Tiến bộ mau lẹ và hứa hẹn tương lai ngành công nghệ nhựa dẻo - plastics Việt Nam
G S Tôn
Thất Trình
Ngành công nghệ chất
nhựa dẻo – plastics khởi sự gần nữa
thế kỷ nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, sản xuất
còn rất giới hạn và bé nhỏ cách đây vài năm. Ngành công nghệ nhựa dẽo ở Việt Nam vẫn còn được xem là ấu
trĩ so với các quốc gia lân cận trong
vùng như Mã Lai Á, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc, theo lời Christopher W.
Runckel, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã phục vụ ở nhiều nước Á Châu, chủ tịch
thiết lập hảng Cố vấn Doanh Nghiệp Runkel & Associates tọa lạc tại thành phố
Portland, bang Oregon – Hoa Kỳ . Để so sánh, sản xuất plastics theo mỗi đầu
người ở Việt Nam năm 2005 là 25kgrs và
hy vọng sẽ đạt 40kgrs mỗi đầu người mỗi năm, năm 2010. Dù tăng mau lẹ, gần gấp đôi sau 5 năm,
con số sản xuất plastics mỗi đầu người năm 1999 ở Mã Lai Á đã là 49kgrs, 5 lần hơn Việt
Nam năm đó, chỉ mới đến 9.4 kgrs mỗi đầu
người. Năm 1999, sản xuất mỗi đầu người ở Singapore cũng 10 lần lớn hơn ; Thái
Lan 3 lần lớn hơn và Inđô nêxia hai lần
lớn hơnViệt Nam.
Năm 2010 , Việt
Nam có khoảng 2700 tổ hợp công ty
plastics, 80 % tổ hợp là công ty tư
nhân cở nhỏ hay trung bình. Chỉ 6% thuộc nhà nước- quốc doanh, nhưng
lại chiếm đến 20% tổng số tư bản đầu tư trong ngành. Các công ty quốc doanh có khuynh
hướng to lớn và dùng nhiều nhân công
hơn và cũng đầu tư tổng thể lớn hơn các hảng tư nhân nhỏ hay
trung bình cạnh tranh với quốc doanh. Số
14 % còn lại là các doanh nghiệp ngọai quốc , chiếm khỏang 30 % tổng số tư bản
đầu tư.
Dù rằng các công ty Việt Nam nhỏ hơn các công ty cạnh tranh ở Trung
Quốc, Thái Lan và Mã Lai Á, ngành plastics là một công nghệ Việt Nam đang tăng
trưởng, tỉ xuất tăng trưởng là 30% một năm trong những năm gần đây. Tăng trưởng
này giúp
cho plastics thành một xuất khẩu lớn của Việt Nam. Năm 2005, xuất
khẩu plastics đứng hàng thứ ba tăng xuất khẩu mau lẹ, sau than đá và gạo, dù
cho giá dầu lữa lên cao và các đầu vào khác
đã làm giá cả các nhựa – rêsins plastics nhảy vọt. Tăng trưởng
này đã được các công ty vùng Á Châu này tỉ như ở Mã Lai Á chú tâm, và phản ứng
lại bằng đầu tư sản xuất cho thị trường plastics mới. Chẳng
hạn các tổ hợp PolyTower Ventures Bh và Tong Guan Industries Berhad, cả hai
đều xây cất công xưởng ở Việt Nam sau đó,
hầu chiếm một phần thị trường địa phương
và thêm khả năng nhận đặt hàng từ Hiệp
Hội Âu Châu – EU hay Hoa Kỳ - USA .
Ngành công
nghệ Plastics ở Việt Nam tập trung quanh
Thành phố HCM- Sài Gòn và các tỉnh hay
thị trấn lân cận như Bình Dương, Đồng Nai- Biên Hòa, Long An và Bà Rịa -Vũng
Tàu; chiếm đến 80% tổng số đầu tư và chế
tạo 80% sản phẩm plastics. TP HCM cũng là trung tâm cung cấp sản xuất, hổ trợ dây chuyền cung
cấp, phát triễn kỷ thuật, phân phối và giao dịch quốc tế cho ngành công nghệ.
Bán dạo sản phẩm nhựa dẻo trên đường phố sài Gòn |
Ngành công nghệ
plastics quốc gia tuồng như sản xuất hầu
hết những gì thị trường nội địa tiêu
thụ và sản xuất hiện tại, có khuynh
hướng làm các sản phẩm nội địa và bao bì- gói hàng
nhắm xuất khẩu. Thị trường Việt Nam trong nước đang thay đổi và càng ngày yêu
cầu càng nhiều hơn về các sản phẩm
plastics cao kỷ. Trước năm 2004,
mọi sản phẩm plastics Việt Nam
đều chế tạo bàng các nhựa – rêsins chính hiệu. Từ đó, để chiều
theo yêu cầu tăng mạnh, chánh phủ đã cho phép nhập khẩu các mảnh vụn plastics
phế thải rẽ tiền hơn. Việt Nam là nước nhập khẩu các vật liệu plastics lớn hàng
thứ nhì Á Châu. Tuy vậy, sự kiện này đã trở thành vấn đề, khi giá cả vật liệu
plastics thô hào tăng cao mới đây.
Ngành công nghệ Plastics ở Việt
Nam cũng có khuynh hướng cường tính lao động cao- highly labor intensive. Một nghiên cứu năm 2004 tiết lộ rằng 70% lực
lượng lao động trong ngành không chuyên môn – chuyên nghiệp, 7 lần cao hơn trung bình phối hợp của những ngành khác. Đa số các công ty plastics nước nhà sử dụng từ 10 đến 50 người. Lương hàng tháng
trung bình chỉ đến 2 triệu đồng Việt Nam –VND, biến thiên nhiều tùy theo đó là
hảng ngọai quốc hay địa phương làm chủ và tùy vị trí cơ xưởng hảng.
Tình hình xuất khẩu sản phẩm nhựa tới thị trường Nhật Bản trong năm 2009, 2010
|
Ngành cũng đặc biệt thiếu tư bản và thiếu kỹ thuật. Phần lớn
thiết bị dùng cho các công ty plastics Việt Nam đã lỗi thời nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc ( Nam Hàn ) và Đài
Loan. Mọi thiết bị tư bản cho ngành thảy đều nhập khẩu. Đầu tư ước lượng là 2.5 – 3.0 tỉ $US
từ 2004
đến 2010. Ngành công nghệ plactics
Việt Nam tùy thuộc lớn vào nhập khẩu. Hiện nay ngành phải nhập khẩu mỗi năm chừng 1.5- 2 triệu tấn nguyên liệu một năm,
cọng thêm hàng trăm hóa chất phụ dùng
cho ngành. Nguyên liệu nội địa chi thỏa mãn
30 % yêu cầu trong xứ . Năm 2004, Việt Nam là nước nhập khẩu vật
liệu plastics đứng hàng thứ nhì Á Châu.
Chánh phủ Việt Nam đang cố gắng
đề xướng thay thê nhập khẩu bằng cách
tài trợ nhiều cơ sở sản xuất trong nước, nhưng chánh phủ tiên đóan
là Việt Nam vẫn phải nhập khẩu phân nữa
số nhựa nước nhà cần dùng, cho đến khi nào những cơ sở sản xuất này ở Việt Nam
hòan tất, từ nay đến năm 2010.
Cơ cấu Sản Phẩm nhựa xuất khẩu tới Nhật Bản 2010
(Tỷ trọng tính theo trị giá) |
Việt Nam
tùy thuộc nhập khẩu từ ngọai quốc polyethylene
( PE), polypropylene ( PP), polyvinyl chloride E ( PVCE) và polyvinyl styrene( PS ). Việt Nam ít tùy
thuộc nhập khẩu polypropylene hướng- oriented
B (BOPP), polyvinyl chloride S (
PVCS) và nhựa –rêsins dioctyl
phthalate ( DOP ) vì số lượng nhựa này tăng
thêm được sản xuất trong nước , nhưng nguồn cung cấp vẫn chưa đủ thỏa
mãn yêu cầu. Cuối năm 2008, nhà máy lọc
dầu Dung Quất – Quảng Ngãi đã bắt đầu cung cấp nguyên liệu cho nhà máy Bình Sơn
( ? ) – Quảng Ngãi sản xuất 150 000 tấn/năm
polyethylene -PE với kỷ thuật tân tiến Nhật bổn dự trù hòan tất năm 2010. Nhà máy polyvinyl
styrene –PS dung lượng 60 000t/năm cũng dự trù hòan tất các năm 2015- 2020 ?...
Các quốc
gia xuất khẩu chánh plastics đến Việt
Nam là Trung Quốc, Hàn Quốc ( Nam Hàn ), Nhật bổn và Đài Loan. Năm 2004, Việt
Nam đã nhập khẩu 1145 triệu tấn cả hai lọai
nguyên liệu và chế phẩm hòan tất. Trị giá
nhập khẩu plastics là 1426 triệu đô la
Mỹ, 4 lần hơn trị giá xuất khẩu là 350 triệu $US vào năm 2005. Năm 2004,Việt
Nam chỉ mới xuất khẩu 10% tổng sản xuất nước nhà, có nghĩa 90% sản xuất là để
cho yêu cầu trong nước. Các sản phẩm plastics Việt Nam bán ra qua nhiều nước: Căm Bốt, Lào, Ấn Độ, Sri
Lanka-Tích Lan, Nhật Bổn, Trung Quốc, Hiệp Hội
Âu Châu- EU, Đài Loan và Hoa Kỳ.
Các cơ hội
đầu tư hiện diện ở những lảnh vực gói
hàng –packaging, sản xuất máy móc plastics, sản xuất rêsins plastic, và các lảnh vực phụ tái chế biến phế thải plastics. Những nguồn
thông tin thêm tốt đẹp, ngòai
Runckel & Associates là Ban Thương mãi
tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, Hiệp hội Plastics Miền Nam Việt Nam (
VSPA), Hiệp hội Plastics Việt Nam (VPA) và Liên hiệp ASEAN các Công nghệ
Plastics (AFPI ). VSPA và VPA là hai tổ
chức lớn nhất của ngành công nghệ ở Việt Nam. VSPA có hơn 800 công ty hội viên. VPMA là một tổ chức không thuộc chánh phủ
gồm gần 500 công ty hội viên năm 2006.
AFPI là tổ chức vùng Á Châu lớn nhất cho
công nghệ plastics. Các hình đính kèm
sau này là đồ biểu tăng gia yêu cầu chế biến polymer ở Việt Nam
so sánh thời gian 1999- 2004 ( tính theo triệu tấn ) với các quốc gia khác
thuộc khối ASEAN. Cho thấy chế biến polymer ở Việt Nam tăng mau lẹ và đứng hạng 3, sau Thái Lan và
Inđônexia .
Phụ đính:
Cập nhật và Phát triển mới ở công nghệ Plastics Hoa Kỳ
Ly cà phê bằng Plastic |
Chiếu theo
John M. Rhodes, ngày 19 tháng
11 năm 2010, tiêu thụ hàng năm thế giới đã trên
550 tỉ cân Anh plastics năm 2009
– 2010 (? ) so với 350 tỉ năm 2000. Hoa Kỳ
sản xuất chừng 100 tỉ cân Anh
reins polymer mỗi năm, mức sản xuất có phần hơi giảm đi chút ít trong thời gian khủng hỏang kinh tế vừa
qua. Nhựa dẻo- plastics được biết
nhờ các đặc tính vật liệu về khuôn đúc – moldability, tỉ xuất cân lượng thuận tiện so với sức lực, kháng gặm mòn- corrosion và nước, cùng nhiều đặc tính khác . Plastics là vật
liệu phổ cập có ứng dụng chánh làm vật
liệu gói hàng - bao bì : như là các thành phần thiết bị chuyên chở, máy móc ,
các linh kiện y khoa các thiết bị đồ
dùng và điện tử , vật liệu xây cất, chất dính, phủ sơn phết bao bọc các cung
cấp y khoa cùng vô số ứng dụng khác. Sử
dụng plastics đã tiến xa kể từ khi chế
tạo điện thọai và các hộp rađiô bằng Bakelit đen chịu lữa. Chẳng hạn tách cà phê mới ở Hoa Kỳ nay có thể làm ra từ plastics căn bản là bắp – ngô.
Cuối năm
2010, ngành công nghệ này đã dùng
hơn 850 000 người ở Hoa Kỳ. Các
bang có nhiều công ăn việc làm ở ngành
công nghệ sản xuất nhựa rêsins plastics là Texas,
kế tiếp là Ohio, Michigan và
Illinois. Các bang dùng nhiều nhân công
nhất để chế tạo các sản phẩm liên quan đến plastics là California, Illinois,
Indiana, Michigan, Ohio, Pennsylvania và
Texas. Theo truyền thống, plastics được xếp theo 3 hạng sau đây : plastics nhiệt – thermoplastics, nhựa
phản ứng nóng – thermosetplastics và nhựa đàn hồi
- elastomers. Plastics nhiệt là lọai thông thường nhất, tương đối
mềm, có khả năng nung chảy lại nghĩa là tái sinh được. Đó là polyethylene, polypropylene, nylon và polystyrene dùng chế tạo bao gói hàng, dây thừng, cách nhiệt bọt nổi – foam insulation và nhiều sản
phẩm khác. Nhựa phản ứng nóng cứng rắn, không có thể nung chảy lại được gồm các
vật liệu căn bản epoxy, phenôlics,
polyurethanes và melamines. Các nhựa
đàn hồi đặc tính cơ bản là mềm dẻo gồm nhưng vật liệu như neoprene và silicones. Plastic còn xếp lọai theo hàng hóa –
commodities, plastics công nghê -
engineered hay plastics đặc thù – specialty. Plastics hàng hóa có tỉ xuất thể tích tiêu thụ cao, đặc tính
hiệu năng nguồn sản xuất tòan cầu và
cạnh tranh giới hạn. Plastics công nghệ
có khả năng hiệu năng cao, đòi hỏi quan tâm
đáng kể về thành phần và kiểm phẩm,
hầu có thành quả tối hảo, khiến chúng bẩm sinh ít được sản xuất hơn
nhưng cao giá hơn. Plastics đặc thù- đặc
biệt còn được ít sản xuất hơn nữa, có
ứng dụng hốc tường( đúng chỗ thích hợp mà thôi ).
Điển hình plastics gồm một nhựa căn bản,
chứa thêm những chất độn, chất trám- fillers, chất làm dẻo – plasticizers,
các sắc tố tăng cường màu sắc và những
chất cọng thêm- chất phụ thêm (phụ gia ) khác,
trộn theo tỉ lệ cân xứng theo một công
thức nào đó đã được định nghĩa tốt đẹp, để
đạt những kết quả đặc biệt.
Đã có hàng ngàn phối hợp
rêsin/chất phụ thêm được sử dùng chế tạo
những sản phẩm khác nhau và hiệu năng
cuối cùng của một vật liệu plastic nào
đó làm ra từ hóa học của rêsin căn bản
và tương tác của rêsin với các lọai và tỉ phân chất phụ thêm. Tìm kiếm
những đặc tính mới cho plastics không bao giờ ngưng và song song với
lợi ích trổi dậy của các
lọai plastics sinh thóai được
- biodegradable , tiềm năng tái sinh cao
hay chế tạo ra bằng các vật liệu
tái sinh được không phải là dầu
lữa. Thời đại plastics đang tiến theo những hướng hòan tòan khác biệt, được tóm
tắt sau đây :
Plastics đặt mầm trong tần số rađiô- Radio Frequency( RF) Embedded Plastics
Hệ thống RF chủ
yếu là một máy phát tín hiệu đặt nằm trong một
công cụ plastic, có thể làm ra nhiều hình dạng và dùng làm thẻ buộc lệ phí xa lộ, các băng
cỗ tay ở các công viên tiêu khiển, các phù hiệu xây dựng hệ thống an ninh, các
thẻ kiểm kê áo quần, xử lý sách thư viện, các dấu si côngtennơ chở hàng hóa, và
hệ thống theo dấu, theo dấu bệnh nhân bệnh viện, theo dấu trẻ em, một bảng liệt
kê vô hạn và tăng trưởng mau lẹ. Sản
xuất những ứng dụng đặc thù dài hạn nhanh chóng
trở thành một hàng hóa, nhưng việc phát triễn những ứng dụng mới sẽ tiếp tục là một họat động căn bản hiểu
biết – tri thức. Những sản xuất nhỏ bé các ứng dụng, có khi cao giá hay cao an ninh, có thể di cư đến
những nơi chi phí sản xuất thấp nhất.
Các composit nanô
Áp dụng kỷ thuật nanô vào ngành
plastics là cơ hội ảnh hưởng tới hiệu
năng của một rêsin đặc biệt và một dạng
chất phụ- cọng thêm, ở mức độ phân tử.
Lọai công nghệ chính xác này đã sản xuất ra vật liệu có những đặc tính
tỉ như tăng cường lớn lao nhiệt lượng,
sức kháng sứt mẽ và cào xước. Chúng còn có một tăng thêm ổn định theo chiều ,
độ dẫn điện, độ cứng đờ, làm chậm bốc lữa cháy, và nhiều đặc tính thuận lợi
khác nữa. Có đủ khả năng kiểm sóat hiệu năng vật liệu ở mức độ và đầu vào thiết
yếu như vậy cho một lọat gần như vô hạn định các chất như phụ thêm, giúp cho kỷ sư và nhà
họa kiểu sản phẩm nhiều lựa chọn tự do
hơn về kiểu họa và hiệu năng sản phẩm.
Vật liệu đã áp dụng cho composit
nanô gồm sét nanô – nanoclays, ống nanô carbon nanotubes, bột
mica nanô - nanotalcs, các kim lọai
và vật liệu liên hệ. Ở mức độ này, những đặc
tính thiết yếu của rêsin có thể đóng vai trò tác động lẫn nhau – interplay
rất độc đáo cùng những đặc tính của mỗi chất phụ -cọng thêm . Điều này mở toang lảnh vực khoa học vật
liệu thành một lề lối hòan toàn mới mẽ ,
nhưng đồng thời cũng đưa tới một mức phức tạp cao hơn. Đẩy mạnh đòi hỏi một trải dài rộng rải cách làm mô hình phần mềm, làm nguyên mẩu-
prototyping và thử nghiệm, hầu đủ khả năng kiểm sóat và mau dàn trải
tiến trình phát triễn vật liệu.
Vài ứng dụng tức khắc cho composit
nanô gồm các bộ phận xe ô tô và không gian vũ trụ - aerospace ,
phần cứng quân sự, điện tử, linh kiện y khoa, các thuốc bioxides
và thuốc nhuộm giải tỏa theo thời gian, những lớp rào cản trong gói thực
phẩm, linh kiện bán dẫn/ polymer cho các
tế bào mặt trời quang vontaic- photovoltaics, ứng dụng bọt nổi cho các lót đệm ngồi, các tả lót sẳn sàng để dùng, các vật
liệu gói hàng, một danh sách tuồng như không hề dứt. Composit nanô đóng vai trò then chốt
ở cuộc cách mạng ngành vật liệu đang xảy ra , sẽ sản xuất nhiều ứng dụng
sản phẩm mới.
Polymers thông minh- Smart polymers
Gồm nhiều lọat polymers phản ứng đúng
theo hình dạng và di chuyễn theo thay đổi môi trường tỉ như nhiệt độ, số lượng
ánh sáng, hiện diện của nước hay của pH. Trong nhiều ca, đây là một phản ứng không
thẳng hàng, để cho hình dáng đổi thay đáng kể, dựa trên một kích thích tối thiểu. Khi kích thích được lấy
đi, vật liệu có thể trở lại hình dáng nguyên thủy. Có rất nhiều
ứng dụng cho những vật liệu này ở
ngành mổ xẽ và nhiều tình thế y khoa
khác, các van và nút vặn khởi động từ xa
ở mức tiểu vi – micro và đại
trà – macro cho sử dụng công nghệ và
y khoa, và nhiều cơ hội khác. Polymer thông minh thêm một chiều hướng mới cho
thùng dụng cụ của nhà họa kiểu, thay
đổi từ xa về khỏang cách căn cứ trên các điều kiện đặc thù dự đóan được .
Plastics sinh học - Bioplastics
Các hạt ngọc bằng Plastic |
Dù rằng các
sản phẩm liên hệ đến plastics đã làm tăng thêm
gía trị đáng kể, còn nhiều vấn đề phải
giải quyết, gồm có sự tồn tại của plastics trong môi trường sau khi vất bỏ
chúng và tiêu thụ dầu lữa , một tài
nguyên không tái sinh được xem như thể là nguyên liệu cấp cho nhà máy chế biến plastics.
Khảo cứu áp dụng và phát triển sản phẩm mới năng nổ đuổi theo các giải pháp cho các vấn
đề này và những lựa chọn mới đã bắt đầu
lộ diện. Một sản phẩm đang trổi dậy
là polymers
acid polylactic- PLA , phát sinh
từ chuyễn hóa tinh bột và đường của bắp
– ngô và mía thành các viên – hạt rêsin.
Công
ty độc lập NatureWorks LLC thuộc
hẳn Tổ hợp Cargill đã phát triển những rêsin polymer căn bản thực vật có thể chuyễn hóa thành sợi cho vải vóc, phim dùng gói hàng, và một lọat
sản phẩm đúc khuôn được. Toray Plastics,
một công ty plastics tòan cầu trụ sở trung ương ở
Nhật, đã giúp phát triễn một plastic
PLA cũng cố, cải thiện sức kháng nhiệt
lượng, độ cứng ngắt, và có thể đúc khuôn bằng cách pha trộn căn bản rêsin với
vài lọai sợi cây cỏ. Thành quả là một sản phẩm hiệu năng cao, có
tiềm năng ứng dụng rộng lớn về ngành viễn thông và thiết bị điện tử, ô tô và
không gian vũ trụ, năng lượng và
nhiều thị trường khác. Khi những công ty
vai vế năng nổ như thế thấy lợi ích
của plastics sinh học, tất nhiên các phát triễn mới kỷ thuật và ứng dụng
này sẽ tiến bước mau lẹ.
Còn nhiều cơ hội khác cho bioplastics đang xảy ra trên thị trường. Vài công ty đã phát triễn
các rêsin căn bản đậu nành ( đổ tương
) đang được sử dụng làm mặt bàn quầy thu
tiền composit, chất dính – adhesives ở gỗ dán – plywood, bọt
nổi polyurethane foam cho ghế ngồi xe ô tô, cách nhiệt bọt nổi – foam
insulation và cơ cấu cứng ngắt cho
những tiết diện các ống thoát nước
lớn mạnh mẽ, nhưng dễ điều khiển và ráp
nối. Theo thời gian, polymers căn bản
thực vật sẽ là những thay thế và cải thiện đáng kể cho các plastics căn bản dầu lữa .
( Irvine,
Nam Ca Li ngày 11 tháng 10 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét