Cập nhật hiểu biết về:
Nước Cam Bốt ngày nay
G
S Tôn Thất Trình
Chợ chánh ở Phnom Penh |
Vị
trí, Phân chia hành chánh ngày nay
Vị trí
Nước
Căm Bốt- Cambodia , Cambodge ngày nay nằm vào 13 0 00
vĩ tuyến Bắc và 1050 00’ kinh tuyến Đông. Tổng diện tích
là 181 036 km2 ( 69 898 dặm Anh vuông ). lớn hon phân nữa diện tích
Việt Nam đôi chút; 97.5 % là đất và 2.5 % là mặt nước sông, hồ. Biên giới
dài 2530 km. Tây và Bắc giáp Thái Lan ( 2100 km ); Đông giáp Việt Nam (
1137 km ) và Đông Bắc giáp Lào ( 492 Km ). Các sông
chánh chia ra làm 3 lưu vực : Tonle Thom, Tonle Sap và Vịnh Thái
Lan. Sông Mê Kông ở Căm Bốt chảy dài 486 km và hồ lớn nhất là Tonle Sap
rộng 16 000 km 2 (1 600 000 ha ) .Nhưng núi cao
nhất là Phnom Aural , chỉ 1810 m ( 5938 bộ Anh ). Núi đồi chiếm
phân nữa tổng diện tích, phân nữa còn lại là các đồng bằng .
Phân chia hành chánh ngày nay
Tháng giêng năm
2014, Căm Bốt chia ra làm 24 tỉnh, tiếng Khmer gọi là khaet,
vì có một tỉnh mới là Tbuong Khmum ( tách rời khỏi tỉnh Kampong Cham )
và một đơn vị hành chánh đặc biệt là Phnom( Phnum ) Penh. Tuy
là một đơn vị khác Phnom Penh được xếp vào hàng tỉnh, cho nên thật sự
Cam Bốt có 25 tỉnh. Một khu phố rộng lớn có đến 50 000 dân gốc Khmer
ở thành phố Long Beach- Hoa Kỳ thường được gọi đùa là “ tỉnh
thứ 24”, vì đây là tỉnh Miên -Khmer kiều đông thứ hai ngòai Căm Bốt
. Đông dân nhất ngòai nước , có lẽ là vùng thủ đô Thái Lan Bangkok ( 1 200 000
? ).
Các tỉnh Cam Bốt là :
Các tỉnh Cam Bốt là :
Battambang,
Kampong Cham, Siem Reab - Reap , Kampong Thum, Pouthisat , Kampong Spoe,
Kampong Chnang, Prey Veng, Kampong, Takev - Takeo, Kampot,
Banteay Mean Cheay, Kandal, Kracheh- Kratie, Kaoh Kong, Svay Rieng, Stoeng -
Stung Treng, Mondul Kiri, Preah Seihanu , Preah Vihear, Rattana -
Rotanah Kiri, Ota Mean Cheay , Krong Phnum Penh , Pailing và Keb- Kep . Mỗi một
tỉnh lại chia ra làm nhiều quận - srok , districts . Năm 2010 ,
đếm ra 159 quận và 12 quận ở thủ đô Phnom Penh lại có tên Miên là
khan. Mỗi tỉnh còn có môt quận làm tỉnh lỵ . Chẳng hạn tỉnh lỵ
tỉnh Siem Reap là Srok Siem Reap. Quận ở Phnom Penh gọi là khan .
Mỗi khan lại chia ra làm nhiều sangkhat. Sang khat
chia ra thành nhiều phum, tương đương với các làng -xã. Nhưng
một phum có thể có nhiều khu cư ngụ cách nhau khá xa . Ngoài
các phân chia này , lại có thêm các krong- thị trấn lớn hay thành phố
trên 50 000 dân, và krong -thị trấn có trên 10 000 dân thường
là thị trấn tỉnh lỵ . Nay, các krong đều có hội đồng
dân bầu lên và một “ đốc lý, thị trưởng- mayor “ cũng do dân
bầu lên . Sau đây là dân số của 10 thị trấn lớn Căm Bốt, trên 50 000 người :
Phnom Penh 1 558 000 người, Takeo 843 900, Kampong Som 156
000, Battambang 156 000, Siem Reap 139 000, Poipet thuộc tỉnh
Banteay Meanchey 76 000, Kampong Chnang 75 000, Kampong Cham 61000,
Pursat 52 000, Takhmau 52 000 . Tổng dân số trên 15 triệu năm 2004 . 90% là dân
Khmer, nói tiếng Khmer , ngôn ngữ chánh thức. Các dân thiểu
số chiếm 3 % tổng số dân Căm Bốt gồm Hoa , Việt và Chàm .
Vài tộc dân địa phương- Khmer Thượng, sinh sống ở vùng núi
non và ở các vùng cao nguyên. Tộc dân Khmer Thượng- Khmer loeu gồm có các tộc dân :Pear hay Por chuyên hái
đậu khấu, hột gừng xanh- cardamones ,
Kouey chuyên làm thợ rèn , Kha , Samrès
, Phnong-M’nong…
Lịch sử Cămbốt
Lịch
sử Căm Bốt ( nên so sánh với các tài liệu Việt Nam đăng rải rác rác về
Căm Bốt ở tập san “ Theo Dõi Bóng Dáng Quê Hương” tập I và tập II (đã xuất
bản ) và tập III (đang xuất bản) về 63 tỉnh và thành phố
nước nhà, đặc biệt là các tỉnh Trà Vinh, Đồng Tháp, Tây Ninh, An Giang ,
Đồng Nai , Vĩnh Long, Lâm Đồng, Gia Lai - Pleiku...
Dân
gian Căm Bốt rất hãnh diện khi nói về lịch sử Căm Bốt . Có thể chia làm
11 thời kỳ.
Thời
tiền sử và lịch sử ban đầu
Thời
tiền sử và lịch sử ban đầu biết được phần nào là do dùng carbon 14
ở hang Laang Spean Tây Bắc Cam Bốt , đã xác nhận hiện diện
các dụng cụ đồ đá từ 6000 đến 7000 năm trước Công Nguyên ( CN ) và
đồ gốm -pottery từ 4200 năm trước CN. Theo nhóm khảo cổ Pháp -Miên
, các khám phá từ năm 2012 , cho thấy là hang chứa các di tích
của những nhóm người săn bắt và lượm hái , theo sau đó là nhóm thời kỳ đồ
đá mới - neolithic có những cách săn bắt và dụng cụ làm đồ đá
kỷ thuật cao phát triễn cao, cũng như làm và họa kiểu đồ gốm
nghệ thuật tinh vi , cùng những thủ tục xã hội , văn hóa ,
tượng trưng và ma chay công phu tỉ mĩ. Lịch sữ Cam Bốt có thể đã
hình thành ít nhất là 5000 năm trước CN.
Vương
Quốc Phù Nam ( thế kỷ thứ I sau CN đến 550 )
Các
chi tiết ghi chép về cơ cấu chánh trị trên lảnh thổ của Căm Bốt
hiện đại, lần đầu tiên xuất hiện trên các sử biên Tàu , liên quan
tới Phù Nam - Funan, một tổ chức nhà nước, Việt Nam còn gọi là Ốc Eo, bao
gồm phần cực nam nhất của bán đảo Đông Dương vào thế kỷ thứ 1
đến thế kỷ thứ 6 . ( Xem hình ở bài tỉnh Long An- Việt Nam để biết rõ vị trí
của Phù Nam , Chenla, Phù Nam , Champa - Chàm hay Chiêm Thành vào các thế
kỷ 400 -500 sau CN ). Trung tâm là Hạ lưu sông Mê Kông , Phù Nam
-Ốc Eo đặc biệt có văn hóa Ấn độ - Hindu xưa cỗ
nhất vùng , gợi ý một tương tác xã hội kinh tế lâu dài với
giao thương biển phạm vi cầu tròn Ấn Độ phía Tây
, nổi danh vào lúc đó là cảng biển , dưới chân núi Vọng Thê - Ba
Thê, Kiên Giang ngày nay .
Vương
Quốc Chenla ( thế kỷ thứ VI đến 802 )
Vào thế kỷ
thứ 6, một nền văn minh mệnh danh là Chân Lạp - Chenla , Zhenla, theo
sử biên Tàu, thay thế Phù Nam - Ốc Eo khi kiểm sóat một vùng Đông
Dương rộng lớn hơn và cao thấp hơn , duy trì một trung
tâm quyền lực lạ lùng. Vương Quốc Chân Lạp kéo dài từ thế kỷ
thứ 6 đến năm 802 . Sử ký nhà Tùy -Sui Dynasty chứa
các biên chép một quốc gia tên là Chân Lạp đã gửi một đại sứ
đến Trung Quốc năm 616 hay 617 sau Công Nguyên. Sử nói Chân Lạp
là chư hầu của Phù Nam , nhưng vào thời vua Citrasena
-Hahendravarman lại chiếm Phù Nam và trở thành độc lập. Tuy
nhiên sử gia Pháp Claude Jacques lại phủ nhận điểm này. Ý niệm là
Chân Lạp nằm vào nước Lào cận đại cũng bị tranh cải . Ghi
chép chánh trị quan trọng nhất của Căm Bốt trước thời đại Angkor
là khắc ghi chép K53 của Ba Phnom , niên đại 667 sau CN, không
chỉ dẫn một đứt quảng chánh trị nào cả ; hoặc của các trào vua kế tiếp
nhau Rudravarman , Bhavavarman I, Citrasena - Mahendravarman, Isànavarman
và Jayavarman I ; hoặc về tình trạng gia đình các chức
quyền đã làm ra khắc chép này. Một khắc chép, vài năm sau K 44 năm
674 sau CN, kỷ niệm tưởng nhớ thành lập tỉnh Kampot dưới sự bảo trợ
của Jayavarman I, nói tới một thành lập sớm hơn vào đời vua Raudravarma ,
có thể là Rudravarman của Phù Nam . Và một lần nữa không có gợi ý một đứt
quảng chánh trị. Sử ký nhà Đường - Tang khẳng định
là sau năm 706, quốc gia chia ra thành Lục Chân Lạp phía Bắc nước,
và Thủy Chân Lạp nữa phần nước phía Nam ; đúng ra có lẽ nên gọi là Thượng
- Upper và Hạ - Lower Chân Lạp. Vào cuối thế kỷ , Thủy Chân Lạp trở thành
chư hầu của thời đại Sailendra - Java . Vua cuối cùng Chân Lạp
bị giết chết và đất nước nhập vào vương quốc Java, khoảng năm
790 sau CN . Còn Lục Chân Lạp lại thành quốc gia độc lập
thời JayaVarman II, năm 802 sau CN .
Nước Chân Lạp từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13, là lúc nền văn minh Khmer đã phát triển rực rỡ nhất ở đây. |
Đế quốc Khmer ( 802- 1431 )
Dân Khmers , chư hầu của Phù Nam đến
sông Mekong từ phía Bắc sông Menam qua trung gian thung lũng sông
Mun. Chân Lạp là một quốc gia độc lập đầu tiên của
dân Khmers , dựng lên trên đất nước Phù Nam . Các ghi chép
xưa cổ của Tàu nhắc tới hai vị, vua Shrutavarman và
Shreshthavarman ngự trị ở thủ đô Shreshthapura ,
nằm ở Nam Lào cận đại ngày nay. Ảnh hưởng to lớn
về cá tính của Căm Bốt sắp tới là do Vương Quốc
Khmer Bhavapura dệt ra , từ thị trấn Căm Bốt cận đại là
Kampong Thom . Di sản này có được là nhờ vua quan trọng nhất Ishanavarman
đã chiếm tòan thể vương quốc Phù Nam , các năm từ 612 đến 628
. Vua đã chọn thủ đô mới là Sambor Prei Kuk , gọi tên
nó là Ishanapura. Nhắc lại là vào thời nhà Lương
nhân dân Giao châu-Việt Nam bị Tàu đô hộ có Triệu Quang Phục quật
khởi phá quân Lương và Lý Phật Tử xưng đế , dưng nên triều Tiền Lý,
độc lập hơn 60 năm. Bị
danh tướng nhà Tùy là Lưu Phương đánh phá, vua Lâm Ấp ( tiền thân của Chiêm
Thành ) là Phạm Chí dâng biểu xin triều cống, đến năm749 , Phạm Đầu
Lê nối ngôi vẫn giữ triều cống nhà Đường. Năm 749 , vua
Lâm Ấp đổi quốc hiệu thành Hòan Vương Quốc . năm 808 đô hộ
Trương Châu nhà Đường đánh phá Hòan vương quốc , vua Hòan vuơng
phải lui về Quảng Nam - Quảng Ngãi bây gìờ và đổi quốc hiệu là Chiêm
Thành- Champa .
Đế quốc Khmer vào thời điểm cực thịnh năm 900 (
Đỏ: Đế quốc Khmer,
|
Đế
quốc Khmer được thiết lập vào đầu thế kỷ thứ 9 ( 802 ) đến thế kỷ thứ 15
(1431). Trong sáu thế kỹ, Đế quốc Khmer có đặc
điểm là các công trình tiến bộ kỷ thuật - nghệ thuật ít
ai sánh ngang được , cùng toàn vẹn chánh trị ổn định
hành chánh. Đế quốc tiêu biểu cho tuyệt đỉnh văn hóa
và kỷ thuật nền văn minh tiền công nghệ hóa của Căm Bốt và
Đông Nam Á . Như đã nói trên, trước Đế quốc Khmer là Chân
Lạp -Chenla, một thể chế có các trung tâm quyền lực chánh trị
thay đổi , và biến thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp vào đầu thế
kỷ thứ 8 . Cuối thế kỷ thứ 8 , Thủy Chân Lạp bị dân Mã Lai -
Malays Đế quốc Srivijaya và dân Java của Đế
quốc Shailandra thu nhập, rồi lại bị hội nhập vào Java và
Srivijaya. Jayavarnam II, ngự trị Lục Chân Lạp , khởi
sự một lễ hội tôn phong huyền thọai Ấn Độ -
Hindu ở Núi Kulen ( Mount Mahendra) vào năm 802
sau CN, mục đích tuyên bố tự trị chánh trị và lên ngôi hợp
pháp . Khi ông tự tuyên bố là thiên vương , vua trời - god king,
trời bổ nhiệm không ai chối cải được; đồng thời ông cũng
tuyên bố nước nhà độc lập, tách rời khỏi Shailandra và
Srivijaya . Ông thiết lập thủ đô Hariharalaya ,thủ đô đầu tiên vùng
Angkor, gần thành phố Roluos ngày nay. Các vua kế tiếp
Jayavarman II, tiếp tục cư ngụ phía Bắc Hồ Tonle Sap. Trung tâm dân cư được
đô thị hóa rộng rải , nằm trên một mạng hệ thống hồ dự trữ và kênh
mương , xung quanh các cơ cấu dinh thự tôn giáo trung
ương. Các năm 877- 889, Indravarman I và con là Yasovarman
I các năm 889 - 900, vua thiết lập kinh thành Yasodharapura ra lệnh
xây dựng những hồ nước đồ sộ - barays phía Bắc kinh thành . Quản trị mạng
lưới nước tùy thuộc vào những hình dung phức tạp kênh, hồ,
ao và đê đường dùng một số lượng khổng lồ cát pha sét ,
vật liệu xây cất có nhiều ở đồng bằng Angkor . Đê của hồ lớn
Baray phía Đông - East Baray còn hiện diện đến nay , dài trên 7 km (
4 dặm Anh ) và rộng đến 1.8 km ( 1 dặm Anh ) . Thành phần lớn nhất
là Baray Tây - West Baray , một dự trữ dài 8km ( 5 dặm Anh )
và bề ngang là 2km ( 1 dặm Anh ) , chứa khỏang 50 triệu m3
nước . Vương quyền căn cứ trên ý niệm tôn giáo nước Ắn Độ
Shivaite Hindu state và thờ phụng vua trung ương, xem như
là một chiến vương -warlord và nhà bảo vệ- the
varman . Hệ thống cai trị trung ương bổ nhiệm các công
chức các tỉnh. Thời đại Mahidharapura mà Jayavarman VI
là vị vua đầu tiên trị vì từ năm 1080 đến năm 1107, phát sinh phía Tây
rặng núi Đăngrêk thung lũng sông Mun, làm gián đọan “ chánh sách
lễ nghi - ritual policy” các truyền thống phổ hệ và chủ yếu
là Ấn độ giáo-Hinduism , không còn xem là tôn giáo độc nhất quốc
gia nữa. Vài nhà sử học liên kết suy thoái Đế Quốc Khmer với những
gián đọan tôn giáo này .
Vùng
bao gồm các thủ đô lan rộng khỏang 1 000 km2 ( 386 dặm Anh
vuông ) ở nơi nay mệnh danh là Angkor. Phối hợp nông nghiệp
lúa nước phức tạp căn cứ trên hệ thống tưới tiêu công nghệ và phong
phú ngọan mực của Tonle Sap về cá và động vật nước,
như thể một nguồn protêin dồi dào, bảo đảm một thặng dư thực
phẩm thường xuyên. Những khảo sát địa lý mới đây, đã xác nhận
là Angkor duy trì một ph ức tạp định cư rộng lớn thế
giới, lớn nhất thời tiền công nghệ hóa các thế kỷ thứ 12 và 13, có
chừng 750 000 dân sinh sống. Nhưng đám đông công nhân
công cộng được tái phân phối đến xây cất các công trình và duy trì
hạ tầng cơ sở .Một số lớn các nhà khảo cứu liên hệ các khai thác
dần dần quá mức hệ thống kinh tế địa phương và các tài
nguyên, song song phá với phá rừng kích thước đại trà mà
thành quả là xói mòn to lớn , đưa tới Đế quốc suy vong. Dưới thời
vua Surayavarman II ( 1113- 1150 ), Đế Quốc Khmer
đạt lảnh thổ địa lý rộng nhất nhờ kiểm sóat trực
tiếp hay gián tiếp Đông Dương , Vịnh Thái Lan và những vùng rộng lớn biển
phía Bắc Đông Nam Á . Suryavarman II ủy nhiệm làm
điện thờ Angkor Wat , thiết lập xong sau 37 năm, 5 tháp biểu hiện
Núi- Mount Meru được xem là tiêu biểu nhất cho kiến trúc Khmer cổ
điển. Tuy nhiên bành trướng lảnh thổ chấm dứt , khi Suryavarman bị
giết chết trong cuộc chiến tranh cố xâm chiếm Đại Việt. Tiếp
theo là một dịch chuyễn trị vì và bị Chàm xâm lăng, tột đỉnh
là vụ cướp đọat Angkor năm 1177. Vua Jayavarman VII , trị vì từ
năm 1181 đến 1219 thường được xem là vua uy thế nhất
Căm Bốt. Vua là một nhà Phật giáo đại thừa - Mahayana buddhist ,
khởi sự triều vua bằng cách đánh trả và thắng Chiêm
Thành- Champa . Trong gần 40 năm trị vì, vua trở thành
một nhà xây cất dinh thự phong phú nhất, làm ra thành phố Angkor Thom với
điện thờ trung ương là Bayon . Công trình ông làm gồm có : Banteay
Kdei, Ta Prohom, Neak Pean và Sra Srang . Việc
xây dựng một số dự án và kiến trúc vị lợi và
tăng lữ thế tục , cũng như duy trì mạng lưới đường xá
mở mang thời Suryavarman I , đặc biệt là vuơng lộ
đến Phimai và nhiều dinh thự nghĩ dưỡng , cầu cống và bệnh viện
khiến cho Jayavarman VII được xem là độc đáo trong các
nhà vua trị vì.
Tháng
8 năm 1296,nhà ngọai giao Châu Đại Quan - Zhou Daguan đến
Angkor và ở lại triều cung vua Srindravarman mãi đến tháng 7 năm
1297. Ông viết một bản báo cáo về đời sống Angkor. . Mô tả của ông
là những nguồn hiểu biết quan trọng về lịch sử Angkor vì bản
văn cống hiến những thông tin giá trị đời sống hằng ngày
và các thói quen của dân Angkor . Khắc ghi chữ Phạn- Sanskrit cuối
cùng năm 1327, ghi chép người nối ngôi Indrajayavarman là Jayavarman
IX Parameshwara ( 1327 - 1336).
Đền thờ Angkor Wat là một trong những di sản của đế quốc Khmer. Ảnh: wikipedia.org. |
Đế
quốc Khmer là một nước nông nghiệp gồm 3 giai cấp xã hội : thượng lưu,
lao động và nô lệ. Thượng lưu gồm các cố vấn, các lảnh tụ
quân sự , các triều thần,các tăng lữ , các nhà khổ hạnh tôn giáo và chức
quyền. Lao động gồm mọi nhân công ngành nông và một loạt
nghệ nhân cho các dự án xây cất . Nô lệ là người bị bắt ở các
cuộc chiến dịch quân sự hay ở các làng xa xôi hẻo lánh . Không có tiền
đúc và kinh tế trao đổi căn cứ trên các sản phẩm nông nghiệp,
chánh yếu là lúa gạo và trao đổi hàng hóa địa phương không đáng kể ở nền
kinh tế quốc gia .
Thời đại đen tối Căm Bốt ( 1431 - 1863 )
Thời
đại Đen tối Căm Bốt ( 1431 - 1863 ) , còn gọi là Thời kỳ Trung
đẳng - Middle Period kéo dài hơn 400 năm, nói tới thời kỳ
lịch sử từ đầu thế kỷ thứ 15 đến năm 1863 , khi Pháp
bảo hộ Căm Bốt. Các nguồn thông tin đáng tin vậy,
đặc biệt cho 2 thế kỷ thứ 15 và 16 rất hiếm có. Một
giải thích quyết định liên quan đến các sự cố cụ thể rành rành về suy
thóai Đế Quốc Khmer chưa bao giờ xuất bản cả . Tuy nhiên, đa
số các nhà sử học cận đại nhất trí là nhiều thay đổi khác
biệt và dần dà tôn giáo , triều đại tính cách quân sự
và hành chánh, các vấn đề môi trường và mất cân bằng sinh thái, trùng
nhập những thay đổi quyền uy ở Đông Dương và phải được
liệt kê đầy đủ hầu đem tới giải thích . Những năm gần đây
tụ điểm hướng đáng kể về những nghiên cứu trên thay đổi
khí hậu, tương tác môi trường - con người và những hậu quả
sinh thái học. Chữ khắc trên đền đài chấm dứt vào thập niên thứ 3
thế kỷ thứ 14 , không tái diễn mãi cho đến giữa thế kỷ thứ 16.
Ghi chép của ảnh niên đại hòang gia đứt quảng với vua
Jayavarman IX Parameshwara ( hay Jayavarman -Paramesvara )
và ở đây không còn có một ghi chép hiện thời nào, ngay cả một
danh tánh vua trên 200 năm trời . Xây cất kiến trúc các đền đài vĩ
đại đã ngừng yên, sau đời vua Jayavarman VII . Theo tác
giả Michael Vickery chỉ còn hiện diện nguồn ngoại cho Căm Bốt
thế kỷ thứ 15 là các sử liệu Tây Lỗ (? ) - Shilu
đời nhà Minh bên Tàu và Biên niên hòang gia - Royal
Chronicle sớm nhất của Ayutthaya , Thái Lan . Vương Tây Trịnh (? )
- Wang Shi zhen , một học giả Tàu thế kỷ thứ 16 nhận xét : “ Các sử
gia chánh thức, không bị kiềm chế và khéo léo che đậy sự
thật, thế nhưng không thể gạt bỏ qua các đài kỷ niệm, các tượng
chúng ghi nhớ cùng các tài liệu chúng sao chép. Điểm tham khảo chánh
cho tòan thế kỷ thứ 15 là việc Xiêm La (Thái Lan ngày
nay ) can thiệp vài tính chất không nói ra ở kinh đô Yasodharapura (
Angkor Thom), vào năm 1431 . Sử gia liên hệ sự cố này với chuyễn
hướng của trung tâm chánh trị Căm Bốt đến vùng Phnom Penh,
Long Việt - Longvek và sau đó đến U Đông - Oudong.
Khi Xiêm La trở thành kình địch chánh của Căm Bốt ,sau khi mất Angkor ,
thì mô hình chủ quyền trái ngược nhau, Đế Quốc Khmer thử nghiệm tốt
đẹp lâu dài tại biên cương mình phía Tây, cũng chấm dứt. Các nguồn cho thế
kỷ thứ 16 lại nhiều hơn. Vương quốc lúc này, lấy sông
Mê Kông làm trung tâm, trở nên phồn thịnh trong khung cảnh thành
phần tòan vẹn mạng lưới giao thương đường biển, nơi tiếp xúc đầu tiên
với các nhà thám hiểm và các tay tứ chiến giang hồ Âu Châu.
Chiến tranh với Xiêm La thành quả là mất đất đai lảnh thổ rồi thủ
đô Lô Việt - Longvek, Lovek cũng bị chiếm đóng năm 1594 . Dân Việt Nam
trong công cuộc “ Nam Tiến” đặt chân đến Prei Nokor- Sài Gòn ở Châu
thổ sông Mê Kông vào thế kỷ thứ 17 . Sự cố này đánh dấu
tiến trình chầm chậm là Căm Bốt mất đường ra biển và giao
thương biển độc lập. Xiêm La và Việt Nam ngự trị tăng cường thêm trong
hai thế kỷ thứ 17 và 18 , kết quả là quyền uy của quốc vương Khmer
giảm dần trở thành một quốc gia chư hầu . Đầu thế kỷ thứ 19 , lúc
các triều đại Việt Nam và Xiêm La cũng cố thêm lên, Căm Bốt bị đặt
dưới hai chủ quyền cai trị , sau khi mất hết chủ quyền quốc gia
mình. John Crawfurd, người Anh tuyên bố : “ … Vua của Vương Quốc cũ
sẳn sàng hạ mình chịu sự bảo hộ của bất cứ một nước Âu Châu
nào …” Để cứu vớt Căm Bốt khỏi bị nhập vào Việt Nam và Xiêm La ,
Vua Ang Duong chịu nhận sự bảo hộ của Pháp thuộc địa. Bảo
hộ này khỏi sự, khi Vua Norodom Prohmbarirak ký kết chánh thức công
nhận Pháp Bảo Hộ, ngày 11 tháng 8 năm 1863 .
Thời kỳ Pháp thuộc địa ( 1863 - 1953 )
Năm 1863 ,
Vua Norodom ký một thỏa hiệp với Pháp thiết lập nền bảo
hộ trên khắp vương quốc . Quốc gia dần dần chịu Pháp thuộc địa
cai trị. Vào Thế Chiến Thứ Hai, Chiến cuộc Pháp - Thái
năm 1940- 41, khiến uy quyền thuộc địa Đông Pháp yếu kém hẳn đi .
Chánh phủ Vichy- Pháp Quốc xã ký một thỏa hiệp với Nhật bổn,
chịu để cho Quân đội Nhật di dịch suốt Đông Pháp . Trong lúc đó
,Chánh phủ Thái Lan dưới sự lảnh đạo của Thống Chế Plaek
Phibunsongkhram thân Nhật, lợi dụng ưu thế này , xâm chiếm các tỉnh
miền Tây Căm Bốt. Tình trạng Căm Bốt khi Thế Chiến chấm dứt rất là
hổn lọan. Pháp Tự Do - Free French , dưới sự điều khiển của
tuớng Charles de Gaulle, cương quyết tái chiếm Đông Pháp, tuy rằng
họ cống hiến cho Căm Bốt và các xứ Đông Pháp khác họ bảo hộ
một nền tự trị họ bao vây chặc chẻ . Tin tưởng vào “ sứ mệnh văn
minh hóa - civilizing mission” , họ hình dung Đông Pháp tham gia vào
“ Một Liên Hiệp Pháp - French Union, Union Francaise các cựu
thuộc địa- bảo hộ, chia sẽ một kinh nghiệm chung văn hóa Pháp.
Chánh Quyền Sihanouk ( 1953 - 70 )
Ngày
9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp và trong thời kỳ Nhật chiếm Căm Bốt,
Vua trẻ tuổi Norodom Sihanouk tuyên bố Vương Quốc độc lập Kampuchea , sau
khi Nhật yêu cầu chánh thức. Ngay sau đó, chánh phủ Nhật phê chuẩn
trên danh nghĩa nền độc lập của Căm Bốt và thiết lập một tòa lảnh sự ở
Phnom Penh. Chánh phủ mới bỏ ngay việc la mã hóa
ngôn ngữ Khmer mà chánh quyền thuộc địa Pháp đã bắt đầu thực
thi và chánh thức tái lập chữ viết Khmer. Biện pháp chánh phủ ngắn thời
thiết lập lại rất được ưa thích và trở thành lâu đời ,vì kể
từ đó không một chánh phủ nào lại cố gắng la mã hóa chữ viết Khmer nữa.
Sau khi các đơn vị quân sự Đồng Minh vào Căm Bốt , lực lượng quân
sự Nhật bị giải giáp và đưa về lại Nhật. Pháp đã đủ khả năng tái lập nền
cai trị thuộc địa ở Phnom Penh tháng 10 cùng năm . Vận động lớn cho
độc lập của Sihanouk được Pháp miễn cưỡng chấp nhận trao trả chủ quyền
cho Căm Bốt . Một thỏa hiệp bán phần được ký kết tháng10 năm 1953.
Rồi Sihanouk tuyên bố là đã hoàn tất độc lập và huy hòang
trở về Phnom Penh. Thành quả của Hội nghị Giơ neo- Genève
Conference là Căm Bốt đã đòi được quân đội Việt Minh rút khỏi lảnh thổ
và chống trả lại mọi vi phạm còn sót lại trên chủ quyền Căm
Bốt của các nước ngọai bang. Trung lập là yếu tố chánh của chánh sách ngọai
giao Căm Bốt các thập niên 1950 và 1960. Giữa thập niên
1960, một phần các tỉnh phía Đông Căm Bốt, được sử dụng làm căn cứ
cho quân đội Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( NVA/NLF )
họat động đánh Miền Nam Việt Nam, và hải cảng Sihanoukville
dùng để tiếp tế cho các lực lượng này .
Khi các họat động
NVA/VC tăng thêm, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam lo ngại và năm 1969 , Hoa kỳ bắt
đầu một lọat thả bom đột kích kéo dài 14 tháng nhắm các yếu
tố NVA/VC , góp phần làm Cam Bốt bất ổn . Chiến dịch thả bom không xa quá
10 dặm Anh rồi sau đó không xa qúa 20 dặm Anh ( 32 Km ) bên kia
biên giới Việt Miên, nơi dân chúng Căm Bốt đã bị quân đội Bắc Viêt
đuổi đi. Hòang thân Sihanouk lo sợ chiến cuộc giữa Cọng Sản Bắc Viêt và
miền Nam Việt Nam tràn qua Căm Bốt, nên công khai chống đối ý kiến chiến
dịch thả bom đột kích của Hoa Kỳ dọc theo biên giới Căm Bốt - Việt Nam và bên
trong lảnh thổ Căm Bốt . Tuy nhiên, Peter Rodman tuyên bố : Hoàng
thân Sihanouk than phiền đắng cay với Hoa Kỳ về các căn cứ
Bắc Việt trên lảnh thổ Căm Bốt và đón mời Hoa Kỳ oanh kích
chúng”. Tháng 12 năm 1967, Sihanouk nói với ký giả Stanley Karnow
của báo Washington Post là nếu Hoa Kỳ muốn thả bom các khu
trú ẩn Cọng sản Viêt Nam này, ông sẽ không phản đối, trừ phi khi dân
chúng Căm Bốt bị giết chết. Thông điệp tương tự cũng được gửi tới Chester
Bowles phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Johnson, tháng giêng năm 1968. Cho
nên Hoa Kỳ không có một viện cớ nào để lật đổ Sihanouk. Tuy nhiên, hòang
thân Sihanouk muốn Hoa Kỳ và Nam Việt Nam, giữ tranh chấp Bắc - Nam
Việt Nam ra ngòai Căm Bốt, xa hẳn biên cương Căm Bốt ; cho
nên chỉ trích nặng nề Hoa Kỳ và chánh quyền Nam Việt Nam. Sihanouk phải
đối đầu chiến đấu nội bộ của mình, vì lý do Khmer Đỏ dang bừng dậy,
cũng không muốn dính dáng gì tới tranh chấp này cả. Sihanouk không cho
phép Hoa Kỳ sử dụng không phận và không cảng cho các mục đích quân sự.
Điều này làm Hoa Kỳ bối rối nhiều và góp phần vào cái nhìn Hoa Kỳ
liệt Sihanouk vào lọai những kẻ có thiện cảm với Bắc Việt và là cái
gai trước mắt . Nhưng các tài liệu giải mật cho thấy là vào
cuối tháng 3 năm1970, chánh quyền Nixon đã hy vọng là tăng trữ “ liên hệ
thân mật” với Sihanouk . Suốt thập niên 1960, chánh trị nội
địa Căm Bốt bị phân cực mạnh mẽ. Phe chống đối chánh phủ lớn
mạnh cùng giới trung lưu và dân phái tả, kể cả những
nhà lạnh tụ tốt nghiệp Paris như Son Sen, Ieng Sary và Salot Sar
( sau đó gọi là Pol Pot ) hướng dẫn một cuộc nổi dậy
dưới tên là Đảng Cọng Sản Kampuchea - CPK
bí mật. Sihanouk gọi những kẻ nội lọan này là “Khmer Đỏ - Khmer
Rouge, Red Khmer”. Nhưng năm 1966, bầu quốc hội lại nghiêng nặng về
phe hửu và tướng Lon Nol thành lập chánh phủ mới, kéo dài tới năm 1967. Các năm
1968 và 1969, nội lọan trầm trọng thêm. Tuy nhiên, nhân viên chánh phủ và
quân đội, bất mãn về kiểu cách cai trị và xa rời Hoa Kỳ của
Sihanouk , nhìn thấy một nguyên do để lật đổ Sihanouk .
Sihanouk và Tổng Thống Mỹ Ronald Reagan tại Tòa Bạch Ốc, 1988. |
Cộng Hòa Khmer và Chiến Tranh ( 1970 - 75 )
Đang viếng thăm Bắc Bình
năm 1970 , Sihanouk bị đảo chánh quân sự do thủ tướng Lon Nol và
hòang thân Sisowath Sirik Matak lãnh đạo vào sớm ngày 18 tháng 3 năm
1970. Dù Sihanouk viện dẫn,
không có chứng cớ hiển nhiên là đảo chánh do CIA Hoa Kỳ dự tóan. Ngày 12
tháng 3 năm 1970, Chánh sở CIA sở tại nói cho Washington là căn cứ
theo những thông tin từ Sirik Matak, em họ Sihanouk, thì “ quân đội Căm
Bốt đã sẳn sàng làm đảo chánh”. Lon Nol nắm chánh quyền sau đảo chánh
quân sự và ngay tức khắc đưa Căm Bốt liên minh với Hoa Kỳ.
Sơn Ngọc Thành , đối thủ của Pol Pot, tuyên bố ủng hộ chánh phủ
mới. Ngày 9 tháng 10, nền quân chủ Căm Bốt bị hủy bỏ và
Căm Bốt có danh xưng mới là Cộng Hòa Khmer . Chế độ mới , ngay tức khắc,
yêu cầu Cọng Sản Việt Nam rời khỏi Căm Bốt .
Hà Nội bác
bỏ yêu cầu của Cọng Hòa Khmer mới, không chịu rút lui quân đội NVA. Để
trả đủa, Hoa Kỳ chuyễn động cung cấp viện trợ vật chất cho
lực lượng quân đội chánh phủ mới , vừa chiến đấu với các quân nổi lọan
CPK , vừa chống các lực lượng NVA . Các lực lượng Bắc Việt và Việt
Cọng khổ công gìn giữ các khu trú ẩn và đường tiếp tế cho Bắc Việt
, tức tốc tung ra những tấn công vỏ trang đánh chánh phủ Khmer mới .
Bắc Việt mau lẹ chiếm phần lớn Miền Đông Căm Bốt , đến cách Phnom Penh
chỉ 24 km ( 15 dặm Anh ) . Bắc Việt chuyễn các đất đai mới chiếm cho cho
Khmer Đỏ. Vua cũ khẩn cầu các kẻ theo mình giúp sức lật
đổ chánh phủ , thúc đẩy khởi sự nội chiến . Tháng tư năm 1970 , Tổng thống
Nixon tuyên bố với công chúng Hoa Kỳ là Hoa Kỳ và lực lượng bộ binh Miền Nam
Việt Nam đã tiến vào Căm Bốt trong một chiến dịch nhằm phá phá tan
các vùng căn cứ NVA ở Căm Bốt. Thật ra Hoa Kỳ đã thả bom các vị trí
Bắc Việt và Việt Cọng ở Căm Bốt đã hơn 1 năm rồi . Dù Hoa Kỳ và các
lực lượng miền Nam bắt được hay phá hủy đựợc rất nhiều trang bị, chận đứng các
lực lượng NVA đã tỏ ra vô hiệu ; NVA vẫn né tránh được .
Lon Nol |
Nổi lọan Khmer Đỏ trong nước Căm Bốt tiếp tục gia tăng nhờ tiếp tế và hổ trợ quân sự của Bắc Việt . Pol Pot và Ieng Sary khẳng định chủ trì trên các nhà Cọng Sản Việt Nam huấn luyện, một số lớn bị thanh trừ. Cùng lúc, lực lượng Khmer Đỏ ( CPK ) trở nên mạnh hơn và độc lập hơn đối với các đở đầu Việt Nam. Đến năm 1973, CPK chiến đấu với các lực lượng chánh phủ không có hay rất ít có quân đội Bắc Việt hổ trợ va Khmer Đỏ đã kiểm sóat gần 60% lảnh thổ và 25 % dân số Căm Bốt. Chánh phủ làm 3 cố gắng không thành công đàm phán với quân nổi lọan , nhưng đến năm 1974 , CPK họat động công khai theo cấp sư đòan và vài lực lượng chiến đấu NVN đã tiến vào Miền Nam Việt Nam. Lon Nol chỉ còn kiểm sóat vài vị trí bé nhỏ quanh các thị trấn và các đường giao thông chánh. Hơn 2 triệu người tị nạn chiến tranh sinh sống ở Phnom Penh và các thị trấn khác. Vào ngày 1 tháng giêng 1975, quân đội Cọng Sản phóng ra một cuộc tấn công làm sụp đổ Cộng Hòa Khmer, sau 117 ngày đánh nhau khốc liệt nhất . Cùng lúc, những tấn công quanh thủ đô Phnom Penh cũng giữ tại chỗ các lực lượng Cộng Hòa, trong khi các đơn vị CPK tràn ngập các căn cứ hỏa lực kiểm sóat đường tiếp tế khẩn thiết hạ lưu sông Mê Kông . Không vận đạn dược và lúa gạo Hoa Kỳ tài trợ chấm dứt, khi Quốc Hội Hoa Kỳ từ chối viện trợ thêm cho Căm Bốt. Chánh phủ Lon Nol đầu hàng ngày 17 tháng tư năm 1975, 5 ngày sau khi phái bộ Hoa Kỳ tản cư khỏi Cam Bốt.
Liên hệ giữa thảm bom khối
lượng Hoa Kỳ thả trên Căm Bốt và sự tăng trưởng của Khmer Đỏ, theo
ngôn từ mộ binh và hổ trợ của dân chúng, đã là một đề tài đáng chú
ý cho các sử gia . Vài sử gia kể ra là sự can thiệp của Hoa Kỳ và chiến
dịch thả bom ( kéo dài 1965 - 1973) như thể là một thừa tố ý nghĩa,
đã đưa tới vụ nông dân Căm Bốt hổ trợ mỗi ngày mỗi tăng
cho Khmer Đỏ . Tuy nhiên David Chandler, nhà viết tiểu sử Pol Pot, biện
cứ là việc thả bom “ đã có ảnh hưởng dân Hoa Kỳ mong muốn , nghĩa
là phá vỡ vòng vây Phnom Penh” .Peter Rodman và Michael Lind cho rằng can thiệp
Hoa Kỳ đã cứu Căm Bốt khỏi sụp đổ các năm 1970 và năm 1973 .
Craig Etcheson đồng ý là “ không vững được “ khẳng định là can
thiệp Hoa Kỳ đã giúp cho Khmer Đỏ thành công , trong khi
Etcheson cũng công nhận là can thiêp này có thể
đóng một vai trò nhỏ tăng cường tuyễn mộ binh lính cho
dân nổi lọan. Còn William Shawcross viết là Hoa Kỳ dội bom và tiến
quân vào đất đai, đã làm cho Căm Bốt rối tung beng, một rối
lọan Sihanouk đã cố gắng nhiều năm né tránh. Việt Nam can
thiệp vào Căm Bốt , tung ra theo yêu cầu của Khmer Đỏ , thường
được xem là một thừa tố chánh cho sự thành công của Khmer Đỏ theo nhiều nhà sử
học Hoa Kỳ , kể cả Shawcross . Sau đó Việt Nam cũng công
nhận là đã đóng một “vai trò quyết định” cho Khmer Đỏ chiếm chánh
quyền . Còn Trung Quốc” võ trang và huấn luyện” Khmer Đỏ trong thời
kỳ nội chiến vẫn tiếp tục gíúp Khmer Đỏ nhiều năm tới .
Kampuchea Dân chủ ( thời đại Khmer Đỏ ) ( 1975 - 79 )
Pol Pot năm 1978 |
Những liên can xã hội và văn hóa của Chế độ Khmer Đỏ
Có tới 2 triệu người chết vì chế độ Khmer đỏ do Pol Pot lãnh đạo |
Hàng
ngàn người chết đói hay vì bệnh tật trong thời gian di tản và sau đó, nhiều
người này bị bắt buộc phải rdo Pol Pot lãnh đạo ời khỏi các thị trấn đến các làng mới
dựng lên, thiếu hẳn thực phẩm, dụng cụ nông nghiệp và săn sóc y tế .
Nhiều người quen sinh sống thành thị đã mất hết khéo léo cần thiết
sống sót trong môi trường nông thôn. Hàng ngàn người chết đói trước
mùa thu họach đầu tiên . Thiếu ăn và thiếu dinh dưỡng - gần mức chết đói
là chuyện thường xuyên những nắm đó . Phần lớn các nhà lảnh đạo
quân sự và dân sự chế độ cũ, không biết cách che dấu quá khứ bị hành hình
. Vài tộc dân ở Căm bốt , tỉ như tộc dân Chàm thống khổ đặc thù và
là mục tiêu ngược đãi hung bạo. Đến điểm vài nguồn quốc tế gọi là”
diệt tộc Chàm - Cham genocide” . Tòan thể cả gia đình và thị trấn
bị nhắm vào và bị tấn công, với mục đích là giảm bớt số lượng
đi và cuối cùng là đào thải họ. Đời sống ở “ Kampuchea Dân
Chủ “ rất khắc nghiệt và thô bạo . Ở nhiều vùng xứ sở,
dân gian bị lùa vào và xử tử vì nói tiếng ngọai quốc , đeo
kiếng ( kính ), sục sọi tìm thực phẩm và cả khi khóc người thân yêu quá
cố . Các doanh thương và thư lại cũ, bị săn bắt và bị giết chết
tòan gia . Khmers Đỏ sợ họ vẫn còn những tin tưởng để chống
đối chế độ . Một vài kẻ trung thành Khmers Đỏ cũng bị giết
chết, vì không tìm đủ số lượng “Chống đối cách mạng -
counter revolutionaries” để xử tử . Các khảo cứu
cận đại đã tìm ra 20 000 mồ chôn tập thể thời Khmers Đỏ khắp Căm Bốt .
Nhiều nghiên cứu ước lượng số người chết là giữa 740 000 và 3
000 000 , thường giữa 1,4 triệu và 2, 2 triệu và có lẽ phân nữa
chết chóc là do bị hành hình và phần còn lại là do chết đói và bệnh tật
. Dự Án Diêt dân Căm Bốt của Yale- Cambodian Genocide Project
do Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ tài trợ, ước lượng là khỏang 1.7
triệu người chết. R .J. M Rummel , một nhà phân tích lịch sử chánh
trị chết chóc hình dung là 2 triệu . Điều tra Liên Hiệp Quốc
báo cáo 2-3 triệu khi UNICEF - Cơ Quan Nhi Đồng Quốc
Tế ước lượng là 3 triệu. Sau 5 năm khảo cứu các mồ chôn
tập thể, nhà khảo cứu Craig Etcheson của Trung tâm Tài liệu Căm Bốt
, cho biết các mồ chứa thi thể còn sót của 1 386 734 người .
Việt Nam chiếm đóng PRK ( 1979 - 1993 )
Ngày
10 tháng giêng năm 1979, sau khi quân đội Việt Nam và KUFNS xâm
chiếm Căm Bốt, Cộng Hòa Nhân Dân Kampuchea- PRK mới
được thành lập , Heng Samrin làm Chủ tịch Nước . Lực lượng
Khmer Đỏ của Pol Pot rút lui mau lẹ về biên giới Thái Lan . Khmer Đỏ và
PRK đánh nhau tốn kém và rơi vào tay của các cường quốc to
lớn là Trung Quốc , Hoa Kỳ và Nga Sô . Nội chiến được áp
đặt lên trên Căm Bốt nghèo khổ , di dời 600 000 dân Căm
Bốt vào các trại tị nạn, dọc theo biên giới giữa
TháiLan và Căm Bốt . Chế độ mới sát hại hàng chục ngàn dân gian. Các cố
gắng tái lập hòa bình bắt đầu ở Paris năm 1989, dưới
tên Quốc Gia Căm Bốt , sau hai năm đàm phán cuối cùng, vào
tháng 10 năm 1991, làm ra một thỏa hiệp hòa bình bao hàm phạm
vi rộng lớn . Liên Hiệp Quốc được ủy nhiệm thực thi một lệnh
ngưng bắn, giải quyết tị nạn và giải giáp tên gọi là Chức
Quyền Liên Hiệp Quốc Chuyễn Tiếp- United Nations Transitional
Authority, UNTAC ở Căm Bốt.
Căm Bốt Cận Đại ( 1993 đến nay )
Ngày 23 tháng 10 năm 1991, Hội Nghị
Paris tái nhóm để ký kết một thỏa ước toàn diện cho phép
Liên Hiệp Quốc tòan quyền hành động giám sát ngưng bắn,
hồi hương các dân Khmer bị di dời dọc theo biên giới Thái Lan
giải giáp , giải ngủ các nhóm quân đội phân tranh và
sửa soạn những bầu cử tự do cho Căm Bốt. Hòang thân Sihanouk, Chủ
tịch Ủy Ban Tối cao Quốc gia Căm Bốt - SNC và
các thành viên khác của SNC trở về Phnom Penh tháng 11 năm
1991 , khởi sự tiến trình thỏa ước ở Căm Bốt. Sứ mệnh Tiến
trước của Liên Hiệp Quốc -UN Advance Mission cho Căm Bốt được dàn
trải cùng lúc, để duy trì liên lạc giữa các nhóm và bắt đầu các họat động
gở mìn, hầu hồi hương mau lẹ khỏang 370 000 dân Căm Bốt từ Thái Lan.
Ngày 16 tháng 3 năm 1992, UNTAC đến Căm Bốt để thực thi Kế
Họăch Thỏa Ước Liên Hiệp Quốc. Trưởng Ban Tị nạn Liên
Hiệp Quốc bắt đầu hồi hương tòan thể quy mô tháng 3 năm 1992
. UNTAC có một lực lượng dân sự và quân sự 22 000 người để
thi hành tư do và đứng đắn, tổ chức bầu một Quốc Hội Lập Pháp -
Constituent Assembly.
Trên
4 triệu dân Căm Bốt ( 90 % dân đủ tư cách đi bầu ) tham gia
các bầu cử tháng 5 năm 1995, dù rằng các lực lượng Khmer Đỏ hay
đảng PDK không bao giờ giải giáp hay giải ngũ cả, đã cấm đóan vài nơi không cho dân gian tham
dự. Hòang thân Ranariddh thuộc đảng hòang gia FUNCINPEC nhận
số phiếu cao nhất 45.5 % tổng số ; theo sau là Đảng Nhân Dân Căm
Bốt -Cambodiáns People Party và kế tiếp là Đảng Phật
Gíáo Dân chủ Tự Do - Buddhist Liberal Democratic Party . Rồi
FUNCINPEC thỏa hiệp cùng các đảng khác đã tham dự bầu cử có đại diện ở
Quốc Hội 120 nghị viên này, khởi sự thảo ra và chấp thuận
một hiến pháp mới công bố ngày 24 tháng 9 năm1993 .
Hiến pháp thiết lập một nền dân chủ tự do đa đảng trong khung
cảnh một chế độ quân chủ - monarchy. Ranariddh và Hun
Sen trở thành Đệ Nhất và Đệ Nhị Thủ tướng - First
and Second Prime Ministers trong Chánh phủ Hòang Gia
Căm Bốt - Royal Cambodian Government , RGC. Hiến Pháp cũng qui
định một lọat rộng rải nhân quyền quốc tế công nhận.
Ngày 4
tháng 10 năm 2004 . Quốc Hội Căm Bốt chuẩn y một thỏa hiệp với Liên
Hiệp Quốc thiết lập một tóa án xét xử các lhảnh đạo cao cấp có trách
nhiệm làm những tàn bạo của Khmers Đỏ . Các quốc gia tặng dữ cam kết
trả 43 triệu đô la Mỳ phần quốc tế cho ngân sách tổng cọng
3 năm, trong khi Chánh phủ Căm Bốt chịu trả 13.3 triệu đô la. Tòa
án bắt đầu xét xử các lảnh tụ Khmers Đỏ năm 2008. Căm Bốt cũng bắt đầu
phục hồi đất nước nhờ gở mìn cả hai Khmers Đỏ và Việt Nam đã sử dụng
nhiều; phải cần khỏang 10 năm mới gở phần lớn mìn gài trong lảnh thổ Căm
Bốt .
Quân chủ - Monarchy
Căm
Bốt là một nền quân chủ lập hiến - constitutional monarchy , có
nghĩa là Quân Vương ,Vua - the King ngự trị - reign chứ không cai trị -
rule, tương tự Nữ Hòang Elisabeth II của Vương Quốc Anh. Vua chánh
thức là Chủ tịch Nước và tượng trưng cho thống nhất và vĩnh
cữu - eternity của quốc gia. Từ 24 tháng 9 năm 1993 đến ngày 7
tháng 10 năm 2004 , Norodom Sihanouk ngự trị làm Vua , sau khi đã
nhận nhiều chức vụ khác ( kể cả Làm Vua ) từ năm 1941. Theo
hiến pháp , Vua không có quyền hành chánh trị , nhưng vì Norodom Sihanouk được
kính trọng trong nước , lời nói của ông có rất nhiều ảnh
hưởng trên chánh phủ. Chẳng hạn tháng hai năm 2004 , ông ra tuyên ngôn :
vì Căm Bốt là một nước “ Dân chủ Tự do - Liberal Democracy” cho
nên phải cho phép hôn nhân cùng giới tính - gay marriage. Tuy
những cái nhìn như vậy không mấy phổ biến ở Căm Bốt, ngôn từ của
ông được dân gian Căm Bốt tôn trọng. Sihanouk thường cáu giận vì những
tranh chấp trong chánh phủ ông; nhiều lần đe dọa thoái vị , nếu các
nhóm chánh trị không hợp tác được với nhau . Điều này tạo áp lực cho
chánh phủ phải giải quyết các khác biệt . Sau khi Norodom Sihanouk thóai vị năm 2004 , con
ông là Norodom Sihamoni kế vị . Vua về hưu rất đuợc tôn trong
trong xứ sở, vì đã dùng cả đời mình phụng sự Căm Bốt , còn tân vuơng thì
sống lâu ngày ở Pháp. Thế cho nên chưa biết rỏ là Norodom Sihamoni
có được tôn trọng như cha không ? Sihanouk chết ngày 15 tháng
10 năm 2014 ( ? )
Thủ
tướng Căm Bốt là đại diện cho đảng cai trị ở quốc hội - national assembly
. Ông hay Bà Thủ tướng do Vua Cam Bốt bổ nhiệm theo khuyến cáo của
Chủ tịch và hai Phó chủ tịch Quốc Hội. Muốn trở thành Thủ tướng, Ông Hay
Bà phải được Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm , trước tiên. Thủ tướng
đứng đầu Chánh phủ Căm Bốt . Trước khi nhậm chức, ông hay Bà
phải thành lập Nội các- Hội đồng tổng -bộ trưởng chịu trách
nhiệm với Thủ tướng . Thủ tướng và Chánh phủ là cơ quan hành chánh
Căm Bốt. Thủ tướng hiện tại là Hun Sen , thành viên của Đảng Nhân Dân
Căm Bốt - CPP. Hun Sen đã đảm nhiệm chức vụ này
kể từ cuộc bầu cử bị chỉ trích năm 1998 , một năm sau khi CPP
đảo chánh đẩm máu ở Phnom Penh, lật đổ Thủ tướng bầu cử lên là hoàng thân
Norodom Ranariddh , chủ tịch đảng FUNCINPEC . Hun Sen thề rằng mình
sẽ cai trị cho đến năm 74 tuổi . Hun Sen là môt cựu thành
viên Khmer Đỏ bỏ chạy và đã giám sát Căm Bốt tái phục hồi ra
khỏi tro tàn chiến tranh . Chánh phủ ông thường xuyên bị tố cáo là
bỏ quên nhân quyền và đàn áp đối lập . Sau thành quả bầu cử
năm 2013 , phe đối lập tranh cải , 20 000 dân biểu tình phản đối ,
nhiều người bị thương tích và bị giết chết ở thủ đô Phnom
Penh khi họ g đột với cảnh sát. Cuộc bầu cử quốc hội ngày 28 tháng
7 năm 2013 đem đảng
Nhân Dân Căm Bốt của Hun Sen về nhất , chiếm 48.83 % tổng số
dân đi bầu và 68 ghế, hơn phân nữa số 123 ghế Quốc Hội. Đảng về nhì là
đảng Cứu Quốc Căm Bốt - Cambodian National Rescue Party , CNRP
của chủ tịch là Sam Rainsy chiếm 44.46 % số phiếu
và 55 ghế và đảng FUNCINPEC, chủ tịch đảng nguyên là Đệ Nhất Thủ tướng Norodom Ranariddh chỉ
còn chiếm 3.66 % tổng số phiếu và không có ghế nào . Xuất thân là một nông dân
tầm thường , Hun Sen bắt đầu nắm chính quyền năm 1985, khi mới
33 tuổi và ông thề thốt là sẽ cai trị Căm Bốt đến năm 74 tuổi
, năm 2026 ( ? ), lâu dài không kém chi mấy Robert Mugabe của nước
Zimbabwe và Nursultan Nazarbayev của nước Kazakhstan!
Sơ lược về phát triển Căm Bốt ngày nay
Chiến Lược
Tính đến tháng 4 năm 2015 , Căm Bốt tiếp
tục tăng trưởng vạm vỡ dù đà tiến tiến triễn chậm đi. Mức tăng
trưởng ăm 2014 ước lượng đạt 7% . Khu vực quần áo , cùng các khu
vực xây cất và dịch vụ, đặc
biệt là tài chánh và bất động sản, vẫn thúc đẩy tăng trưởng . Tuy nhiên,
dự tính các năm 2015 và 2016 cho
phát triễn kinh tế chỉ còn 6.9 %, vì phải chạm trán cạnh
tranh mạnh mẽ hơn về xuất khẩu quần áo , nông nghiệp vẫn tăng
trưởng yếu kém và khu vực du lịch tăng nhẹ nhàng hơn.
Một kỹ sư cơ khí sử dụng điện thoại thông minh khởi động chiếc xe hơi điện "Angkor EV 2014" do Campuchia sản xuất, ảnh chụp 14 tháng 2 năm 2014 tại Kandal, Campuchia. |
Nghèo khổ
tiếp tục giảm đi ở Căm Bốt, dù bước tiến đã suy sụp đáng kể.
Tỉ xuất nghèo khổ là17.7 % năm 2012, gần 3 triệu người nghèo
trong số trên hơn 8.1 triệu người xếp hạng gần mức nghèo khổ . Gần
90% con số này sống ở vùng quê, nông thôn. Ngân Hàng Thế Giới-
World Bank ước lượng gợi ý là Căm Bốt đã hòan tất Mục
tiêu Phát triễn Thiên Niên -the Millenium Development Goal,
MDG , giảm đi phân nữa nghèo khổ năm 2009. Tuy nhiên, đa số
rộng rải các gia đình thóat khỏi nghèo khổ, không cách xa bao nhiêu mức
nghèo khổ cả.
Phát triển nhân
sinh- con người , đặc biệt ở lảnh vực y tế và giáo dục, vẫn là một
ưu tiên phát triễn quan trọng cho Căm Bốt . Khoảng 42 % trẻ em dưới
5 tuổi thiếu dinh dưỡng và lùn tũn; và hơn phân nữa dân Căm Bốt
không vào được cầu tiêu và không có các điều kiện vệ sinh thích
nghi . Căm Bốt đã cố gắng cải thiện sức khỏe các bà mẹ , chăm sóc
trẻ em còn bé , và thực hiện các chương trình gíáo dục sơ cấp ở nông thôn
. Số em chết trên 100 000 bé sơ sinh giảm từ 427 năm 2005
xuống còn 170 năm 2014; tỉ xuất số em bé chết dưới 5 tuổi
giảm từ 124 cho 1000 em bé sơ sinh còn sống năm 1998 , xuống
chỉ còn 35 trên 1000 em năm 2014 và số nhập học
trường sơ cấp lãi thực - net tăng từ 81 % năm 2001 đến
94.3% năm 2012 . Căm Bốt cũng thành công nhiều ngăn ngừa và
chửa trị HIV/ AIDS ( tiếng Pháp là SIDA) . Năm 2011, gần 90 % các bệnh
nhân AIDS ở Căm Bốt đã vào các cơ sở chửa trị virus ngược
- antiretroviral treatment. Đây là một trong số tỉ xuất bao phủ
cao nhất thế giới chậm tiến,đang mở mang.
Căm
Bốt vẫn còn phải đối đầu một số thách thức phát triễn khác, gồm xử
lý hu_~u hiệu đất đai và tài nguyên thiên nhiên , vững bền môi sinh
và cai trị tốt đẹp - good governance. Tham nhũng và cung cấp dịch
vụ công cộng yếu kém, đã cản trở phát triễn tòan bộ . Thách thức
then chốt để tiến tới là kích thích các khu vực nông nghiệp và du
lịch, hầu một lần nữa trở thành các động cơ mạnh mẽ cho tăng
trưởng, hổ trợ cho giảm bớt nghèo khổ , cũng như để nới rộng và giữ
vững tăng trưởng ở ngành công nghệ chế tạo kể luôn cả quần áo
.
(Irvine
ngày 24 tháng 7 năm 2015 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét