Cập nhật phần nào hiểu biết tổng quát về :
Nước
Lào ngày nay
G
S Tôn Thất Trình
Vị trí
Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào – PDR, Lao People ‘s Democratic
nằm vào trung tâm bán đảo Đông Dương - Đông Nam Á, 14- 23 độ vĩ tuyến Bắc và 100- 108 độ kinh
tuyến Đông. Bắc giáp Trung Quốc. Nam giáp Căm Bốt biên giới chung dài 435
km; Đông giáp Việt Nam biên giới chung dài đến 2069 km; Tây
giáp Thái Lan biên giới chung dài 1835 km; Tây Bắc giáp Miến Điện -
Myanmar biên giới chung chỉ là 236km . Các
tỉnh Lào có biên giới chung với Việt Nam, từ Bắc xuống Nam là Phong sa ly ( sô’
10 ở bản đồ ), Luồng ( Luang ) pha bang( sô’ 8), Hủa Phan ( Hủa phanh, sô’ 5),
Xiêng khỏang ( Xiangkhuang, số 18), Bôli Khămxai (số 3) , Khăm Muộn ( Khammuan,
sô’ 6 ), Xa Văn na khét( Savannakhet , số’ 12 ) , Xalavan ( Salavan, sô’
11) ,Xê Kông ( Sekong , sô’ 17 ) và A Ta pơ - A ta pêu(
Attapu,sô’ 1 )
.
Phân chia hành chánh ( tính đến 13 tháng 3 năm 2015 )
Lào
Quốc chia ra làm 18 tỉnh tên Lào là khoeng,
qwuang hay khoueng. Có một quận cọng thêm Thành phố thủ
đô Viêng Chan- Vientiane, thành
tỉnh Vientiane ( số 13 ) . Năm
1989, quận Vientiane tách rời khỏi tỉnh Viêntiane Province và thủ phủ
di chuyễn đến thị trấn Muong Phôn Hông .Còn thủ đô Viêng Chan (
thời Pháp thuộc ta gọi là Vạn Tượng, đất của vạn con
voi ? ) Lào gọi là Nakhon Luang hay Na Kone Luang Vientiane. Năm
1994, vùng đặc biệt –special region Xaisômbuon Ketphiset được thiết lập lấy một phần đất
của các tỉnh Bôli Khăm xai, Vientiane và Xiêng Kohảng. Năm 2006
vùng đặc biệt Xaisomboun bị giải tản ; các quận huyện Longsan ,
Xaysombuon, Phun và Hom trả về tỉnh Vientiane còn quận Thathon
chuyễn qua tỉnh Xiêng Khỏang . Tỉnh Xaisombuon lại được tái lập cuối năm
2013 (?) . Tỉnh Lào được chia ra làm nhiều huyện ( muang, mường ) và làng
xã ( baan ).
Trên
phương diện địa lý các tỉnh nhập lại thành ba tầng - strata. Tầng Bắc từ
Phongsaly đến Xayyabuli , Luang Prabang - phabang và Xiêng Khỏang . Tầng
Trung là các tỉnh từ Vientiane và Bôli khămxay. Tầng Nam từ Khăm
Muộn đến Champassack .
Sau
đây là tên, thủ phủ, dân số , diện tích các tỉnh Lào chiếu theo kiểm kê
năm 2005.
1-
Attapu , thủ phủ là Samakkhixay
- Attapeu , dân số 112 095 người, 10 320 km2.
2- Bô kèo- Bokeo, thủ phủ là Ban
huoayxay, dân số 145 216 , diện tích 6196 km2
3- Bô li Khămxai , thủ phủ Paksan
- Paksane, dân số 225 272, 14863 km2
4-
Champassak ,thủ phủ là Pakse - Pắcxê, dân số 607 333
, 15 415km2
5-
Hủa phan- Huoaphan, thủ phủ là Sầm
Nứa - Xamnuea, dân số 280 898, 16500km2
6-
Khăm Muộn - Khammuoan, thủ phủ là
Thà khẹt- Thakhet ,dân số 337 314, 16315km2
7-
Luồng Nam Tha- Luang Namtha, thủ phủ là
Nam Tha, dân số 145 289, 9325km2.
8- Luồng pha bang- Luang prabang - pha bang, thủ phủ là Luang Prabang, dân số 407 012, 16 875km2
8- Luồng pha bang- Luang prabang - pha bang, thủ phủ là Luang Prabang, dân số 407 012, 16 875km2
9
- Oudomxai , thủ phủ là Mường
xai- Muang xay, dân số 265 128, 15370 km
10 -
Phông sali , thủ phủ là Phôngsali, dân số 165 926,
16270 km2
11- Salavan, thủ phủ là Salavan ,dân
số 324 303, 10 691 km2
12-
Savannakhet, thủ phủ là Savannakhet
- Khantabouly, 827 879, 21774 km2; tỉnh đông người và diện tích lớn nhất
Lào
13-
Viêng Chan - Vientiane , thủ
phủ là Phonhong, dân số 388 833, 15 927 km2
14
- Thủ đô Viên chan - Vientiane, dân
số 698 254, 3920 km2
15-
Xaingnabouli , thủ phủ là Xayrabury -
Saiyabuli, dân số 338 646, 16 389 km2
16
- XêKông , thủ phủ là Lamarm-Sekong , dân số 84 985, ít người nhất
các tỉnh Lào, 7665 km2
17
- Xiêng Khỏang, thủ phủ là Pek -
phonsavan , dân số 229 521, 15 880 km2
18
- Xaisomboun mới tái lập cuối
năm 2013, nên chưa rỏ tên thủ phủ, dân số, diện tích ở kiểm
kê 2005
Địa lý
Diện
tích tổng quát nước Lào là 236 800 km2 , nhỏ hơn Việt Nam đôi chút ;
¾ là núi và cao nguyên. Phân chia ra làm 3 miền khác biệt rỏ
rệt.
Miền
Bắc núi non, trung bình 1500m cao hơn mặt biển. Đỉnh cao nhất là Phu Bia ở tỉnh Xiêng Khỏang . Cao nguyên Phú Luông ( Trường Sơn Việt Nam )
trải dài từ Đông Nam Cao Nguyên Phouane xuống
biên giới Căm Bốt . Cao Nguyên này thật ra là 3 cao nguyên rộng lớn:
Cao Nguyên Phouane ở tỉnh
Xiêng Khoảng, Cao Nguyên Nakai ở tỉnh Khăm Muộn và Cao Nguyên Boloven ở Nam Lào
cao hơn mặt biển 1000m.
Miền
các đồng bằng gồm các đồng bằng lớn nhỏ, dọc theo sông Cửu Long - Mê
Kông. Lớn nhất là đồng bằng Viên
chan ( Vientiane ) gần cuối dòng sông Nậm Ngùm (Nam Ngum ). Đô`ng bằng Xa van na khét (
Savannakhet ) cũng khá lớn ở cuối dòng các sông Xê Băng Phai(
Se Bang Fai ) và Xê Băng Hiêng ( Se Bang Hieng ). Đồng bằng Champassak nằm trên sông Mê Kông ,xuyên qua các
biên giới Thài Lan và Căm Bốt. Nhờ đâ’t đai phì nhiêu, các đô`ng bằng này chiếm ¼
tổng diện tích và là “kho vựa lúa gạo” nước Lào .
Sông Mê Kông chảy qua các nước Đông Nam Á |
Sông
suối chảy dọc ngang chằng chịt nước Lào. Sông Mê kông chảy dài 1835 km từ Bắc xuống Nam.
Nguồn thủy điện từ chúng rất phong phú. Ước luợng tiềm năng
thủy điện của Hạ lưu Sông Mê Kông - Lower Mekong Basin chiếm
hơn phân nữa tổng số tiềm năng Hạ lưu , nằm trong lảnh thổ nước Lào. Sông Nậm U ( Nam Ou ) chảy từ
Phongsaly đến Luang prabang dài 448 km. Sông Nậm Ngùm dài 354 km , chảy từ Xiêng Khỏang đến tỉnh
Vientiane. Sông Xê băng Hiêng
của tỉnh Xa Văn Na Khẹt ( Savannakhet) dài 338 km. Sông Nậm Tha chảy từ Luồng ( Luang
) Namtha đến Bồ Kèo( Bokeo ) dài 325 km. Sông Nậm Xê Kông ( Sekong ) chảy dài 320 km từ Saravane và Xê
Kông đến tỉnh Attopêu. Sông
Xê Băng Phai chảy 239 km, giữa hai tỉnh Khăm Muộn và Xa Van Na
Khẹt . Sông Nậm Beng tỉnh
U đômxay (Oudomxay) dài 215 km.
Sông Nậm Xê Đông ( Nam Sedong ) chảy dài 192 km ở
giữa hai tỉnh Saravane và Champassak. Sông
Nậm Xê La Nông ( Nam Selanong) ở Xa Van na Khẹt dài 115km . Sông Nậm Cả Đinh ( Nam Cading
) tỉnh Bôli Khăm xai, dài 103 km. Sông Nậm Khanh chảy dài
90 km giữa các tỉnh Hủa Phan và Luồng- Luang Prabang.
Vì
là một xứ nhiệt đới, thời tiết nước Lào bị các gió muà ảnh hưởng . Thời
tiết núi non miền Bắc và rặng cao Trường Sơn về phía đông
có khí hậu bán nhiệt đới. Khác biệt nhiệt độ ban ngày và ban
đêm là khỏang 10 độ C. Nước Lào có 2300- 2400 giờ nhật chiếu một năm.
Ẩm độ khí trời thường là 70- 80% và 75 - 90 % rơi vào
mùa mưa , từ tháng 5 đến tháng 10. Mưa rơi mùa khô, từ tháng 11 đến tháng
4, chỉ 10 - 25%. Có nhiều khác biệt về lượng mưa giữa các mìền .
Chẳng hạn ở Phú Luông (Trường Sơn VN ) lượng mưa trung bình mỗi năm là
300mm. Còn ở Xiêng Khỏang, các tỉnh Luồng Prabang và Xayabury chỉ 100- 150mm
Chan và Xa van na Khẹt mưa là 150 -200mm mỗi năm .
Lào rất phong phú tài nguyên thiên nhiên
. Dưới đất Lào có nhiều trầm tích khóang chất như thiếc, sắt, than
đá, kẻm, vàng, bạc, sul fua và nngoc xanh xa phia - sapphires. Dù khai
thác mỏ đang còn thô sơ , các nghiên cứu cho thấy là số lượng và tỉ
trọng các trầm tích khóang chất đa lọai nồng lượng cao . Ở trên mặt đất, rừng bao phủ 47% tổng diện tích, chứa nhiều lòai
cây có giá trị kinh tế như Khagnoung , Khamphi, Dou, gỗ trầm hương-
Eagle wood và Long leng . Rừng còn giàu có các sản phẩm
không phải là gỗ như nhựa cánh kiến - shellac , an túc
hương , cánh kiến trắng - benzoin, bạch đậu khấu - cardamon , nhựa
thông , mây- rattan và cây cỏ làm thuốc . Và rừng cũng có
nhiều động vật như voi , cọp , gấu , nai - hỏang và một lòai hiếm có mới
tìm thấy là Sao La.
Nhân văn : các tộc dân Lào
Năm 1893 , Lào là
một quốc gia thành phần của Đông Pháp( Việt Nam , Căm Bốt và Lào ) và được Pháp bảo hộ - Protectorat. Theo
nhiều tài liệu, Pháp lại không phát triễn gì mấy cho Lào cả .
Từ năm 1953 , Lào là một nước độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp . Từ sau
hiệp định Genève- Giơ Neo năm 1954 , Lào cũng như Việt Nam sa
vào cuộc chiến cách mạng kéo dài thời đại Mỹ ( Mỹ gọi là Chiến Tranh Việt Nam )
, phá tan hoang kinh tế và xã hội hai nước . Năm 1975, Vua
Lào thóai vị và Lào do Đảng Nhân dân Cách mạng- Lào People
Revolutionary Party , LPRP điều khiển nước. Cai quản của LPRP ở
Lào còn khó khăn hơn cả Đảng Cọng
sản Viêt Nam ( dù dấu danh nghĩa dưới
nhiều tên khác nhau cai quản VIệt Nam, sau thống nhất ), Đảng Cọng Sản RPLP rất phụ thuộc Việt Minh, tiền thân của Đảng Cọng Sản Việt Nam Nam . Vì chưng Lào có đê’n 130
bộ lạc thiểu số , chia ra bô’n họ ngôn ngữ khác nhau . Vài bộ lạc chỉ
chứa vài trăm người và chỉ hiện diện ở nước Lào. Những bộ lạc nhỏ bé
hơn được xem là bị hiểm nguy các nhóm chủ trì lớn hơn thu
nuốt và ngôn ngữ cũng như phong tục họ sẽ biến mất , nhất la các bộ lạc
không có chữ viết riêng. Năm 1988, dân số Lào là 3 940 000 ( đàn bà đông
hơn đàn ông chút xíu, và được
chánh quyền Lào phân ra làm
47 tộc dân thiểu số , sinh sống tự túc ỏ 11 512 baan ( bản )- làng
xã. Tháng 7 năm 2015 , dân số Lào khoảng chừng 6 triệu
người , và chánh quyền hiện hửu muốn đơn giản hóa kiểu cách
đa dạng tộc dân này bằng cách gộp lại thành 3 nhóm chánh , tùy theo cao độ
các bộ lạc sinh sống :
- Lào
Đồng bằng hay Lào Lum ( Lao Loum)
dưới 400m
- Lào Núi hay Làu Theung ,
từ 400 đến 900m
- Lào Núi Cao hay Lào Sououng trên 900m
Cách
phân hạng này ít khi áp dụng. Cho nên sau đây là kiểu xếp
hạng theo ngôn ngữ :
- Họ
Thái Kadai - Tai Kadai , chiếm 55
% dân số
- Họ
Nam ( Úc) - Á chiếm 30% dân số
- Họ Mèo ( Miêu,
Hmong )- Dao ( Mán ) chiếm 10%
dân số
- Họ Tạng- Miến ( Sino - Tibetan) chiếm 5 % dân số
Họ Thái -Kadai là nhóm tộc dân đông nhất Lào . Gồm có tộc dân
Lào , Phù Thái - Phutai , Phouane, Thái Nyo, Thái Đen( g ), Lự (Llue ? ), Thái
Khao. Thái Dams. Nguồn gốc là Mông Cỗ , Hán và các tộc dân Hoa khác đã
đến nước Lào từ nhiều thế kỷ , phần lớn từ tỉnh Vân Nam , Trung Quốc.
Nhà sàn thường làm bằng gỗ và tre, dựng trên cột, có khuynh
hướng rộng lớn nhất. Thực phẩm căn bản là nếp - sticky rice, trồng trên
ruộng nước . Theo đạo Phật có nhiều tin tưởng vào thần linh- ma qủy.
Múa Quạt của Họ Thái |
Họ Úc (
Nam )- Á gồm 47 tộc dân .
Ngôn ngữ là Môn - Khơ Me ( Khmer ) . Gồm các tộc
dân Kha- Khơ Mú ( Ou , Lự , Rok & Me ) , Lawen- La Ha-
La Hủ ( ? ) , Tà Ôi -Ta oy ,Katang. Đến Lào từ miền Nam
hơn 10 thế kỷ trước . Nhà dựng trên cột thấp hơn là nhà
sàn Tai Kadai. . Không có chữ viết . Tôn giáo là linh hồn giáo - vạn
vật hửu linh -animist và Pháp sư shamanist. Tinh thần cộng
đồng rất cao . Sống nhờ đốt rừng làm rẫy - slash and burn culture. Uống
rượu cần - rice beer chứa trong chum ( lu, vại ) đất - earthenware
jars nhỏ
Họ Mèo ( Miao, Hmong )- Mán ( Dao) đến Lào từ Trung Quốc từ 1815 đến
1900 .Gồm có các tộc dân Hmong ( Mèo- Miêu ) , Dao Mán - ( Mien ? ) Lào
Hủ ( Lao Huay- Lenten ) và Pana Hmong từ các thảo nguyên cao nguyên Tây
Tạng. nhà sàn gỗ , tre ngay sát đất. Đã dùng một thứ chữ Tàu
. Theo tôn giáo thần linh , thờ phụng tổ tiền . Tinh thần bộ lạc
rất cao , Đốt rừng làm rẫy trồng lúa , bắp và thuốc phiện -
poppy.
Họ Hán -Tạng. Ngôn ngữ
phần lớn là Tạng - Miến ( Điện ) . Đây là nhóm ít phát
triễn nhất, chỉ sinh sống một vài nơi nước Lào. Gồm các tộc dân A Kha (
Ikhos ), La Hủ, Pounoy . Tốc dân A Kha đến Lào từ Vân Nam và
Tây Tạng vào đầu thế kỷ thứ 19. Tộc dân Pounoys là đến
Lào đầu tiên, từ Miến Điện vào thế kỷ thứ 16 . Tộc dân Ho
cũng đến Lào từ Trung Quốc sau chót hết . Nhà sàn sát mặt đất .
Không có chữ viết . Theo đạo linh hồn phức tạp . Đốt rừng làm rẫy và trồng
thuốc phiện. Chuyên săn bắt và hái lượm. Theo đạo linh hồn.
Vấn đề càng phức tạp là hiện diện
canh tranh nhau quyền lợi , quyền uy ở Lào của các công dân Thái Lan ,
Trung Quốc và Việt Nam . Ảnh hưởng của Pháp, của Hoa Kỳ, của Miến
Điện không bao nhiêu cả. Tuy Pháp để lại nhiều dấu ấn văn minh Pháp
ở nền tổ chức phân chia hành chánh, tộc dân và nhất là kiến trúc các đô
thị , thị trấn quan trọng của Lào, nhưng
thời Pháp đã phải tuyễn dụng nhiê`u người Kinh- Việt hay Lào Việt lâ’y vợ
- lâ’y chô`ng người gốc Lào bản xứ, để tổ chức bộ máy thư lại , công chức cho Pháp cai trị Lào. Nay thì chánh quyền
Việt Nam cố tiếp tục duy trì uy lực này phần lớn qua Đảng Cọng sản Lào,
một thóat thân từ Đảng Cọng Sản Việt Nam, từ thời Việt Minh ( ? ) và từ
thập niên 1970 .
Các đặc điểm mới về phát triển kinh tế Lào
Lào là
một trong những nước nghèo khổ nhất thế giới và chỉ có một điều phong phú : đó
là có sông Mê Kông khổng lô chảy
qua xứ sở Lào . Nhờ tiềm
năng thủy diện , Lào nay nổi danh là “Bình điện Á
Châu- Battery of Asia” thu hút đầu tư mạnh mẽ của ba nước Thái Lan , Việt
Nam và Trung Quốc .
Đập và hồ dự trữ thủy điện ở Lào
Tiềm năng
thủy điện Lào khai thác kỹ thuật
được ước lượng khỏang 18 tỉ kW - Kilowatt . Theo tài khóa từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 10 năm 2014 Lào đã
sản xuất ra 15. 5 tỉ KW – giờ thủy điện . Trong số điện lượng này gần 12.5 tỉ KW- giờ dã được xuất khẩu, đem về cho Lào
trên 610 triệu $ - đô la Mỹ.
Các đập thủy điện hiện hữu và dự án ở Lào |
Tính đến tháng 11 năm 2014, Lào chỉ mới đặt
làm trên 3. 240 tỉ KW, nghĩa là 1/ / 5
tiềm năng ước lượng . Đa số các đập thủy điện hiện hữu hay tiềm năng nằm trên các chi
lưu sông Mê Kông , và nay công trình xây
cất đã khởi công ỏ hai đập trên dòng chánh sông Mê Kông ở Xayaboury
và ở Don Sahong. Đập chánh xây cất đầu tiên là đập
Nậm Ngùm 1 trên sông Nậm Ngùm, thuộc tỉnh Viêntiane . Hòan tất năm 1971 với viện trợ Nhật , đập làm ngập 37 0 km2 ( 37 000 ha ) rừng và đất nông nghiệp , để tạo ra một hồ dự
trữ nước lớn . Nhà máy điện Nậm Ngùm
1 cung cấp phần lớn điện cho Lào
dùng, mãi đến cuối thế kỷ thứ 20 và
cũng xuất khẩu năng lượng qua Thái Lan nữa . Tưởng cũng nên nhắc lại là đập và
nhà máy thủy điện quan trọng đầu
tiên ở Việt Nam là Thác Bà,
trên sông Chảy, bắt đầu họat động năm 1970 công xuất
120 000 KW , sản xuất 420 triệu KW-
giờ và đập Đa Nhim trên sông Đồng Nai ,
nghiên cứu thời Đệ Nhất Cọng Hòa , năm
1974 , họat động bán phần công xuất
thiết kế , chỉ mới đến 160 000 KW , sản
xuất 1 tỉ KW-giờ .
Nay Hồ dự trữ Nậm Ngùm đã trở thành một nơi tiêu khiển và du lịch
lớn cho Lào . Nhiều nhà khách
đã xây cất trên vài đảo của vô số tiểu
đảo trên hồ , trên những đỉnh các thung lũng phụ ở vùng ; đáng nêu lên
là hai đảo trước đây là nhà
giam tù vào các thập niên 1970 và
1980. Có nhiều thợ lặn, lặn xuống nước
ngập cưa xẽ gỗ nhiều năm sau khi hồ ngập
và một công nghệ đánh bắt - nuôi
( ? ) cá khá thịnh vượng, cũng phát triễn
quanh hồ . Đập Nậm Ngùm nguyên thủy , cao 70m , dài 468m nay
lùn tũn so với đập thứ hai phía
bên kia Hồ dự trữ là một trong 5 dự
án thủy điện dự tính
xây dựng trên sông Nậm Ngùm.
Dự án Nậm
Ngùm 2 có đập bằng đá hiện cao nhất Lào,
cao 185 m, bề mặt đổ bê tông. Hồ
dự trữ lớn nhất là hồ Nakai , rộng
450 km2 ( 45 000 ha ) thànhlập năm 2008 khi đập Nakai , cao 39m , đóng cửa thoát thủy lần đầu tiên. Mỗi năm ,
Dự trữ Nakai chỉ còn 7000 ha( 70
km2 ) nước họat động được vào tháng tư mỗi năm. Nậm
Thơn (? )– Nam Theun 2 cũng có hồ và đập nhỏ hơn , xây cất có mục đích kiểm sóat các giải tỏa trạm thủy điện Nậm Thơn 2 đến sông Xê Bang
Phai.
Đập Nậm Ngùm 2 lớn nhất nước Lào chi phí 1.5 tỷ đô la Mỹ |
Lào hiện có ít nhất là 23 đập thủy điện hoạt động dọc theo sông Mê Kông . Đến năm 2020 Lào sẽ có thêm 28 đập nữa
. Đa số thủy điện là mới sẽ dành cho xuất khẩu sang các lân bang .
Chánh phủ Lào hy vọng là đến năm
2025 thủy điện sẽ là nguồn lợi tức chánh cho xứ Lào. Tuy nhiên hai nước Việt Nam và Căm Bốt rất bất mãn về các đập thủy điện Lào, đặ c biệt là hai đập Xayaburi ở Bắc Lào và đập Don Sa Hong, cách biên giới Cam Bốt – Lào 2km về phía Bắc. Nhưng phản đối ở Ủy Ban
sông Mê kông- Mekong River Committee , RMC
gồm 4 quốc gia Cam Bốt và Lào ,
Thái Lan và Việt Nam chỉ vô hiệu ,
vì quyền xây cất hay bải bỏ một đập là quyền hạn chủ quyền tối cao của mỗi quốc gia . Lào lắng nghe
, nhưng rồi vẫn tiến tới . Như thể đã xảy ra về xây cất đập Xayaburi
ở Đông Bắc Lào, đã hòan tất 2 phần
năm công trình giữa năm 2015 . Ở đây cũng như ở Don Sahong , Lào có thể bổ sung vài đặc điểm hầu giảm bớt tai hại cho các xứ hạ nguồn : các
bậc thang cho cá – fish ladders, các kênh đường rẽ - by pass channels , ngay cả một vươn cao là
các tua bin thân thiện cho cá - fish friendly turbines .
Trung
Quốc là nhà đầu tư lớn nhất ở Lào
Quản Hứa Bình (?), đại sứ Trung Quốc ở Lào tuyên bố ngày 30 tháng giêng năm 2015 là đầu
tư tích lũy của Trung Quốc ở Lào,
nay đạt 5,1 tỉ đô la Mỹ , trên hẳn
Thái Lan và Việt Nam . Trung Quốc cũng đang
thực hiện đường xe lữa tranh cải nhiều, nối tỉnh Vân Nam đến thủ đô Viên Chan, trị giá lên tới 7.2 tỉ đô là tiền Trung Quốc cho Lào
vay , tương đương với 75 % GDP Lào . Đầu tư Trung Quốc ở Lào luôn luôn là một mối lo ngại
cho Việt Nam . Việt Nam có cảm tưởng là
đang bị đe dọa – threaten, theo một bức thư, năm 2014, đảng Cọng Sản Việt Nam gửi cho đảng
Cọng Sản Lào Rađiô Á Châu Tự Do-Radio
Free Asia phát thanh. Và không phải chỉ mất ảnh hưởng chánh trị mà thôi :
Lào là thượng nguồn 3 nước
Việt Nam , Thái Lan và Căm Bốt trên sông Mê Kông , cho nên bất cứ đập thủy
điện nào xây cất với viện trợ Trung Quốc,
đều có nhiều ảnh hưởng khủng khiếp
cho các láng giềng nước Lào …
( Irvine , Nam Ca Li, ngày 12 tháng 7 năm 2015 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét