Thế giới vật liệu, vật chất : ( Việt Nam đã
đến giai đọan nào ? )
Tương lai còn xa của cái ngữ vật liệu thông minh , an tòan , mạnh mẽ hơn
G S Tôn Thất
Trình
Tiến bộ ở ngành khoa học vật liệu thế giới
Hacking tổng hành dinh FBI's, tòa nhà cũ nhưng các vật liệu mới |
Khoa học vật liệu đã là cội rễ của tiến bộ vật chất, thật
ra là của mọi tiến bộ, quá lâu ngày đến nổi chúng ta hầu như muốn quên và để
lại đằng sau góp phần của khoa học này. Thời
đại Đồ Đá – the Stone Age, Thời đại Đồng
Thau- the Bronze Age , Thời đại Sắt- the Iron Age: tất cả đều được định
nghĩa bằng những cải thiện đáng kinh
ngạc cách nào chúng ta chế tạo và thao
tác những vật thể hằng ngày, từ những
đầu búa nhọn hoắc hơn đẽo đá cứng đến
hợp kim aluminium – nhom cho các
cánh máy bay nhẹ hơn. Nhưng ngày nay, vào Thời đại Silicon, có phải tiến
bộ chỉ là thao tác các số một ( 1s ) và số
không – zero ?
Câu trả lời vang rền là không – no. Vật
liệu còn đáng chú tâm ngày nay hơn bao giờ hết và đó là lý do tại sao nguyệt
báo Khoa Học Phổ Thông – Popular Science ( Hoa Kỳ ) lại dành phần lớn số
tháng 11 / 2012 cho chúng . Tại các la
bô khắp thế giới, các nhà khoa học đang họat động nặng nhọc tạo dựng nền tảng cho các sản phẩm
ngày mai: từ sơn phết siêu mềm dịu đẩy
lui mọi điều nước đông đá- ice ( trên
các cánh máy bay nhẹ cân ) chí đến Cầu Trùng Vàng Staphylococcus aureus ( ở các bệnh viện đầy rẫy mầm bệnh ); các vật
liệu tự điều chỉnh làm thay đổi các đặc tính
với nhiệt độ hay pH; và các phim áp điện - piezoelectrixc films chụp bắt các năng lượng phế thải, ngay cả
thành ra những vật liệu thông minh khác, đặt
năng lượng vào những sử dụng hửu hiệu
hơn. Khi các kỷ sư chứng minh những vật liệu này trong các la bô thử nghiệm và
hội nhập chúng vào những họa kiểu nâng thêm những khả năng mới, mọi điều thảy
đều sẳn sàng cho cải thiện, từ các bộ áo không gian hầu đi thám hiểm không gian
giữa các hành tinh đến các lò phản ứng
hạt nhân.
Thật tế, Định luật Moore, trọng tâm tín điều Thời Đại
Silicon, mô tả một nguyên tắc không phải
là khoa học dữ liệu mà là khoa học vật
liệu –cứ mỗi 18 tháng là chúng ta sẽ tìm
ra cách nhồi nhét hai lần nhiều bộ phận hơn vào chip đã hửu hạn. Thế cho nên các vật liệu tốt hơn sẽ làm ra các máy computer tốt hơn, rồi các
máy này giúp chúng ta họa thêm kiểu các
vật liệu tốt hơn. Sau gần 2 triệu năm
tiến bộ ở ngành khoa học vật liệu, chúng ta cũng vẫn còn chỉ mới bắt đầu tiến
bước.
Các cột mốc về chất liệu: từ sắt đến siêu dẫn, những thành công lớn của vật liệu
28000 năm
trước Công Nguyên - CN: con người
thời kỳ đồ đá cũ- paleolithic , nung lữa những hình vật men gốm từ đất sét, cho thấy năng khiếu sớm sủa chế biến vật liệu.
5000 năm trước CN: Dân
gian gần Thổ nhĩ Kỳ cận đại học hỏi là
không những họ trích chiết chất lỏng đồng – copper được từ đá malachite và
azurite , mà còn đổ khuôn ra thành nhiều
lọai hình dáng khác nhau .
3000 năm trước CN: các thợ kim lọai ở các xứ Syria và Thổ nhĩ Kỳ cận đại tạo ra đồng
thau – bronze- một trong những hợp kim đầu tiên – bằng cách thêm quặng
thiếc –tin ore vào quặng đồng.
2500 trước CN:
Dân Ai Cập cỗ xưa làm các chuổi hạt gương- glass beads, những thí dụ
biết được sớm nhất của vật liệu. 2400 năm sau , gương được thổi vào các tàu thủy không thấm nước.
2000 năm
trước CN: Dân gian xứ Anatolia và Ba Tư - Persia bắt đầu sản xuất sắt từ
các quặng sắt.
Năm 1750: Anh Quốc cấp môn bài chất gắn keo – glue
patent đầu tiên, một chất dính – adhesive làm ra từ cá.
Những thác đổ chất gắn keo thiên
nhiên hay tổng hợp theo chân dính chặc
này.
Năm 1750:
Kỹ sư Anh John Smeaton sáng chế ra bê tông – concrete khi tìm kiếm một
vật liệu nước không làm thoái hóa.
Năm 1839:
Charles Goodyear đổ chất gôm vào
một lò sấy nóng hổi, khám phá ra lưu hóa- vulcanisation ( cao su) và
cuối cùng là cao su chịu mưa nắng – weatherproof rubber.
Năm 1856:
Henry Bessemer làm môn bài một tiến trình
để nung chảy sắt ít carbon thành thép phẩm giá cao hơn có thể sản xuất số lượng lớn – đại trà.
Cũng năm
1856: Nhà hóa học Anh Alexander Parkes, được cấp môn bài làm ra chất nhựa dẽo –plastic tổng hợp
đầu tiên, thóat thai từ bông vải –
cotton hay celluloz gỗ.
Năm 1934:
một nhóm do Wallace Hume Carothers lảnh đạo,
kéo những dây sợi nylon, lọai sợi tổng hợp đầu tiên, từ những ống thử
nghiệm. Thọat tiên dùng làm lông bàn chải đánh răng.
Năm 1935: Louis Minsk của hảng Eastman Koda phát triễn
một polymer cho một mô hình đầu tiên kháng quang – photoresist, có khả năng chuyễn qua một chất nền, giúp chế tạo
các bán dẫn – semiconductors.
Năm 1938:
trong khi khảo cứu những chất làm lạnh,
ở hảng DuPont, nhà hóa học Roy Plunkett khám
phá ra một mẩu đang polymer- hóa . Thành quả: Teflon
không dính và kháng nhiệt lượng.
Năm 1958:
ở hảng Texas Instruments, Jack Kilby xây
dựng một mạch vòng hội nhập
–integrated circuit đầu tiên còn có
tên là mạch vòng vi tiểu –
microcircuit , bằng cách phối hợp những tụ điện – capacitors, điện
trở -resistors điods và transistors
thành một lát mỏng germanium.
Cũng năm
1958: nhà vật lý học Roger
Bacon, làm ra những sợi graphit dài 2.54 cm , thúc đẩy ông tạo ra những sợi
carbon hiệu năng cao cũng cố
máy bay và hỏa tiễn ( tên lữa ).
Năm 1962:
kỷ sư điện Nick Holonyak Jr. sáng chế ra điod phát ánh sáng quang phổ ánh sáng mắt nhìn được LED –
visible spectrum light emitting diod.
Ánh sáng đỏ nhảy vọt từ máy tính – calculators đến các dấu hiệu giao
thông và bảng dán thông cáo – yết thị .
Năm 1964: nhà khoa học Stephanie Kwolek , của hảng DuPont , tạo ra những polymer
cứng đờ, mạnh mẽ đưa tới Kevlar
đạn bắn không thủng.
Năm 1970:
các nhà khảo cứu hảng Corning sản xuất ra sợi
quang gương với rất ít mất mát
ánh sáng, làm cho viễn thông và Internet
có thể thực hiện được.
Năm 1977:
các nhà hóa học phát triễn các polymers
hửu cơ có thể dẫn điện, đặt nền tảng
cho OLED(s) các điôđ phát ánh sáng
hửu cơ – organic light emitting diods.
Năm 1985: các nhà khảo cứu khám phá những phân tử carbon
60 nguyên tử hết sức ổn định trông tựa
những vòm trắc địa – geodesic dome .
Họ gọi chúng là banh nhảy chồm- bucky balls, dựa theo tên của
kiến trúc sư R. Buckminster Fuller.
Năm 1986:
một nhóm ở hảng IBM chế tạo một men gốm
dẫn diện ở nhiệt độ rất cao , thúc đẩy một cuộc chạy đua để khám phá
các siêu dẫn – superconductors còn nóng hơn nữa .
Năm 1991:
một nhà khoa học Nhật tìm thấy các ống
nanô carbon, được kính nể nhờ những đặc
tính cơ học cao siêu của chúng.
Năm 1997:
một nhà thực vật học Đức mô tả các đặc
tính tự làm sạch của lá sen, đẩy mạnh đi
vào một thời kỳ các vật liệu siêu
tính kỵ nước- super hydrophobic materials .
Năm 2000:
các nhà vật liệu chứng minh vật liệu mêta có thể thao tác các phóng xạ điện
từ - electromagnetic radiation , mở toang
cách tìm kiếm áo chòang tàng
hình.
Năm 2004:
các nhà khoa học dùng băng dính cô lập graphene
khỏi graphite . Những tấm carbon
chỉ dày có một nguyên tử là vật liệu
mỏng nhất và mạnh mẽ nhất biết được và
đồng thời cũng là một dẫn diện kiệt xuất
.
Năm 2007:
bằng cách nhập sức làm dính của tắc kè – geckos và trai sò – mussel,
các nhà khoa học viện đại học Northwestern phát triễn một chất dính
họat động tốt ở cả hai điều kiện
khô và ẩm ướt.
Vài vật liệu tân tiến hiện hữu và 5- 10 năm tới( ?) trên thế giới
Cấy tơ
nhện. Các mô – tissues con người rách quá dễ dàng . Và tơ nhện lại mạnh mẽ hơn cả thép nữa . Thế cho nên ở
bang Utah , các nhà khảo cứu đang quay tơ nhện thành một chất liệu dùng để sửa chửa vai và đầu gối bị hư hại. Họ
gầy giống nuôi những con dê chuyễn gen – transgenic goats sản xuất những
thể tích lớn protein tơ nhện, quay những tơ này thành dảnh dây -strand
và bện dây thành sợi. Những dây sợi duy trì độ duỗi căng, nhưng mạnh 100 lần hơn dây chằng con
người và 20 lầnmạnh hơn gân- tendon
. Tơ
nhện cũng có thể làm cho những ghép -tháp xương ít dễ vỡ- giòn hơn, theo lời
Markus Buehler, người phối hợp các proteins
tơ nhện với collagen ở đại học MIT. Cả hai nhóm ước lượng là cấy
– implants tơ nhện có thể được chấp thuận dùng cho con người vào năm 2030.
Da Điện
tử .
Da không phải chỉ để bảo vệ thân thể, mà còn để chuyễn đi các cảm
gíác. Bằng cách làm cho điện tử - electronics
trở nên mềm mại và nạc như thịt , các kỷ sư đã tìm thấy cách chế tạo da nhân tạo bao phủ các mối tháp và phục hình – prosthetics cũng cảm
giác được vài điều. Các nhà khảo cứu ở
Viện đại học Illinois
đã tạo ra những mạch vòng mỏng thín và
dễ uốn, đủ để bao phủ một đầu
ngón tay, nơi chúng biến áp lực thành những dấu hiệu điện. Một chất gel
phát triễn ở đại học Stanford , có khả năng tồn trữ điện, có thể
thành một bình điện vô không được. Và Carmel Majidi thuộc viện Carnegie
Mellon đang cố gắng biến cao su thành những máy cảm dò – sensors áp lực
và cọ xát. Ông đạt nó nằm trong những kênh
kim lọai lỏng, sẽ đổi tính chất dẫn điện
khi chất lỏng di chuyễn. Da điện tử có thể ích lợi cho nhũng sinh vật không là con
người.
Phương thức làm công nghệ này có thể
có tiềm năng làm rôbốt và náy móc giống nhiều dạng đời sống hơn.
Lò
Hạt nhân An tòan hơn . 104 nhà máy điện
hạt nhân hơn của Hoa Kỳ dựa vào thép cho
nhiều bộ phận của Lò , kể cả các bình áp lực chứa uranium. Nhưng cũng có thể xẩy ra là các lọat
phóng xạ tới tấp đều đặn có thể
làm thép thoái hóa, làm bình thép nứt nẻ. Các nhà khảo cứu ở Caltech và La bô
Quốc gia ( Hoa Kỳ ) Los
Alamos đã chế tạp những composites nanô cán thành phiến ( thành lá
), những vật liệu tốt hơn có cơ xây dựng những lò tương lai, không bị tai họa.
Các tiếp hợp – bề mặt chung các lớp kim
lọai giữa các composites, hấp thu các
khuyết điểm phóng xạ cảm ứng ra làm cho
vật liệu bị phóng xạ trở nên dễ vỡ.
Trong tương lai gần, các phiến có thể hội nhập vào thép thay đổi các bộ phận
già nua ở các nhà máy hiện hửu, theo lời kỷ sư Caltech Julia Greer. Các
vật liệu phi thuyền không gian cũng có
thể sơn phủ bằng các tấm phiến cán nanô
này, bảo đảm an tòan cho phi thuyền chống lại các phóng xạ vũ trụ - cosmic
radiation ở không gian sâu vời vợi.
Pannen mặt trời tìm kiếm nhiệt lượng. Tương tự hoa hướng dương nghiêng về phía
ánh sáng, các pannen mặt trời có thể tăng thêm năng sản xuất năng lượng
bằng cách xoay quanh theo mặt trời di chuyễn. Nhưng xoay cũng đòi hỏi năng lượng. Hongrui Jiang , một kỷ sư tại Viện đại học Wuscosin - thành phố Madison , nói : “ Không có bao nhiêu vật liệu có thể phản ứng với ánh sáng mặt trời đồng thời cũng phản ứng cơ
học nữa. Jiang phát triễn một vật
liệu có thể thụ động
thay đổi nền móng- đáy của một bố
trí mặt trời . Ông phối hợp những ống
nanô carbon, hấp thu ánh sáng mặt trời, nhờ một elastomer tinh thể lỏng –
liquid crystalline( LCE ) co lại khi
nó nóng lên. Khi năng lượng mặt trời hâm
nóng một bên đáy, LCE co rút lại, làm
cho pannen mặt trời nghiêng về phía mặt trời; khi phía này đi vào bóng râm, LCE nguội đi và trở lại bề
cao nguyên thủy. Thử nghiệm ngòai đồng cho thấy là hệ thống tăng thêm hửu hiệu các
pannen mặt trời trung bình chừng 10% .
Bệnh
viện sạch mầm bệnh.
Lây nhiễm vi khuẩn ở các bệnh viện Hoa Kỳ giết mỗi năm khỏang100 000 người. Nhân viên phải luôn luôn khử trùng
các bề mặt để chận đứng chúng lan tràn. Một vật liệu một la bô Harvard làm tiền phong có thể ngăn
cản các sinh vật sinh trưởng ở thiết bị y khoa, tỉ như ống thông – catheter;
vật liệu trơn trượt đến nổi vi khuẩn không còn dính vào đó được nữa. Căn cứ trên kỷ thuật SLIPS ( slippery
liquid infused porous surfaces- các bề mặt xốp thấm đầy chất lỏng trơn trượt
). Nó
tác dụng đòn bẩy giống như một cơ chế làm cho các sâu bọ trượt rơi ở cây
giao bóng chày. Các lỗ nanô làm cơ cấu cho nền móng đặc, tỉ như Teflon hay kim
lọai, mồi lên một chất dầu bôi trơn siêu
mềm dịu. Mọi điều gì khác, gồm luôn mầm bệnh, đơn giản trượt ra khỏi chất lỏng phết sơn. Nhà khoa học vật liệu
Harvard Tak Sing Wong nói rằng SLIPS có một ảnh hưởng tương tự trên bụi bặm , nước
đá , và hình vẽ trên tường – graffiti, khiến chúng có tiềm năng ích lợi
cho nhiều công nghệ hơn nữa.
Máy bay cánh dơi hay ngỗng trục – pivot giữa trời .
Ngày nay
máy bay vẫn chưa gần kề mức lanh lẹ và
chúnh xác của nhũng sinh vật biết bay giỏi nhất của thiên nhiên. Dơi - bats khác hẳn các sinh vật khác và
cũng khác đa số vật liệu công nghệ là vì chúng
có cánh rất dễ uốn giúp chúng có
những đặc tính khí động lực học – aerodynamics đáng lưu ý, theo
lời Kenny Breuer nhà kỷ sư cơ khí thuộc viện đại học Brown University .
Các nhà khảo cứu viện đại học Syracuse đã tạo ra một vật liệu phẩm giá tương đương. : dây chuyền
polymer xếp đuôi nhau làm chúng trở nên cứng đờ và ổn định ở một chiều hướng , nhưng lại 12 lần đàn hồi – mềm dẽo hơn ở chiều hướng kia. Trong 5- 10 năm tới,
một vật liệu như vậy sẽ giúp cho cánh
máy bay không người lái vỗ cánh bằng
cách nới rộng hay co rút lại, và như thế sẽ giúp cho máy bay bay ở tốc độ
chậm và ngõng- xoay ngược lại
trục đích xác ở những nhiệm vụ giám sát.
Khai
thác năng lượng bạn hay những đôi giày chạy điện . Các kỷ sư đã chuyễn hóa độ căng thẳng cơ
học thành điện, sử dụng những linh
kiện áp điện- piezoelectric devices
đã hơn 100 năm rồi, nhưng mục tiêu chạy điện một iPod bằng cách đập mạnh vào lề đường vẫn còn lẫn tránh xa. Các vật liệu áp điện hiện hửu rất khó chế tạo
và điển hình chứa đựng các kim lọai độc hại
tỉ như kền – nickel và chì- lead. Các nhà khảo cứu ở La
bô Quốc Gia ( Hoa Kỳ ) Lawrence Berkeley
đã giải quyết cả hai vấn đề bằng cách
dùng virus công nghệ di truyền, tự ráp thành một phim. Khi đặt áp xuất, các
proteins xoắn ốc của vỏ virus, bện -cuộn và quay đầu lại tạo ra một điện tích – charge . Khai
thác một bộ sưu tập kích thước một tem bưu điện sản xuất ra 400 millivots điện,
hay đủ để chạy ngắn ngủi một màn hình
LCD. Trong vòng 5- 10 năm tới, theo lời
kỷ sư sinh học Seung-wuk Lee, phim có thể được sử dụng để khai thác điện từ những dao động -lúc lắc xây cất, các nhịp tim đập
và các di động khác nữa.
Computers
tự sửa chữa lấy.
Các mạch vòng hội nhập
có thể giúp làm thành thời đại kỷ thuật số - the digital age ,
nhưng chúng vẫn còn bị một giới hạn
lớn: hư hỏng lý học. Một lớp sơn phủ mới
viện đại học Illinois phát triễn sẽ có khả năng đem lại sự sống cho một mạch
vòng chết đứng, chỉ trong vòng một milligiây- millisecond, ngay cả khi
bạn dùng một dao X-Acto để xắt lát nó,
theo lời kỷ sư Nancy Sottos. Nhóm của bà
phủ một lớp sơn dây vàng kim với những cáp xun- capsules nhìn được ở kính hiển vi kim lọai lỏng. Khi dây táp, cáp sun nứt toang
và kim loại chảy đầy chỗ nứt, tái lập sức dẫn điện. Trong 5- 10 năm tới, những
lớp sơn phủ tự làm lành lấy mình tương
tự, có thể bao phủ những dây dợ nối liền các bộ phận của bảng mạch vòng. Sottos
nói: như vậy giúp cho hầu như mọi computers
hay đồ gá nào khả năng tự sửa chửa .
Áo quần thông minh. Mặc áo
quần khác biệt, ai đó có thể sửa sọan trải nắng, mưa hay lạnh lẻo, nhưng từ
trước đến nay, chưa có áo sơ mi hay quần dài
thích hợp một cách thông minh với môi trường. Anna Balazs, một kỷ sư
viện đại học Pittburgh, nói là hai thập niên tới “ áo quần bạn có thể suy nghĩ thay cho bạn”. Một vật liệu phát triễn ở Pitt và Harvard có
thể điều hòa nhiệt độ mình, giữ chúng ở
một tầm nào đó. Một vòng thắt phản hồi hóa học và cơ học trong các lớp nó, chuyễn một phản ứng sản xuất
nhiệt tắt và mở đúng theo những độ đã
lập trình trước. Một chiến lược y hệt cũng có thể được sử dụng chế tạo vật liệu tự điều hòa lấy mình, phản ứng với những kích
thích khác, tỉ như pH, ánh sáng hay
glucose- có nghĩa đó là ống nước, cửa sổ , hay các linh kiện y khoa cũng có thể thông minh như thế.
Áo giáp không lọt qua nổi. “ Ở nhiều lảnh vực khoa học vật liệu, chúng
ta đã đạt đến mức tốt nhất có thể làm
được nhờ các kỷ thuật
công nghệ” theo lời kỷ sư Viện
đại học McGill Francois Barthelat .” tôi
nghĩ rằng thiên nhiên có nhiều kỷ xảo
mới dạy cho chúng ta”. Áo giáp ( nhung
y) bảo vệ nhiều động vật biển có đến 3000 lần bền bỉ hơn những vật liệu làm
ra chúng. Bằng cách sao chép cơ cấu vảy
cá, Barthelat phóng đại tương tự độ bền bỉ của
của một vật liệu composit. Các kỷ
sư Viện đại học Villanova nhét chặc các tinh thể
men gốm- ceramic của một
hợp chất mềm hơn ở những góc cạnh giống
như ở vỏ ốc tù – conch shells. Vì
lẽ các đường nứt ngòng nguèo và kiệt sức
dần thay vì phá tan vật liệu, chúng 10 lần mạnh hơn là căn bản men gốm. Tiến bộ như thế có thể
cũng cố áo giáp từ 3 đến 5 năm .
( Irvine, Ca Li –
Hoa Kỳ, ngày 23 tháng 10 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét