doanh ) Điền Sứ, mở
mang ruộng đất vùng Tứ Giác Long Xuyên ngày nay. Khi Pháp đến châu thổ năm 1867, chánh quyền Pháp thuộc địa khởi
công đào một số kinh lớn. Dù rằng mục đích chánh đào kinh thời Pháp thuộc là để
bình định và giao thông, công trình mở mang đất đai khai thác làm ruộng lúa cũng
rất lớn lao, đặc biệt tại trung tâm châu thổ, dọc đất tốt hai sông Tiền và sông Hậu. Sau năm 1990, xáng đào thêm nhiều kinh lớn,
không phải duy nhất để tăng gia phương
tiện giao thông chuyên chở, mà là để gia
tốc phát triễn lúa gạo ở châu thổ sông Cửu Long, biến châu thổ này thành vùng “Chén
– Tô Cơm- Rice Bowl , lúa gạo Đông
Pháp” . Tuy nhiên việc phát triển trồng lúa ở Việt Nam đến thời kỳ Đại Khủng
Hoảng- Great Depresion năm 1930, rất ít
liên quan đến vùng đất phèn Đồng Tháp Mười.
Các điều kiện môi sinh, sinh thái nông nghiệp Đồng Tháp Mười quá bất lợi
vì ngập lũ mùa mưa, đất phèn nghèo dinh
dưỡng cho lúa và phèn tiềm thế trào lên mùa khô ( theo Nguyễn Hửu Chiêm – 1993).
Sau Thế Chiến Thứ Hai, các vùng trũng thấp hoang dã như
ĐồngTháp Mười biến thành những biên cương mới “tranh chấp, xung
đột quyết liệt” giữa chánh quyền Cộng Hòa Việt Nam và Việt Minh (trước 1960) và Việt Cọng ( sau khi Bắc Việt
tổ chức “ Mặt trận Giải Phóng miền Nam ” ). Chỉ sau khi Chiến Tranh Việt Nam
- Việt Nam War ( có người nói là
Chiến Tranh Hà Nội, vì Bắc Việt gửi xâm
nhập miền Nam đến 150 000- 200 000 quân ( ? )
trang bị võ khí tối tân Nga Sô và Trung
Quốc hay Chiến tranh Mỹ, Hoa Kỳ -American
War ) chấm dứt năm 1975, Đồng Tháp Mười cũng như các vùng trũng sâu khác
của châu thổ Sông Cửu Long mới thật sự được khai khẩn rộng lớn và mạnh mẽ trồng
lúa. Không mấy khác khai thác mở mang Biên cương miền Tây Hoa Kỳ ( Brocheux- 1995 ) .
- Từ Khu Trù Mật đến Ấp chiến lược
Từ thời kháng chiến chống Pháp, các lược
lượng cọng sản hay thân cọng thiết lập ở Đồng Tháp Mười ( cũng như ở các vùng
trũng lớn khác ) các làng rừng -
forest villages sinh sống, chiến đấu và trốn núp quân đội Pháp truy
nã. Sau khi đất nước bị Chu Ấn Lai ( ?)
ép buộc chánh phủ kháng chiến miền Bắc chấp nhận chia đôi đất nước năm 1954, chánh quyền Đệ nhất Cộng Hòa cố công
tái chiếm, đọat lại trách nhiệm phát triễn các vùng này, từ Việt Minh – Việt
Cọng. Khi chương trình khu Trù Mật- Agroville, mô phỏng phần nào theo Khu Trù Mật của Krutchev, kế tiếp thời tổ chức nông nghiệp tập thể
Lenine – Staline, thất bại, cũng chánh
quyền Đệ Nhất Cộng Hoà rút kinh nghiệm,
tung ra một chương trình định cư- resettlement program gọi là Chương
trình Ấp chiến Lược – Strategic village khắp miền Nam, chống lại quân
đội xâm nhập từ miền Bắc và quân giải phóng miền Nam. Đặc biệt tỉnh An Giang, lúc đó còn có một
phần đất Đồng Tháp Mười, dự tính làm 495
Ấp Chiến lược, trong số này 246 ấp đã
hòan tất và 138 ấp đang xây dựng kể đến tháng giêng năm 1963 ( Osborn – 1965 ). Ở tỉnh Đồng Tháp , 12 ấp chiến lược được xây dựng dọc theo hai kinh
Đồng Tiến và Phú Hiệp, chánh quyền đào xong cuối thập niên 1950 : 7 ấp dọc
theo kinh Đồng Tiến và 5 ấp dọc theo kinh
Phú Hiệp. Các ấp đều được các lực
luợng quân sự địa phương bảo vệ. Dân
định cư trong các ấp này bao gồm các dân di cư miền Bắc, miền Trung và luôn cả các di cư nghèo khổ các tỉnh miền
Nam. Một lảo nông sinh trưởng ở tỉnh
Cần Thơ, nghe nói đến chương trình lúc tuổi 40, năm 1963 đến xin gia nhập ấp
chiến lược trên kinh Phú Hiệp, nay thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, một kinh lớn đào sau kinh Đồng Tiến.
Ấp Chiến Lược |
Ông được chấp nhận liền. Theo ông, mỗi
ấp có chừng 200 gia cư dân tứ xứ di cư đến và mỗi gia cư được cấp hai ha
đất ruộng và trợ cấp khá lớn để sinh sống ( gạo, muối, đường và nông cụ trong 4 năm
sau khi đến định cư ). Ông nhận xét là điều kiện đất đai cấp phát không phải là đất ruộng ông quen thuộc. Đó chỉ là một đồng cỏ đầy mồm ấn
– mồm mốc( Ischemum indicum ), lúa
trời – lúa ma ( Oryza rufipogon) và
nhiều lọai cỏ dại khác. Ông tự tay khai khẩn đồng cỏ mồm thành ruộng lúa. Nhưng
năm đầu , ông chỉ thu họach được 300 kg lúa khỏang 150kg/ha, không đủ nuôi gia
đình và ông đã phải thu họach cả lúa trời, bổ sung phần nào thực phẩm gạo
cho gia đình.
Như câu chuyện lảo nông vừa kể, đời
sống trong ấp chiến lược không dễ dàng và không ổn định . Nhưng dần dần từng
bước một, đồng cỏ hoang dại quanh ấp đã chuyễn hóa thành ruộng lúa. Dù tăng trưởng dân số cũng không lấy gì làm ổn định, vì thường xảy
ra ngập lụt lớn, phèn trồi lên mặt đất và du kích chống chánh phủ Cọng Hòa tấn
công, Trong thời chế độ Ngô Đình Diệm, một số đất ruộng hoang
dã, bỏ hoang lớn lao đã được khai khẩn ở Đồng Tháp Mười và ở các vùng trũng lớn
khác ( theo Tanaka Koji, Trung Tâm nghiên cứu Đông Nam Á Viện Đại Học Kyoto-
2001 ), giúp Đệ Nhất Việt Nam Cọng Hòa
xuất khẩu 200 – 300 000 tấn gạo mỗi năm. Năm 1961, tòan cỏi Việt Nam sản xuất
8.9 triệu tấn lúa trên tổng số diện
tích các vụ lúa trồng là 4. 744 triệu ha.
Năm 1975, tổng lượng lúa sản xuất
là 10. 29 triệu tấn.
- Cải cách nông thôn
theo chủ nghĩa xã hội: lý do hệ thống nông trường tập thể thất bại
Ngay sau khi Chiến Tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, cách sử dụng đất đai ở
miền Nam là cải cách theo lề lối xã hội chủ nghĩa - Socialist Reforms, trên
phương diện chiếm sở hửu đất đai và trên
các hệ thống sản xuất, chánh quyền mới thiết lập. Ruộng đất các đại điền chủ hay của các người
vắng mặt bị tịch thu và một hệ thống lao động tập thể - collectivized labor được đề xuất. Dù rằng lao động tập thể không thực tiễn và không được nông dân đã
định cư ở Đồng Tháp Mười hưởng ứng, chách sách tập thể được thực thi nghiêm
khắc trên các nông trường quốc doanh –
state farms , chánh phủ dựng lên, không phải riêng cho Đồng Tháp Mười và
các vùng trũng lớn ở đồng bằng Sông Cửu Long mà khắp nước. Diện tích mỗi nông
trường lên đến mấy ngàn ha đất hoang dã hay truất hửu từ các tiểu điền địa
phương trong phạm vi nông trường, bị bó
buộc phải đi ra nơi khác với bồi thường
hay được cấp đất mới. Thay chỗ họ là các dân di cư mới, phần lớn từ miền Bắc. Mục đích cấp bách và cơ bản chính sách phát
triễn nông nghiệp mới là tăng gia sản xuất lúa gạo, hầu đủ nuôi dân số tăng mau.
Tuy nhiên khai khẩn các nông trường tập thể ở vùng Đồng Tháp Mười và ở các vùng
trũng khác ở châu thổ rất khó khăn, vì đất đai hay bị ngập sâu, phèn trồi lên
mùa khô và có nơi còn bị nước mặn thủy triều xâm nhập. Các đất tương đối tốt đã
được các dân định cư khai khẩn từ các thời trước 1975. Ngay cả ở nông truờng
trên đất tương đối ít phèn hơn, dọc kinh Kiến Hòa tỉnh Kiên Giang ( Rạch Giá )
thiết lập năm 1977 , gồm 550 thành viên thuộc Nghiệp đòan Thanh niên (Cọng
Sản ) - Youth Union, cả đàn ông lẫn
đàn bà đến từ Miền Bắc và Bắc Trung Bộ,
với 15 nhân viên hành chánh và 50 nhân viên kỷ thuật ban chuyên viên. Năm 1981, có thêm 200 gia cư mới từ miền Bắc
nữa. Diện tích nông trường là 4 400 ha. Lúa trồng
năm đầu hòan tòan thất bại,vì nông dân miền Bắc mới vào không biết gì cả về vụ
nổi phèn. Năm thứ hai, nông trường thay giống lúa trồng bằng các giống địa phương và áp dụng lề lối canh tác đất phèn cũng theo thể thức
địa phương. Diện tích trồng lúa tăng dần cho đến năm 1980, tối đa 2624 ha và sản xuất 1850 tấn lúa ( và ruộng lúa bị phèn và nước mặn làm hư hại cũng cao nhất lên
đến 850 ha). Từ năm 1981, diện tích trồng và sản xuất lúa ở nông trường giảm
dần ( năm 1981 là 2533 ha, sản xuất 1000 tấn lúa; năm 1986 chỉ còn gieo sạ 687 ha, sản xuất 502 tấn ). Tổng
diện tích nông trường cũng giảm từ 4 400
ha xuống 1400 ha năm 1986 ; 3000 ha được hòan lại cho ấp – xã địa phương. Năm 1986, chánh sách “ đổi mới” đất ruộng được phân phối cho gia cư thành
tiểu điền chủ được phép khai thác lâu
dài trên đất “ thuê “( trên phương diện lý thuyết nhà nước vẫn là sở hửu chủ
đất đai ) tùy theo khả năng lao động, trung bình mỗi gia cư khoảng 2ha. Nông
trường cố gắng duy trì quản lý hành
chánh và các họat động nông nghiệp, biến hình thức tập thể thành hình thức hợp
tác xã - cooperative, nhưng không giải quyết nổi việc xử lý ruộng đất quá
to lớn ở tình trạng khai thác hình thức
tiểu điền Á Đông. Có đến 1/3 diện tích
gieo trồng lúa bị thiệt hại nặng nề vì phèn, cùng lúc với chánh phủ cắt giảm
trợ cấp cho nông trường, song song với tính chất hiệu năng yếu kém của hệ
thống lao động tập thể. Năm 1997, mọi
họat động nông trường tập thể này chấm dứt và nông trường đóng cửa hẳn.
-
Sau “ Đổi Mới” thâm canh trồng
lúa Thần Nông, cải cách mùa vụ, làm hai vụ: bỏ
hẳn lúa nổi- lúa sạ dài ngày năng
xuất kém thay bằng vụ Đông Xuân cao năng, song song với vụ lúa Hè Thu
Lúa Thần Nông |
Tiếp tục chánh sách đào kênh
của thời Pháp thuộc và thời Cộng Hòa và nhờ an ninh vãn hồi, chánh phủ Trung Ương
và tỉnh địa phương sau giai đọan cải cách xã hội (nông trường tập thể ) đã cho đào rất nhiều kinh xã phèn đưa nước ngọt
vào rữa phèn, rửa mặn …, mở đường cho việc thâm canh, tiến bộ lớn lao ở
ngành trồng lúa Vùng Đồng Tháp Mười và ở
các vùng trũng lớn châu thổ sông Cửu Long. Cùng lúc lại phổ biến sâu rộng thêm các giống cao
năng – high yielding varieties được gọi tên là lúa “ Thần Nông” , bộ Nông Nghiệp Đệ Nhị Việt Nam Cọng Hòa thí nghiệm
thành công đại trà năm 1967 và sau đó
khuyến nông mạnh mẽ ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nông dân các tỉnh Long An, Cần Thơ và các tỉnh trung tâm đồng bằng hưởng
ứng nhiệt liệt trồng lúa Thần Nông từ năm 1968, và lúa mới lan rộng đến ngọai vi
châu thổ. Tuy nhiên ở Đồng Tháp Mười và các vùng trũng, mãi về sau nông dân mới
sử dụng các giống lúa Thần Nông.
Năm 1979, chỉ mới có một ấp chiến
lược cũ tỉnh Đồng Tháp du nhập Thần Nông và đến giữa thập niên 1980, nông trường quốc doanh tỉnh Kiên Giang vừa kể
trên, mới du nhập các giống Thần Nông cao năng, Dù rằng dân địa phương đã biết
các giống Thần Nông, họ cũng dư biết là phải
cần tối thiểu hai năm rữa phèn với nước ngọt kinh đào đem tới, mới trồng được
tốt đẹp các giống lúa Thần Nông.
Phổ biến dùng lúa Thần
Nông cũng khởi động thay đổi mô hình làm nhiều vụ lúa mỗi năm.
Bơm nước, lúc khởi thủy dùng máy đuôi tôm bơi thuyền trong kinh rạch nhỏ, đã
giúp làm hai vụ lúa một năm sau, vài năm kế tiếp khuếch trương lúa Thần
Nông. Mô hình chỉ trồng một vụ lúa mùa với các giống “lúa
nổi – lúa sạ” đã bị thay thế bằng
các giống Thần Nông cao năng, ngắn ngày
hơn và ít bị ảnh hưởng quang kỳ trên
thời gian sinh trưởng , phối hợp vụ
Hè – Thu ( Summer – Autumn ) với vụ
Đông Xuân ( Winter – Spring ). Ngòai
trừ những nơi nuớc lũ ngập quá sâu chỉ trồng được vụ lúa Đông Xuân. Tóm tắt là tăng gia năng xuất suốt hai vụ lúa và tăng ổn định sản xuất
nhờ hòan tất hệ thống kinh- mương thóat thủy và dẫn thủy, đã khích lệ các ấp
làng nới rộng và thâm canh trồng lúa gạo, chưa bao giờ thấy trước đây ở
nước nhà. Lúa nổi hay lúa nước sâu – deep
water rice ( khỏang 100cm ) giảm đi rất
mau lẹ và hầu như biến mất vào giữa thập niên 1990. Diện tích lúa mùa (
lúa nước sâu) tỉnh Long An năm 1995 còn
49 600 ha, nhưng năm 2002 chỉ còn 22 600 ha. Tỉnh Đồng Tháp năm 1995 còn trồng 1000 ha lúa nổi, nhưng vụ lúa này đã
hòan tòan biến mất năm 1999. Trong khi đó , vụ lúa Đông Xuân tăng từ 156 000 ha năm 1995 lên đến 261 400
ha năm 2001 . Vụ Đông Xuân tỉnh Đồng Tháp tăng từ 175 000 ha năm 1995 đến 261 400 ha năm 2001. Năm
1976, tỉnh Đồng Tháp còn kiểm kê được
142 000 ha lúa mùa mưa. Năm 1990, chỉ còn 115 142 ha lúa mùà mưa, trong khi vụ lúa Đông Xuân tăng từ 30 615 ha năm 1976 lên 141 903 ha năm
1990. N ăm 2012 , diện tích các vụ lúa
trồng ở tỉnh Đồng Tháp là 462 000 ha sản
xuất 2,8 triệu tấn lúa, đứng hạng 3 trong số các tỉnh trồng lúa ở Viêt Nam .
Riêng tỉnh Long An cũng cố gắng thâm canh lúa, đặc biệt ở khu vực 1 tỉnh nhà,
gồm các huyện Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Thạnh
Hóa và Mộc Hóa, đạt mức sản xuất lúa gạo
trên 2. 5 triệu tấn lúa, không thua kém bao nhiêu tỉnh Đồng Tháp . Theo USDA và Post, trong
46 năm từ năm 1961 đến năm 2007 , mức sản xuất lúa Việt Nam đã tăng từ gần 10 triệu tấn lên đến
35. 667 triệu tấn; mức xuất khẩu gạo
tăng từ 3. 5 triệu tấn năm 2000 lên 6. 75 triệu tấn năm 2010 .
Ngòai những cải thiện khác về canh tác các giống Thần Nông, có lẽ nên kể ra
một kỹ thuật mới sạ lúa, khác hẳn cách
sạ lúa nổi địa phương. Các giống lúa nổi, lúa nước sâu (lúa Hè -Thu), thường sạ
ngay sau khi thu họach lúa Đông- Xuân khi lũ đã rút đi và gặt hái trước khi lũ mới xuất hiện. Tuy
nhiên xây cất đê điều, bờ đê bao ngạn,
bến sông rạch, mương liếp- líp … với vật liệu mạng lưới kinh mương dày đặc, đã ngăn cản dòng
nước lưu thông thóat thủy vùng Đồng Tháp Mười, tạo ra nhiều khó khăn
thóat thủy ra khỏi ruộng lúa vào muà mưa. Dân ấp xã bị bó buộc phải hỏan gieo sạ lúa vụ Đông Xuân, đưa tới thu họach chậm trễ, de dọa gieo sạ
mùa Hè – Thu. Năm 1992, nông dân vùng Đồng Tháp Mười thực thi một kỷ thuật sạ
lúa mới mẽ gọi là “sạ ngâm” nghĩa là sạ ngay
khi ruộng ngập lũ sâu. Như vậy họ khỏi
cần phải chờ đợi cho đến khi nước lũ ngập rút
hết ra khỏi ruộng. Sau năm 1994 (
? ), viện khảo cứu lúa gạo quốc tế IRRI chế ra máy gieo hột thẳng hàng được kéo bằng tay, nhẹ, đơn giản gồm 4 hộp có lỗ chứa để gieo hột, hai mảnh , xà trượt ở hai bên và một bánh xe ở giữa khả năng gieo một ha mất 14 giờ và lượng hột giống ít hơn ( 70 kg- 120 kg /ha thay vì 120- 150 kg / ha . Không rỏ máy này có được
hoan nghênh như cách sạ ngâm không ?
kỹ thuật sạ ngâm |
- Việt Nam năm 2012 đứng đầu
thế giới( ? ) về xuất khẩu gạo . Long An cần cải thiện thêm gạo Nàng Thơm Chợ
Đào, Nàng Thơm Đức Hòa, Nếp Hoa Vàng Bả Canh – Cái Sào Thượng Cao Lảnh , Nếp đất phèn Hà Tiên ….
Sự đóng góp tăng vụ, tăng năng xuất
của Long An nói riêng và Vùng Đồng Tháp nói chung và nhất là sự tăng vụ
lúa Đông-Xuân của
trên 600 000 ha Đồng Tháp Mười, đã góp phần không nhỏ vào Việt Nam sản
xuất năm 2012 43 .7
triệu tấn lúa , tăng 3.3 % so với mùa 2011, xuất khẩu 7.5 triệu tấn gạo , cũng như thâm canh nhiều vụ ở các
vùng trũng ít phèn hơn như ở Tứ Giác
Long Xuyên, ( đặc biệt ở “đồng phèn Bắc Kỳ - Casier tonkinois” Rạch Giá - Hà Tiên thời Pháp thuộc biến tỉnh Kiên Giang năm 2012
thành tỉnh sản xuất lúa gạo lớn nhất đất nước) đưa
Việt Nam lên hàng thứ nhất ( ? ) các nước trên thế giới xuất khẩu gạo năm
2012, lần đầu tiên nhiều hơn Thái Lan chỉ xuất cảng năm 2012 được 6. 8 triệu tấn gạo
( theo ước lượng sơ khởi của Lương Nông
Quốc tế - FAO , bộ Nông Nghiệp Việt Nam
cho biết xuất khẩu gạo nước
nhà lên đến 8.1 triệu tấn năm 2012 ,
nhưng có thể một số là gạo Cam Bốt tràn qua Việt Nam theo mạng lưới sông -rạch-
kinh- mương chằng chịt vùng biên cương
Việt Miên, không kiểm sóat nổi ? ). Bộ
Nông Nghiệp Hoa Kỳ- USDA cũng ước lượng
là năm 2013, Việt Nam cũng sẽ duy trì được mức xuất khẩu 7.5 triệu tấn, vì
không có dấu hiệu gì mất mùa, bất lợi thời tiết… năm 2013 so với năm 2012 cả.
Long An còn nổi tiếng về sản xuất lúa Nàng
Thơm Chợ Đào, Chợ Đào là một chợ địa
phương ở huyện Cần Đước. Nàng Thơm Chợ
Đào là lúa chưa cải thiện, thân cao
(giàn ) 140 – 160 cm, ít trổ bụi, thời gian sinh trưỡng cũng quá
dàì 170 – 175 ngày, chịu đựng giỏi đất
mặn và đất khá phèn, thân dễ đổ ngã, kháng rầy nâu – brown plant hopper và
cháy bìa lá, bạc lá- bacterial leaf blight, hột gạo dài nhưng nhỏ hột (
còn có tên địa phương là “hột lựu- pearl rice” ) trước đây được cấy vào cuối tháng mười, trỗ đòng – trổ bông
vào cuối tháng 11 và giữa tháng 12 tây. Năng xuất trung bình 2-3 t/ha . Nay các thứ
giống Nàng Thơm Chợ Đào lai tuyễn chọn hay tuyễn chọn dòng đồng nhất – pure
lines, cải thiện lề lối canh tác, đặc biệt là cấy chậm hơn , giảm bớt bề
cao lúa và tránh bớt đỗ ngã … , năng xuất có thể đạt 3- 4 t/ ha. Giống Nàng
Thơm Thủ Thừa, cây thấp hơn, cũng
chịu mặn, chịu phèn không kém Nàng Thơm Chợ Đào, nhưng ít thơm và cơm ít ngon
hơn ( ? ). Một giống thơm khác là Nàng Thơm
Đức Hòa, cũng ít thơm hơn, cây lúa thấp hơn, các điều kiện khác tương tự
Nàng Thơm Chợ Đào, nhưng giống lúa Thơm
Đức Hòa chịu đựng đất phèn hơn. Đáng tiếc là các giống lúa thơm nổi tiếng hơn Nàng Thơm Chợ
Đào trên thế giới là Basmati 370, và các đột biến tuyễn chọn
ở Ấn Độ, Jasmine 85 có nhiều đặc tính
thơm ngon của Khao Dawk Ma Li – KDML 105 ( lọai gạo có nguồn gốc KDML xuất khẩu nhiều nhất và giá
cũng rất cao của Thái Lan) đều đã được du nhập vào Việt Nam. Hương thơm Basmati
370 mất hết ở miền Nam Việt Nam
và năng xuất cũng rất thấp ở miền Nam
Việt Nam ,
khác miền Bắc nơi hương thơm Basmati vẫn được duy trì. Khao Dawk Mali
105 duy trì hương thơm ở đất mặn Long An, Trà Vinh và Sóc Trăng cũng
như ở đất ít phèn ở Tri Tôn ( tỉnh An Giang ). Jasmine 85, tuyễn chọn ở IRRI dưới tên IR 841, đã
phát triễn khá nhiều ở các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Long An nhưng năng
xuất kém vì nhiễm nhiều bệnh cây lúa và
cũng không kháng được rầy nâu. ( Nguyễn Hữu Nghĩa, Bùi Chí Bửu, Lưu Ngọc Trinh
và Lê Vĩnh Thao - 2001 ).Ngòai lúa trời,
lúa ma - Oryza rufipogon phải cố gắng cải thiện và duy trì làm gạo thổi cơm đặc biệt, có lẽ Long
An cũng nên nghĩ tới những giống nếp thổi xôi đặc biệt miền Nam như Nếp
đất phèn Hà Tiên ( Kiến Giang ) hoặc
ngay cả Nếp Hoa Vàng ( cải thiện )
đất thấp mà thời xa xưa dân tỉnh Bình Định đã đưa vào địa danh
“Đập Đá - Đồng Tháp” .
-
Nhắm về các hoa màu đặc sản
chịu ngập
Thập niên 1950 khi thiếu gạo vì
chiến tranh ngăn cản công trình đào kinh rửa phèn, vài nơi Long An cũng như
Đồng Tháp dân gian lên liếp trồng các
giống khoai mì, sắn - cassava, manioc, có vẽ chịu đựng chất độc hại cho
cây là aluminium. Sau đó lấy bột khoai mì trộn với tôm giả nhẻo chế tạo
bánh phồng tôm nổi tiếng Sa Giang ở thị
trấn Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp. Có lẽ Long An cũng nên tạo ra một lọai bánh phồng
tôm xuất cảng tương tự ở một thị trấn huyện lỵ tỉnh nhà. Tuy nhiên phải xem xét lại tuyễn chọn thêm
các giống khoa mì cao năng kháng phèn và nghiên cứu rỏ lý do gì diện tích khoai mì lại gia giảm mạnh ở Long An. Chẳng hạn từ
15000 ha các năm đầu thập niên 1990, đã giảm xuống chỉ còn chừng 2- 3000
ha thập niên 2000. Trong khi diện
tích khoai mì đã tăng nhiều ở nước nhà, đưa sản lượng khoai mì nay đứng hàng thứ nhì ở các lọai cây lương thực,chỉ sau
lúa trên ngô –bắp. Năng xuất khoai mì Việt Nam hiện còn quá thấp kém, trung
bình chỉ 12-15 tấn / ha trong khi trung bình khoai mì ở Thái
Lan là 25 tấn/ha; tuy khảo cứu đã tuyển chọn được nhiều giống cao năng năng
xuất 50- 60 tấn/ha trong nước và tiềm năng thế giới còn cao hơn nữa, 100- 150
tấn/ ha. Nếu không tìm cách nâng cao năng xuất, Việt Nam khó lòng chế tạo thêm bột
năng viên- tapioca xuất khẩu, nghĩ
đến việc dùng khoai mì làm nguyên liệu chế tạo cồn- alcohol nhiên liệu
trộn xăng như đang làm ở 6 nhà máy dùng khoai mì nước nhà ( thay vì là bắp- ngô
ở Hoa Kỳ hay mía ở Brasil).
Mía cần một thời gian đất khô
đốn mía, nhiều “chữ đường” - saccharose
hơn
trong mùa mía tơ hay 2-3 mùa mía
gốc, có cơ hội lên phèn ở vùng khá phèn
như vùng Hiệp Hòa huyện Đức Hòa thời còn
Pháp thuộc và trên đất quá nhiều sét nặng. Năng xuất cũng kém cõi, trung
bình chỉ 50 tấn thân/ha thay vì tối thiểu
75- 100 tấn/ha thân mía trên thế giới, chữ đường
vì thiếu mát lạnh cũng thấp; cho nên từ
những năm qua , ngành trồng mía làm đường không mấy
phát đạt . Khoai lang – sweet
potatoe cũng không trồng tốt trên các vùng đất sét nặng. Từ năm 2005, vài nông dân Cao Lảnh tỉnh lỵ ĐồngTháp đã lên rẫy - liếp vườn trồng khoai mỡ -yam, igname. Nếu để dây bò gần 2 năm, có nhiều cũ khoai
mỡ nặng hơn 80 kg một cũ, ăn dẽo hơn
khoai thường và để lâu cũng không sượng. ( thật tế khoai mỡ thường chỉ tồn trữ tốt trong vòng 5- 6 tháng
). Khoai mỡ trồng ở Viễn Đông thường là
các giống khoai mỡ nước – water yam , chinese yam , ruột, thịt vàng
yellow- yam thuộc lòai Dioscorea alata, Việt Nam hay trồng lấy
củ nấu xúp, nhưng cũng có thể nướng , nấu ,
chiên , xào …. Nhóm khoai mỡ trắng - white yam thuộc lòai D. rotundata là thực phẩm chánh cho nhiều vùng Nigeria, Châu
Phi , chịu đựng đất sét nặng, đáng chú ý
cho vùng đất nặng Đồng Tháp Mười, kể cả tỉnh Long An. Khoai mỡ trồng đầu mùa mưa, 5- 6 tháng sau có thể thu họach được rồi, củ nặng trung bình 2- 10 kg, năng xuất khỏang 15- 16 tấn/ ha.
Nhưng có lẽ nên nghĩ tới các giống lòai khoai môn lòai môn nước, môn ngọt–
taro, old cocoyam, Elephant ears…, loài Colocasia
esculenta ( C. antiquorum ) họ Môn Araceae,
trên thế giới có đến cả ngàn thứ giống,
nên lựa chọn du nhập hay tuyễn chọn các
giống đã có trong nước, thuộc nhóm khoai môn nhiệt đới, chịu đựng ngập , đất
phèn… nhiều hơn, phẩm giá cũ ngon , năng
xuất cao hơn. Ngòai cũ, chúng ta còn ăn cuống lá ( không phải là “ đọt,
dọc mùng” của cây Bạc Hà lòai Colocasia odora cùng họ Môn)và lá non.
Lá môn có tác dụng cầm máu khi đứt. Long
An đã có nhiều vũng sen –súng và
cũng đã cố gắng cải thiện sen, ngòai năng
xuất hột nên nghĩ thêm đến cũ- căn hành, cọng lá … làm rau cải, cũng như tuyễn
chọn hoa, cọng …các giống súng chỉ
( sung co ) dân gian đã biết ăn củ, cọng rất dài mùa nước nổi
ăn như đọt mùng Bạc Hà của cây súng lam … Nghĩa là cố gắng tạo thêm những “vườn
rau” đặc sản nhiệt đới, chịu ngập – swampy trong đó nên kể thêm các
giống củ (thật ra là trái, bế quả ) ấu – water
chestnut lòai củ -trái hai sừng Trapa bicornis var cochinchinensis,
môt trong ba lòai tông Trapa định
danh ở nước nhà , các lòai rau má,
có lẽ là lòai rau má nhỏ - tawn water pennywort Hydrocotyle( Centella) sibthorpioides thích hợp nơi ẩm thấp nhất
trong số 10 loài rau má định danh ở Việt Nam , rau dền lòai trồng nấu canh( dền tía) Amaranthus tricolor, A . giganticus, …hay những hoa -lá ăn được
các lòai tiểu mộc điên điển ( cùng tông với lòai so đủa ) Sesbania
sesban cỗ truyền hay mới du nhập
trồng mọc mau( ? ) làm cũi, bảo vệ các bờ kinh như điên điển trái to Sesbania macrocarpa nguồn
gốc Trung – Nam Mỹ v.v…
Không
một lý do gì ngăn cản Long An, như đã phát triển hoa kiểng Thành Tâm ở thị
xã Tân An phát triễn thêm các làng hoa – flower gardens villages trong các thị trấn hay ở ngọai ô các
thị trấn huyện lý tân tạo, tương lai đạt được kích thước như làng hoa Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, một trong những làng trồng hoa lớn nhất đất nước rộng đến gần 300 ha, cung cấp mỗi năm 12 triệu cây hoa- cành hoa bán ra ngọai quốc
cũng như khắp nước, đang được chánh
quyền đầu tư thêm cải thiện phẩm gíá, phương cách làm hoa lâu tàn… đặc biệt
trên các lòai hoa địa phương : vạn thọ , mồng gà, hoa mười giờ, huệ
hương cúng kỵ, lan thân trụ Dan rô Dendrobium
sp., mai vàng, mai trắng Ochna sp . v.v… áp dụng những kỷ thuật sinh học tiên tiến. Và cũng tại sao
không ? tân tạo những khu sản xuất
ngòai thơm - dứa- khóm cỗ truyền Luơng
Hòa – Đức Hòa, những đặc sản tương tự trái
cây ĐồngTháp như xòai Cao Lảnh , quýt
Lai Vung, nhãn Châu Thành, bưởi tứ qúy Phong Hòa. Diện tích cây trái nay đã trên
30 000 ha và sản lượng trên 150 000 tấn một năm ở tỉnh Đồng Tháp.
b – Phát triễn ngư nghiệp , thủy
sản: Đa dạng nông nghiệp Long
An song song hay ngòai lúa gạo: nuôi tôm tôm thẻ chân trắng , tôm càng xanh
trên ruộng, cá Pangasius …
Tôm thẻ chân trắng |
Ngoài ruộng lúa nước ngập, ở đất thấp trũng ngập sâu, đất phải giữ ẩm để
khỏi lên phèn … lẽ dĩ nhiên là phải nghĩ đến nuôi cá , nuôi tôm , nuôi vịt … ở
một trong những tỉnh nổi tiếng là đất “chim trời cá nước”. Năm
1995, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản cả nước là 453 600 ha , riêng Đồng bằng Sông Cửu Long đã
chiếm 289.400 ha. Sản lượng thủy sản
nuôi trồng cả nước năm 1995 là 389 000 tấn. Đồng Bằng Sông Cửu Long cũng chiếm 70% tổng
sản lượng 266 982 tấn ,nhưng nuôi cá tôm
phát triễn mạnh mẽ lúc đó là ở Bến Tre, Cà Mau,
Tiền Giang và An Giang ( tưởng cũng nên nhắc lại là đầu thập niên 1970,
Việt Nam Cọng Hòa cũng đã phát triễn nhiều kỷ thuật nuôi “cá bè – fish cage” cá thúc vỗ trong lồng dưới
nước, trên là nhà, dọc sông, năng xuất rất
cao ở An Giang – Châu Đốc và nuôi tôm nước lợ, nước mặn cải thiện ở Bạc Liêu. Năm 2000, diện tích thủy sản nuôi
trồng cả nước là 642 000 ha và sản lượng cả nước là 590 000 tấn . Diện tích
nuôi trồng thủy sản ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long năm 2000 tăng lên đến 445 000 ha ,
và sản lượng đạt 365 100 tấn. Sản lượng thủy sản nuôi An Giang – Châu Đốc đã lên cao vựợt Cà Mau, hơn hẳn Bến Tre. Tuy
diện tích nuôi trồng thủy sản Long An năm 2000 đã là 400 ha, trên Đồng Tháp chỉ có 1900 ha, nhưng sản lượng Long An chỉ gần
9000 tấn, còn thua xa sản lượng Đồng Tháp
là 38 000 tấn. Năm 2007 là
năm cột mốc, lần đầu tiên, ngành nuôi
trồng thủy sản ở Việt Nam
đạt sản lượng 2 085 200 tấn, cao hơn
sản lượng đánh bắt thủy sản là 2 063 000 tấn. Sản lượng nuôi trồng tòan quốc 2007 là 1 828 068 tấn cá nuôi
và 386 728 tấn tôm nuôi, trong khi năm
2004 chỉ đạt 761 000 tấn cá nuôi và 281 800 tấn tôm nuôi. Năm đó, tôm
sú – black tiger shrimp Penaeus
monodon còn chiếm đến 80 – 90 %
tổng sản lượng tôm nuôi. Vì vùng nuôi tôm sú ở miền Nam , nơi nhiệt
độ cho phép làm 2 mùa tôm sú. Thể thức nuôi
tôm phần lớn là quảng canh , nên thành quả là
đến năm 2008 Việt Nam, Ấn Độ và
Bangladesh là vài quốc gia sản xuất tôm
sú cở lớn, phẩm giá cao. Tôm thẻ chân trắng- white leg shrimp Penaeus vannamei từ Nam Mỹ, có lẽ được du nhập vào Việt
Nam giữa các năm 1997- 2000 . Mức sản
xuất tôm chân trắng tăng mau lẹ ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc, nhờ dễ thuần
dưỡng – domestication, dễ tuyễn con
giống , dễ nuôi thả tôm con tỉ trọng cao , ít yêu cầu - đòi hỏi thực phẩm phải chứa nhiều protein như nuôi
tôm sú, chịu đựng nhiệt độ tương đối thấp và phẩm giá nước nuôi kém cỏi. Tháng giêng 2008, Cục( ? ) Thủy Sản ( bộ Thủy Sản sáp
nhập vào bộ Nông nghiệp năm 2007 ) mới
chấp nhận cho nuôi thâm canh tôm chân trắng ở các ao đào, ở những vùng nuôi
trồng an tòan tại Châu Thổ Sông Cửu Long. Tôm sú và tôm chân trắng là tôm nuôi vùng nước lợ - brackisnh water.
Mùa khô mức thủy triều dẫn mặn vào sâu các sông, rạch, kinh …. tỉnh Long An. Năm 2006
Long An sản xuất được 7085 tấn tôm.
Mức sản xuất tôm giảm xuống hai
năm sau, chỉ còn 5 683 tấn , có lẽ vì tôm chân trắng bị bệnh ( bệnh đốm trắng
…. ) nhiều và khó khăn mua con giống tôm
sú ( ? ) , nhưng tôm nuôi ở tỉnh nhà vẫn
cao mấy lần hơn tôm nuôi ở tỉnh
Đồng Tháp chỉ đạt 308 tấn . Năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu 191 553 tấn tôm, trị giá 1.625 tỉ đô la Mỹ,
bán nhiều nhất cho Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hiệp Hội Âu Châu. Năm 2008, Việt Nam đã xuất khẩu
386 000 tấn các lọai cá da trơn – catfish tông Pangasius sp. ( cá tra, cá
vồ, cá bông lau- basa …) , trị giá 979 000 đô la ( so với năm 2005 xuất khẩu
140 707 tấn, trị giá 328 215 đô la ).
Tuy nhiên sản lượng tôm ở cả hai tỉnh này
đều không đáng kể so với 88 500 tấn tôm nuôi ở Cà Mau , 58 000 tấn ở
Bạc Liêu, 53 000 tấn ở Sóc Trăng, và trên 22 000 tấn ở các tỉnh Trà Vinh, Bến
Tre năm đó. Ở một tỉnh có đến 200 000 ha nhiều tháng nước ngập và nay đã làm
hai ba vụ lúa nước, mùa khô vẫn còn đưa nước ngọt vào đủ ở hệ thống sông, rạch,
kinh, mương dày đặc, ngành nuôi trồng
tôm cá và một vài lọai thủy sản
khác( nghêu sò , ốc ăn được , cua …) của Long An cần phải tăng cường
mạnh mẽ hơn: khảo cứu, khuyến ngư, cải
thiện phương thức nuôi như GAP thủy sản,
lề lối thâm canh, hầu đuổi kịp các vùng tỉnh khác có nuớc mặn, nâng cao thêm
lợi tức nông dân còn nghèo khổ đa số
nay vẫn độc canh làm lúa ( dù rằng nay
đã họ đã thừa lúa đem bán, thay vì thiếu lúa- đói cơm phải ăn thêm lúa ma và chờ đợi
trợ cấp chánh quyền cuối thập niên 1975
mãi cho đến sau thời gian” đổi mới” các thập niên 1980- 90 ). Ít nhất là trên
phương diện cá Pangasius,
Long An cần đuổi kịp tỉnh Đồng Tháp, một trong 4 tỉnh sản xuất lớn nước nhà ( ba tỉnh kia là An Giang, Cần Thơ, Bến Tre). Tưởng cũng nên biết là năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu 1.3 triệu tấn cá
Pangasius trị giá trên 1. 8 tỉ đô la
Mỹ và năm 2012 tuy vẫn xuất khẩu gần 2
triệu tấn cá Pangasius, nhưng chỉ còn thâu vào 1.7 tỉ đô la, trụt 3.4 % so với
2011 trên trị giá tổng xuất khẩu thủy sản nước nhà là 6. 2 tỉ
đô la năm 2012, thấp hơn mục tiêu đặt ra cho năm 2012 là 6.4
tỉ. Xuất khẩu mọi lọai tôm năm 2012 giá trị 2.35 tỉ, cũng thấp hơn giá
trị năm 2011 là 2.4 tỉ đô la Mỹ.
c- Trồng
lại rừng tràm nên chăng ?
Làng rừng tràm là những trại căn cứ
kháng chiến Vùng Đồng Tháp Mười thời gian chiến tranh từ 1945 đến 1975. Từ cuối
thập niên 1980, chánh quyền mới khởi sự một chương trình tái lập rừng tràm để bảo tồn đất thấp đồng lầy và cố tâm biến gỗ tràm thành một hàng hóa thương mãi. Trồng lại rừng tràm còn có mục đích chánh
trị, ngoài mục đích kinh tế là làm tái sinh
tăng cường tinh thần, nhuệ khí “ Cách mạng – Giải phóng Dân tộc”. Vì vậy
nên được đề cao ở các nông trường tập thể quốc doanh – state farms. Chẳng
hạn rừng quốc gia ở tỉnh Kiên Giang chiếm 21 400 ha vùng U Minh Thượng trung tâm Vũng Lớn đất than bùn, thọat tiên thiết lập nhiều nông trường để trồng lúa . Nhưng vì đất than bùn dày không chưn trên đất phèn tiềm thế, không
thích hợp cho trồng lúa, nên nhiều nông
trường mau lẹ chuyễn qua đồng cỏ sậy
– common reed Phragmites ( Arundo ) vallatoria,
chỉ để lại chút ít rừng tràm nguyên thủy ở trung tâm nông trường. Năm 1992,
chánh quyền Trung Ương quyết định biến
vùng trũng này thành những “làng
rừng quốc doanh, gồm một vùng nông lâm- agroforestry zone và một vùng
rừng dự trữ – forest reserve zone”
. Sau khi hòan tất đào kinh bao
ngạn năm 1992, các di dân định cư mới được tuyễn đến lập nghiệp
khai thác vùng nông lâm giữa “ ốc đảo bao ngạn – polder” vòng trong và
vòng ngòai ( xem hình ). Mỗi nông dân mới được cấp một giải đất 4 ha ở vùng
nông lâm và bị bắt buộc phải nhận các cây tràm con - Melaleuca seedlings trồng 2 ha ở ốc đảo bao
ngạn vòng trong; ốc đảo vòng ngòai có
thể trồng lúa. Cục lâm nghiệp trợ cấp di
dân mới để trồng tràm, nhưng di dân chỉ thích trồng lúa, thu lợi tức mau lẹ hơn
là chờ đợi bán cũi,gỗ tràm lớn. Cục lâm nghiệp
tiếp tục trồng tràm Melaleuca ( đôi khi luôn cả đại mộc khuynh diệp đỏ Eucalyptus
camaldulensis thích hợp đất ẩm thấp,
phèn tiềm tàng )ở khu dự trữ bảo tồn
rừng và trên đồng sậy hoang dã . Đưa tới một phân biệt rỏ rệt giữa hai vùng
ốc đảo, cuối thập niên 1990, đồng ruộng
lúa rộng lớn vòng ngòai và rừng tràm Melaleuca
dày đặc vùng trong. Thật muôn vàn khó
khăn cho Cục lâm nghiệp nới rộng rừng tràm vùng nông lâm, Cục muốn làm thành
một vùng đệm ( độn ) che chở khu rừng dự
trữ bảo tồn.
Còn ở Đồng Tháp Mười, năm
1985, một nông trường tập thể thất bại diện tích tổng cọng là 10 000 ha đã được sửa đổi thành
một tổ hợp- corporation nông nghiệp và lâm nghiệp. Tuy nhiên tổ hợp cũng thất bại và năm 1990, 7600 ha
Melaleuca và đồng
sậy ẩm thấp được chuyễn qua cho
chánh quyền địa phương quản lý và thành một khu dự trữ thiên nhiên . Phần còn
lại 2400 ha tiếp tục trồng lúa,chia ra nhiều lô nhỏ và
giải tỏa cho nông dân canh tác năm 1994 và trở thành một vùng ruộng lúa thịnh vượng.Vùng dự trử bảo tồn rừng luôn luôn bị khai thác bất hợp pháp để trồng
lúa. Một phương thức khác “đổi mới” là
chuyễn nông trường tập thể xã hội qua
hình thức liên doanh khai thác rừng với sự tham gia của các công ty rừng thương mãi ngọai quốc. Các nông trường
quốc doanh phía Bắc tỉnh Kiên Giang, năm
1990 đã chuyễn ồ ạt qua một công ty liên
doanh ngoại quốc. Công ty khởi sự trồng
tràm và khuynh diệp đỏ năm 1991, mục đích
xuất khẩu mảnh gỗ làm bột giấy- pulp chips . Công ty dự trừ
trồng 60 000 ha, nhưng khế ước ký
kết chỉ cho công ty thuê đất 35 năm, trồng
45 000 ha rừng. ( chiếu theo báo cáo Tanaka Koji – 2001 ) .
Tràm đã được Hiệp Trấn Trịnh Hòai Đức 1765- 1825 ) nhắc đến ở Gia Định Thành Thông
Chí là cây “trăm lớp võ” , võ có thể
dùng lợp mái nhà và thân làm củi
đun. Thời Pháp thuộc, thân tràm dùng
đóng cừ xây cất ( Sài Gòn trước đây một
thành phố dựng trên cọc cừ tràm chống giữ xây cất) nhưng nay khai thác rừng tràm và
trồng lại rừng tràm không còn lợi lộc nhiều nữa, vì trồng lúa cao năng, nhiều vụ
lợi hơn và các nọc trụ bê tông cũng tiện
hơn, rẽ hơn. Năm 2012, ước lượng là Đồng
Tháp Mười mất đi một năm 5000 ha rừng
tràm. Huyện Tiên Phước tỉnh Tiền
Giang ( Mỹ Tho ) nay chỉ còn 4500 ha
rừng tràm trong số 10 200 ha kiểm kê năm
2005. Năm 2010 Long An còn được 46 000 ha rừng tràm; năm 2012 chỉ còn 40
000ha . Long An nay mất đi 3000 ha rừng tràm mỗi năm.
1-
Công nghệ Long
An
Công nghệ Long An thật sự cất cánh năm 2002 ,
khi Sài Gòn- TP HCM bắt đầu di dời 30 000 doanh vụ và thủ công ô nhiễm ra khỏi nội thành về ngọai ô. Ủy Ban nhân dân tỉnh Long An chụp ngay cơ hội phát triễn kinh tế xã hội
tỉnh nhà, hợp tác ngay với TP HCM. Một
kế họach tái định cư doanh vụ công nghệ và thủ công từ TP HCM đến
tỉnh nhà trong hai năm. Long An hòan tất
qui họach 22 vùng công nghệ, diện tích tổng cọng là 8200 ha. Chánh phủ năm đó
chỉ chấp thuận dự án thiết lập 6 vùng
công nghệ Long An và chỉ lựa chọn đa số là các công ty địa phương tài chánh vững vàng để xây cất hạ tầng cơ sở. Khu
công nghệ Đức Hòa I đã phát triễn đầu tiên năm 2001. Đến năm 2006, hai công viên công nghệ khác
của Long An đã hòan tất, các doanh vụ chiếm cứ đầy đủ. Công viên Thuận Đảo ( ? ) diện tích 114 ha và
công viên Đức Hòa 1 diện tích 70 ha đã có 45 công ty, phần lớn
làm đồ nhựa nhẻo – plastics, giày dép, thực phẩm chăn nuôi và các
xưởng tổng quát. Theo Cơ quan Quản trị
các Vùng Công nghệ tỉnh nhà, năm 2006 đã có 110 doanh nghiệp ngọai quốc họat động tại Long An . 60 % nguồn gốc Đài Loan . Các nhà đầu tư chánh khác là Thái Lan, Pháp,Vương Quốc Anh và Hàn Quốc ( Nam Hàn ). Tổng số đầu từ đã trên
1 tỉ đô la Mỹ và tăng mau lẹ để sản xuất giày dép, áo quần, các đồ nhựa dẻo. Tại Công viên Đức Hòa II, do công
ty Phú Mỹ Vinh thiết lập, chỉ cách Quận
1- TP HCM 25 km. Bến Lức cũng thành một
trung tâm công nghệ tích cực, chỉ cách quận 1- TP HCM 30 km. Long An cũng nắm
lấy cơ hội phát triễn công nghệ chế biến nông sản. Công ty Cargill, một công ty
Hoa kỳ khổng lồ chế biến nông sản, đã đầu tư 25 triệu đô la ở Bến Lức để chế
tạo thực phẩm gia súc và các thực phẩm khác.
Japfa, một công ty chế biến thực
phẩm gia súc lớn của Thái Lan cũng lập cơ sở chánh ở Long An. Nhưng công ty sử dụng nhân công lớn nhất tỉnh
là công ty Ching Luh, dùng 30 000 nhân công sản xuất giày Addidas và Nike ở Bến Lức. Công ty sử
dụng nhân công đứng hàng nhì là Taffeta của Đài Loan, sản xuất hàng vải vóc và
tơ sợi, dùng đến 8600 nhân công. Thứ ba là Công ty Đế Vuơng ( Emperor Company
Limited của Đài Loan), dùng 5000 nhân
công sản xuất giày - dép. Hầu tăng thêm
ưu điểm và lợi dụng vị trí cạnh tranh
địa lý thuận lợi…, Ủy ban Nhân dân
Long An đã dự trù xây cất một hải cảng ở Tân Tập , tàu trong tải 30 -50 000
tấn có thể cập bến. Cảng biển này rộng 400 ha và vị trí là nơi hai sông Vàm Cỏ
và sông Soài Rạp gặp nhau. Vì cần phải được nạo vét trước, cảng Tân Tập chưa được chánh quyền Trung Uơng chấp thuận
và cũng chưa có hảng nào đầu tư xây cất năm 2006, dù
công ty Vinacapital tỏ ý muốn đầu
tư xây cảng. Không rỏ nay đã xây xong Tân Tập chưa ?
Các công viên công nghệ IP đến năm 2012 ở Long An là :
* ở huyện Đức Hòa : Việt Hoa -Đức Hòa 3 , Thái Hòa- Đức Hòa 3 , Ánh Hồng- Đức Hòa 3 ,
SILICO- Đức Hòa 3, Thạnh Đức – Đức Hòa 1, Hạnh Phúc – Đức Hòa 2 , Tân Đức…
* ở huyện Bến Lức là Thuận Đào , Vĩnh
Lộc 2, Tân Bửu – Mỹ Yến – Long Hiệp , gồm luôn các công viên Khánh Đông- Long Hiệp IP, Tân Bửu
IP , Tân Bửu 4 IP, Mỹ Yên 4 IP, Conresco
IP, Nhứt Chánh IP
* ở huyện Cần Giuộc là Tân Kim
IP, Tân Phước IP, Long Hậu IP, Phước Vĩnh Đông IP, Tân Tập IP
* ở huyện Cần Đước là Cầu Tràm IP
Sau đây là mô tả sơ lược hai Công viên Công Nghệ IP Long An:
- Tân Đức IP : diện tích là
535,6 ha, giai đọan đầu 276.14 ha, giai đọan II 259.46 ha, được chấp thuận xây
dựng tháng giêng năm 2003.
Vị trí là xã Hửu Thạnh và xã Đức Hòa Hạ, huyện
Đức Hòa, có đặc điểm: kế cận các tỉnh lộ
830 và 825 đến quốc lộ 1A , tới TP HCM
và các tỉnh ĐB SCL; giáp sông Vàm Cỏ Đông chảy về Biển Đông và dẫn tới TP HCM, các tỉnh
ĐBSCL rất thuận tiện bằng đường sông; trong dự án chi tiết có một cảng công ten nơ trên sông Vàm Cỏ; cách
trung tâm TP HCM và Phi trường
Quốc tế Tân Sơn Nhất 20 km, cách thị trấn Bến Lức 15 km; cùng dự trù xây cất một khu cư xá 422 ha kế cận IP có thể cho trên 58 000 người cư trú, nay đã thực hiện
xong giai đọan 1 rộng 74.22 ha. Tân Đức
dự trù làm các công nghệ nhẹ ít ô nhiễm( thân thiện môi sinh) , tỉ như chế biến
thực phẩm, tơ sợi, may mặc, giày dép, plastic, chế biến gỗ và chế tạo máy móc.
- Ánh Hồng – Đức Hòa 3 IP ; diện tích là54.9 ha chấp thuận dự án chi
tiết tháng chạp 2002. Vị trí ở Đức Hòa 3 IP , xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, có đặc điểm : giáp TP HCM và
cách trung tâm TPHCM 25 km ; nối
với quốc lộ 22, cách quốc lộ chừng 9km; nằm giữa ba khu cư xá gồm
thị trấn Đức Hòa, thị trấn Hậu Nghĩa ( tỉnh Long An ) và thị trấn Củ Chi
( thuộc TP HCM ). Ánh Hồng dự trù làm công nghệ ráp, chế tạo cơ khí và các hàng hóa tiêu
thụ .
Tháng 10 năm 2012, Chánh phủ chấp thuận
Qui họach Phát triễn Kinh tế Xã hội tỉnh Long An đến năm 2020, tầm viễn cảnh xa
đến 2030 , chia tỉnh ra làm 3 vùng: Vùng
I gồm các huyện như Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Thạnh Hóa và Mộc Hóa sẽ cố gắng thâm
canh lúa, hầu bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia, sản lượng lúa trên 2.5 triệu tấn/năm;
Cùng lúc phát triễ nuôi cá, nuôi
tôm , thủy sản khác và tăng cường du lịch. Vung II nằm giữa sinh thái hai sông Vàm Cỏ Đông và
Vàm Cỏ Tây. Nhiệm vụ chánh vùng II là một vùng đệm( độn ) – buffering zone,
bảo vệ cho Vùng I và vùng III khỏi vấn
nạn công nghệ hóa và đô thị hóa qúa độ, giảm bớt ô nhiễm hai sông Vàm Cỏ khi
nhiều dự án công nghệ tích cực họat động, cố
gắng bảo tồn một không gian sạch và xanh cho phát triễn tương lai. Vùng III là vùng đô thị hóa và công nghệ hóa Long
An , gồm sông Vàm Cỏ Đông và vài huyện như Đức Hòa, Bến Lức, Cần Giuộc, Cần
Đước và một phần các huyện Thủ Thừa, Châu Thành và Tân Trụ. 4 % đất đai
thiên nhiên của vùng này sẽ làm phát triễn đô thị và công nghệ , mục đích biến Long An thành một tỉnh công
nghệ hóa vào năm 2020, tỉ xuất công nghệ và xây cất phải đạt trên 40 % GDP tỉnh nhà. Theo báo cáo năm 2012, GDP Long
An đạt 15.851 ngàn tỉ- trillion VND, tỉ
xuất tăng trưởng kinh tế là 10.5 %. Tỉ xuất tăng trưởng nông lâm
ngư năm 2012 ước lượng chỉ tăng 3.3 % .
Dù rằng các năm 2008- 2009, các họat
động công nghệ Long An gặp nhiều khó
khăn như toàn thể đất nước và nhiều quốc gia trên thế giới, lảnh vực công nghệ vẫn
đạt 11.5 %, trị giá sản xuất công nghệ ước lượng đạt
26.774 ngàn tỉ VND.
Viễn cảnh cho năm 2020, lợi tức trung
bình GDP mỗi đầu người sẽ là 80 triệu VND ( xấp xĩ 3000 đô la Mỹ- USD ) và đến 172 triệu VND ( trên 5400 USD ) năm 2030. Năm 2020, phân chia GDP tỉnh Long An sẽ là 15% cho
nông nghiệp, 40 % cho công nghệ xây cất
và 45 % cho dịch vụ ….
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ, ngày 5 tháng hai
2013)
`
Date: Mon, 25 Feb 2013 07:21:07 -0800
Trả lờiXóaFrom: drlong18@sbcglobal.net
To: tonthattrinh@hotmail.com
Kính Cám Ơn Thầy Trình về bài viết Tỉnh Long An nghiên cứu rất công phu và Thầy viết rất sống động.
Trần Nhu Long
Tiến sĩ Kinh Tế Canh Nông