Việt Nam lựa chọn gì được giữa hai nước lớn Trung Quốc và Hoa Kỳ, theo các diễn biến chánh trị gần đây :
Vấn đề với Thế chiến lược Ngõng Trục, Đóng Chốt của Hoa Kỳ
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách !
Vì vậy tuy không biết gì nhiều về
quân sự, chúng tôi vẫn cố gắng lạm bàn ý
kiến phần lớn về chiến lược quân sự của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc ngày nay và
tương lai của giáo sư khoa học chánh trị Robert S. Ross, viện đại học Boston, đồng thời
là Phó Trung tâm John King FairBank
Center về Nghiên cứu Tàu- Chinese Studies, viện đại học Harvard, nguyệt
san Ngọai Giao – Foreign Affairs đăng tải số các tháng 11- 12 năm 2012. Trong
chuyến viếng thăm Đông Nam Á sắp tới, tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ hai Obama có thay đổi gì chánh sách “mới” thế chiến lược Ngõng trục, Đóng Chốt-
Pivot nhiệm kỳ một không đây ?
Chánh sách mới ( so với thời tổng thống Bush) theo Ross là không cần thiết và chống lại phong phú
Kể từ khi Đặng Tiểu Bình mở toang nền kinh tế Trung Quốc vào cuối thập niên 1970, Trung Quốc đã thành
công tăng thêm quyền lực, tài sản và sức
mạnh quân sự, trong lúc đó vẫn duy trì
cộng tác và liên hệ thân thiện với các quốc gia khác, ngoại trừ Đặng Tiểu Bình bênh Khmer Đỏ xâm lăng miền Bắc Việt Nam, tàn phá 20 thị trấn nhỏ
lớn Việt Nam. Nhưng cách đây vài năm, Trung Quốc tuồng như thay đổi đường lối, cư xử theo một phương
cách tha hóa, làm các lân bang lánh xa và tạo dựng một nghi ngờ ở ngọai quốc. Tháng
12 năm 2009, Trung Quốc chống lại hòa
giải ở Hội Nghị Thay Đổi Khí Hậu Liên hiệp
Quốc, làm phật lòng các quốc gia Âu Châu
và Hoa Kỳ. Rồi thì, sau khi Hoa Kỳ bán
võ khí cho Đài Loan tháng giêng 2010,
Chánh phủ Trung Quốc ngưng đàm phán
an ninh cao cấp Hoa Kỳ - Trung Quốc
lần đầu tiên và tuyên bố nhũng trừng phạt chưa bao giờ thấy, đánh vào
các công ty Hoa Kỳ có ràng buộc với Đài Loan ( dù nay vẫn chưa rỏ rệt là các trừng phạt có
gây ra tai hại đáng kể không ). Cũng vào tháng bảy năm 2010, Bắc Bình nổi giận phản đối các dự tính thao diễn
hải quân của Hoa Kỳ và Nam Hàn ở Hòang
Hải ( Biển Vàng ) – Yellow Sea. Tháng 11, Trung Quốc phê bình gay gắt Nhật Bổn bắt giữ thuyền trưởng một tàu đánh cá Trung
Quốc đã
va chạm dữ dội tàu Bảo An Bờ biển – coast guard ship Nhật ở vùng bờ biển còn tranh chấp. Để đối đầu những lọat hồi đoạn bất ổn này, Bắc Bình đã thốt ra những lời thù địch quá
đáng đối với các quốc gia dân chủ và đặt
ra những trừng phạt kinh tế đối với Na Uy – Norway, sau khi Ủy Ban Nobel tưởng thưởng
Liu Xiao Bo – Lưu tiểu Ba ( ? )
nhà họat động tích cực cho Tàu
Dân Chủ giải thưởng Nobel Hòa Bình, tháng 10
năm 2012. Chỉ trong vòng vài tháng
ngắn ngủi, Trung Quốc đã mất đi phần lớn
những gì Trung Quốc tích tụ được sau nhiều năm bàn luận về “ Nâng cao
Hòa Bình- Peaceful Rise” .
Lúc đó, rất nhiều nhà phân tích giải
thích tình huống gây hấn của Trung Quốc
là một dấu hiệu quốc gia càng
ngày càng tự tin. John Pomfret viết ở báo The Washington Post, lưu ý rằng Bắc Bình đang biểu lộ “ một thái độ mới hân hoan chiến thắng”.
Trung Quốc đang vào thời kỳ thăng tiến nên ý kiến này tiếp tục, và quyền hạn
mới có của Trung Quốc đã thuyết phục các
nhà lảnh đạo Tàu là họ có thể tạo dạng
mọi sự cố ở Á Châu hơn từ bao giờ hết.
Cho nên năm 2010, chánh quyền
Obama khởi xướng cái gọi là “Ngõng trục, Chốt Đóng-Pivot” ở Á Châu, một
đổi thay chiến lược nhắm vào cũng cố các
thắt chặc phòng vệ của Hoa Kỳ với các quốc gia trong vùng và nới rộng sự hiện
diện của hải quân Hoa Kỳ ở đó. Yếu
tố ngọai giao chiến lược được trình bày
năm 2011, khi bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Leon Panetta tái bảo đảm các đồng minh Hoa Kỳ, nhiều đồng minh ngấm
ngầm nuôi lo ngại về thăng tiến Trung Quốc, rằng “ Hoa Kỳ vẫn duy trì hiện diện ở Thái Bình Dương một thời gian lâu dài”. Lo âu về một Trung Quốc mới, võ đóan và có cơ trở thành một lực lượng tạo
bất ổn, Tòa Bạch Ốc chuyễn động hầu chống trả lại mọi cảm giác là Hoa Kỳ yếu
kém đi, bằng cách tăng cường sự hiện diện Hoa Kỳ trong vùng.
Tuy
nhiên, tiếc thay, đổi thay này căn cứ trên một cách đọc căn bản sai lầm về lảnh
đạo Trung Quốc. Ngọai giao cứng rắn
của Bắc Bình nguồn gốc không phải là niềm tự tin về sức mạnh của mình – các nhà
lảnh đạo Trung Quốc từ lâu đã hiểu rỏ là quân sự Trung Quốc vẫn còn thua kém
đáng kể quân sự Hoa Kỳ- mà là một cảm giác sâu đậm không an ninh, phát sinh từ
nhiều năm căng thẳng thần kinh của khủng
hỏang tài chánh và rối lọan xã hội. Đối diện với những thách thức này, và không
còn đủ khả năng trông cậy vào hổ trợ dễ dàng
tăng trưởng kinh tế quốc gia nữa, các
nhà lảnh đạo Trung Quốc di động để giữ vững tính chất hợp pháp phổ thông của họ,
bằng cách thoa dịu một dân gian
mỗi ngày mỗi ý thức dân tộc chủ nghĩa mạnh hơn với những điệu bộ vũ lực
tượng trưng.
Xem xét hành vi Trung Quốc theo ánh
sáng này, những hiểm nguy của chiến lược
Ngõng trục trở thành rỏ ràng. Chánh sách
mới của Hoa Kỳ đã không cần thiết, pha trộn sự thiếu an ninh của Trung
Quốc và chỉ châm thêm lữa cho
thái độ Trung Quốc gây gổ, phá hại ngầm mức ổn định trong vùng và giảm
bớt khả dĩ hòa hợp cộng tác giữa Bắc
Bình và Hoa Thịnh Đốn. Thay vì ước lượng lạm phát sức mạnh của Trung
Quốc và rời bỏ chánh sách lâu đời hứa gặp mặt ngọai giao, đáng lý ra Hoa Kỳ đã
phải công nhận nổi yếu kém nằm phía dưới
và những sức mạnh dai dẳng của Trung
Quốc. Chánh sách đứng đắn về Trung
Quốc phải là làm khuây khỏa , không phải là khai thác,
những lo ngại của Bắc Bình, trong khi phải bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ trong vùng .
Cọp giấy gầm thét
Quyết định tiếp tục chánh sách đóng
chốt- ngõng trục, căn cứ trên tiền đề là Trung Quốc mới mẽ bạo dạn thêm lên
thách thức các quyền lợi Hoa Kỳ và phá hại ngầm ổn định vùng, rất đơn giản là
vì nó có thể nhờ sức mạnh quân sự tăng gia, giúp thực hiện ngoại giao năng nổ
dễ dàng hơn, hấp dẫn hơn so với quá khứ. Trong phiên điều trần tháng 3 năm
2010 ở Quốc hội Hoa Kỳ, đô đốc Robert
Willard, lúc đó là Chỉ huy Lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, khẳng định là những tiến triễn quân sự gần đây của Trung Quốc đã
“thật là đáng kinh ngạc”. Tuy nhiên, sự thật là Hoa Kỳ đã ước lượng thái quá khả năng quân sự Trung Quốc. Dù
cho Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân – the People’s Liberation Army ( PLA )
đã tiến mạnh kể từ năm 1979, khi nó bối rối
vì yếu kém hiệu năng trong chiến
tranh ngắn ngủi với Viêt Nam( khiến Đặng Tiểu Bình chủ tịch Ủy Ban Quân sự
Trung Ương phải rút lui quân, sau khi
huyên hoang tuyên bố là đã dạy Việt Nam một bài học ), sức mạnh quân đội Trung Quốc vẫn còn rất giới hạn. Trong mười năm qua, PLA vẫn chưa
dàn trải thêm được một tàu thủy
hay tàu bay mới mẽ nào cả hầu có sức tăng cường khả năng thách thức ưu thế Hoa Kỳ trên
biển. Khí cụ chánh của Trung Quốc để
chống trả Hải Quân Hoa Kỳ và ngăn
cản một can thiệp Hoa Kỳ ở các xung đột Á Châu ,vẫn là một hạm đội tàu ngầm
diesel sử dụng từ giữa thập niên 1990.
Mọi chuyện đàm thọai về cận đại hóa hải quân Trung Quốc, PLA chỉ mới
khởi sự làm ra một khu trục hạm –
destroyer có hỏa tiễn hướng dẫn, số lượng và phẩm giá kém cõi
so với hạm đội khu trục hạm lọai
Aegis của Hoa Kỳ. Chỉ vào tháng 8 năm 2011,
Bắc Bình mới tung ra một hàng không mẩu hạm – aircraft carrier
đầu tiên – Hoa Kỳ hiện có 11 hàng không
mẩu hạm - và hàng không mẩu hạm trung Quốc là một tàu chiến
cũ kỷ và tương đối nhỏ mua của
Nga. Trung Quốc đang phát triễn các hỏa
tiễn liên lục địa chống tàu thủy có cơ
nhắm vào các hàng không mẩu hạm chở máy bay của Hoa Kỳ , nhưng Trung Quốc chưa chủ trì được kỷ thuật dàn trải các võ khí này. Chiếu
theo báo cáo 2011 của Ngũ Giác Đài về quân sự Trung Quốc, ít hơn 30% của lực lượng trên mặt biển hải quân, lực
lượng không quân và lực lượng phòng không và chừng 55 % hạm đội tàu ngầm
PLA có thể được xem là cận đại. Tóm tắt , PLA vẫn còn chưa đủ khả năng thách
thức ngự trị Hoa Kỳ ở biển hay lật ngược
lại cán cân lực lượng trong vùng.
Trong
vài năm vừa qua, Bắc Bình có nhiều điều đáng lo lắng hơn là các nhược điểm quân sự. Cuối năm
2008, khi các nhà lảnh đạo Tàu nhìn nhận là quốc gia mình không miễn
nhiễm được các chấn động tài chánh rung chuyễn thế giới, Bắc Bình hỏang sợ trước
viễn cảnh một đinh nhọn thất nghiệp nội
địa và vội vã tài trợ một gói hàng kích
thích đồ sộ trị giá 4 ngành tỉ đồng yuan ( khỏang chừng 570 tỉ đô la Mỹ ).
Nhưng điều này lại làm tình thế tệ hại hơn, nuôi nấng bất ổn định và mất cân bằng
cơ cấu dài hạn ở nền kinh tế. Thành quả là các năm 2009- 2010, Trung Quốc đã
trải qua một rối lọan kinh tế tệ hại nhất kể từ thập niên 1960, tiếp theo sau
Bước Nhảy Vọt Mao Trạch Đông.
Giữa các năm 2008 và 2010, lạm phát tăng gia hơn 10 lần và tháng hai
năm 2010, thủ tướng Ôn Gia Bảo - Wen
jiaBao nhìn nhận là lạm phát tệ hại
thêm, thành quả của gói hàng kích thích có thể “ phá hại ngầm ổn định xã
hội”. Vào năm 2009 , giá cả nhà cửa ở các thành phố lớn đã vuợt quá
lợi tức trung bình hàng tháng giới trung lưu chừng 20- 30%, cao hơn hẳn sác xuất Ngân Hàng Thế giới gợi ý.
Trong lúc đó, suốt đầu năm 2010, trong
một cố gắng siết chặc cho vay, Ngân hàng trung ương Tàu liên tiếp tăng gia số lượng tư bản đòi hỏi các ngân hàng phải có ở dự trữ. Tuy nhiên, lạm
phát tiếp tục gia tăng. Theo một nghiên cứu tháng 6 năm 2010, gần 60% dân Tàu báo cáo là giá cả đời sống “qúa
cao để có thể chấp nhận được”. Từ
năm trước, giá cả rau đậu – vegetable đã tăng thêm gần 25%, giá cả tỏi
tăng thêm 10 lần, và giá trà – chè 20 % cao hơn .
Khi lạm phát cao giáng một đòn nặng
nề, thất nghiệp và bất bình đẳng dâng lên: tỉ xuất dân thành thị thất nghiệp năm 2009
là cao nhất kể từ năm 1980. Chánh quyền đặc biệt lo sợ thất nghiệp ở các sinh viên tốt nghiệp đại
học sẽ làm bất ổn các thị trấn Trung Quốc. Năm 2009, khoảng trên 7 triệu sinh
viên tốt nghiệp đại học không có việc làm, cho nên chánh phủ đã đầu tư 41 tỉ
yuan ( chừng 6 tỉ $US ) để sử dụng họ ở nông thôn. Và khi nền kinh tế sa đọa đi, ngay cả Nhật
báo Nhân dân –People’s Daily quốc
doanh cũng đăng một bài bản nhìn nhận
tình trạng. Một hàng chữ đầu trang tháng 10 năm 2010 đăng “
Hố chia lợi tức đã đến một Điểm
Nguy hiểm”. Phản ảnh lo ngại ở giới lảnh đạo là bất mãn to lớn có thể sùng
sục sôi lên thành thù địch chống chánh phủ . Bài báo này cảnh báo là bất bình
đẳng “ nuôi dưỡng những cảm giác tiêu cực
chống lại kẻ giàu có- sung túc”
và “ chuông báo động đang kêu rền” . Báo tiếp tục : “ Bắc Bình không nên
và cũng không thể làm ngơ vụ này”.
Thất nghiệp và bất bình đẳng này sản
xuất ra lọai bất ổn, chính Bắc Bình lo sợ như vậy. Theo các con số của chánh
phủ “ sự việc xảy ra to lớn”- định nghĩa là
các phản đối bất hợp pháp 5 người hay hơn nữa đã làm gián đọan trật tự công cọng – đã tăng từ
120 000 vụ năm 2008 lên đến trên 180 000 vụ năm 2010 . Ở nổi lọan năm 2009 tại Thập Châu ( ? ) - Shishou tỉnh Hồ Bắc – Hubei, 70
000 dân chúng đối đầu với cảnh sát trong
một sự vụ mà Hàn lâm viện Khoa học Xã
Hội Tàu, một cơ quan nghiên cứu chánh sách chiến lược thuộc chánh phủ, xem đó là “một
nổi lọan đường phố nghiêm trọng nhất” kể
từ năm 1949. Các nhà khoa học xã hội
viện nay đã biện cứ là tăng gia hình tội dữ dội và rối lọan dân sự năm 2009 phản
ảnh thất nghiệp nông thôn lớn hơn nữa và là
thành quả tăng trưởng của một dân gian
ăn không ngồi rồi va bị đẩy ra ngọai vi.
Năm 2010, Quách Bình Thanh ( ? ) –
Guo Binsheng chánh biên tập viên
chánh của Cơ quan báo chí chánh thức Thanh
Hoa – Xin Hua cũng cảnh báo là Trung
Quốc đã lạc vào một thời kỳ “ xung đột
xã hội chưa giải quyết” và nhiệm vụ làm
ổn định …. sẽ rất khó khăn” . Đối diện
bất ổn gia tăng, và nhu cầu tránh khỏi một khủng hoảng tính chất hợp pháp, khiến
Bắc Bình không còn lựa chọn nào khác hơn
là thoa dịu một giới cán bộ tinh
thần dân tộc ( quốc gia) chủ nghĩa cứng
rắn, muốn phóng lên một hình ảnh Trung
Quốc kiên cường trên thế giới.
Rạng Đông Hồng
Đảng Cọng Sản Tàu từ lâu đã đề xướng
chủ nghĩa dân tộc, quốc gia- nationalism đễ giữ vững tính chất hợp pháp
của mình, nhưng suốt nhiều thập niên mới đây phát triễn kinh tế mau lẹ, dân gian Tàu tụ điểm nhiều vào tiến triễn kinh tế hơn là chánh trị. Tuy nhiên khi khủng hoảng tài chánh tòan
cầu đánh mạnh năm 2008, Bắc Bình không còn
có thể chỉ trông cậy đơn giản vào thành công kinh tế. Trong lúc đó, chủ nghĩa
quốc gia đã dâng cao. Ngay cả khi những nhà làm chánh sách chóp bu của đảng
cũng đã thông suốt những yếu kém nước nhà, tuy vậy nhiều dân Tàu vẫn tin tưởng
là khủng hỏang tài chánh tòan cầu đã ra dấu hiệu là Trung Quốc đã lên cao đến
cực điểm vị thế một cường quốc. Các năm 2008 và 2009, khi Hoa Kỳ rơi vào tình
trạng khủng hỏang, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 10% . Và lảnh đạo Tàu
đề cao các thành công của PLA, gồm
các sứ mệnh chống đạo tặc – antipiracy missions, chương trình
không gian và tiên tiến về máy bay quân sự , gợi ý cho
dân gian Tàu là Trung Quốc đang đuổi kịp Hoa Kỳ
và như vậy cần phải chấp nhận một
chánh sách ngọai giao kiên cường hơn. Tháng giêng 2010, sau khi Hoa Kỳ tuyên
bố bán võ khí cho Đài Loan, các nhà lảnh
đạo dư luận Tàu và các kẻ sử dụng tiếng nói Internet mỗi ngày mỗi nhiều hơn,
biện cứ cho những trừng phạt chống lại các công ty quốc phòng Hoa Kỳ, đã tham
dự các thương thảo bán võ khí này.
Rồi
đến tháng chín 2010, tranh chấp giữa Bắc
Bình và Tokyo về vụ bắt giữ thuyền
trưởng tàu đánh cá, trở thành một đề tài
được truy cập nhiều nhất ở Internet Trung Quốc, một dấu hiệu cho thấy công
chúng Tàu đã nổi giận đến dường nào về vấn đề này. Ở báo chí chánh thức, Phong
Triệu Quí( ? ) - Feng Zhaokui, một chánh chuyên viên về Nhật Bổn của viện
Hàn lâm Khoa học Xã Hội biện cứ
là “ nay đã hết thời đại Trung Quốc có thể bị đối xử tàn tệ theo ý kiến ngọai quốc rồi !” Dù cho chánh quyền cố gắng dẹp yên, kêu gọi
phản đối vẫn luân chuyễn trên Internet,
gây ra nhiều biểu tình, không những trước cửa tòa đại sứ Nhật mà còn ở dinh thự bộ Ngọai Giao Tàu nữa.
Khi tình cảm quốc gia vươn lên và các vấn đề kinh tế, chánh trị khuấy đục đất nước, các nhà lảnh đạo Trung
Quốc lo âu cho vị thế công cộng của đảng
và lo sợ bất ổn nhân dân đã thích
nghi cùng các nhà quốc gia Tàu với chánh sách ngọai giao và hùng
biện cứng rắn. Thành quả là một tư thế
không nhân nhượng các năm 2009- 2010, không những đã tha hóa các lân bang Trung
Quốc mà còn nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Ngọai giao mới mẽ này đánh
chuông báo nguy khắp Đông Á về Trung
Quốc vươn dậy, khiến Hoa Kỳ đã phải nhảy vào hầu giải quyết giữ gìn các cân quyền lực trong vùng.
Tham dự chấm dứt
Vài
khía cạnh chiến lược của tổng thống Obama ở Á Châu xây đắp trên các chánh sách các chánh quyền
Mỹ trước đó. Hoa Thịnh Đốn đã cung
cấp thêm tài nguyên cho vùng kể từ năm
1997, khi Hoa kỳ trước hết chuyễn một
tàu ngầm từ Âu Châu về Guam. Rồi thì các chánh quyền Clinton
và George W. Bush dàn trải mọi lọai võ khí hải quân và không quân đến
Guam và Nhật Bổn , cộng tác với Singapore
thiết lập cơ sở cho hàng không
mẩu haạm ở Căn cứ Hải Quân Changi, củng
cố cọng tác quốc phòng với Nhật và Phi
Luật Tân. Chánh quyền Bush chuyễn thêm một hàng không mẩu hạm khác cho
chiến trường Thái Bình Dương. Năm 2005, Ngũ Giác Đài tuyên bố là đưa 60% tàu ngầm Hoa Kỳ vào Á
Châu.
Suốt các chiến tranh I Rắc và A Phú Hãn, tài trợ quân sự cho chiến
trường Thái Bình Dương vẫn ở mức cao.
Những chánh sách này làm thành một
trả lời hửu hiệu cho việc Trung Quốc vươn dậy. Nhưng sau các lập trường không nhân nhượng của Trung
Quốc năm 2009 và năm 2010, Hoa Thịnh Đốn phải đối diện với một vấn đề tín nhiệm :
các đồng minh Đông Á nêu câu hỏi là liệu
Hoa Kỳ, sa lầy trong một khủng hỏang kinh tế tệ hại nhất kể từ thời Suy Thóai Lớn – Great Depression, có
thể nào đấu tranh với một Trung Quốc
tuồng như tự tín và đủ khả năng hơn
không ? Phần lớn nhằm thoa dịu bớt những
lo sợ này, Hoa Kỳ chuẩn bị chứng minh rắng Hoa Kỳ có thể duy trì các cân sức mạnh trong vùng.
Chánh sách đóng chốt của chánh
quyền Obama gồm tăng gấp đôi những cố gắng chánh quyền tiền nhiệm. Hoa Thịnh Đốn nới rộng các thao diễn hải quân chung với Nhật để sửa sọan
cho việc bảo vệ các đảo tranh
chấp, đạt những thỏa hiệp mới bán võ khí
cho Phi Luật Tân và gần đây nhất , vào tháng tư năm 2012, thỏa thuận
đưa Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến Úc Châu. Chánh quyền Obama cũng tái lập hợp tác phòng vệ với Inđônêxia và Tân Tây Lan. Những chánh sách thận trọng này đã tái đảm bảo, làm an tâm các
đồng minh Mỹ cam kết của Hoa Thịnh Đốn cho ổn định trong vùng.
Thế nhưng chánh quyền cũng đã đảo ngược chánh sách
Hoa Thịnh Đốn lâu dài tham dự- engagement với Trung Quốc, quay
đầu trở lại về những sáng kiến đắt tiền, nghĩa là lực lượng quá chênh lệch cho
mối đe dọa từ Trung Quốc. Còn về những
tranh chấp về Trường Sa – Spratley Islands ( Tàu gọi là Nam Sa ) ở Biển Đông
( Mỹ khác với Úc ? còn gọi là Nam Hải Tàu- South China Sea ), các chánh quyền
quá khứ đã đủ khả năng ngăn ngừa các
nước mạnh trong vùng phải tiến lên xâm lăng, bằng cách làm minh bạch nói
rằng quyền lợi Hoa Kỳ muốn duy trì tự do giao thông. Tuy nhiên,
ngọai trưởng Hillary Clinton đã nhét trực tiếp Hoa Kỳ vào những tranh chấp phức tạp trên phương diện pháp lý. Tháng bảy năm
2010 ở Hà Nội, sau những thảo luận sâu rộng với mọi bên đòi
chủ quyền các đảo Trường Sa ngọai trừ Trung Quốc, Clinton
tuyên bố là Hoa Kỳ hổ trợ quan điểm đàm phán của Phi Luật Tân và Việt Nam. Quyết định
làm bối rối ( theo quan điểm của Ross )
là vì những đảo này không có mấy giá trị kinh tế, không giàu tài nguyên
khoáng sản và chúng có tầm quan trọng chiến lược bé nhỏ, vì chúng quá bé để họat động quân sự
.
Hoa Kỳ cùng đã, không cần thiết, thách
thức Bắc Bình bằng cách cũng cố hiện diện quân sự ở lục địa Đông Á. Nhìn nhận là lực lượng Hàn
Quốc- Nam Hàn ít đòi hỏi Hoa Kỳ hổ trợ hơn hầu
xử lý mối đe dọa từ Bắc Hàn, chánh
quyền Bush rút về 40 % quân lính Hoa
Kỳ ở Hàn Quốc, chấm dứt dàn trải quân
đội từ Hán Thành- Seoul đến vùng
phi quân sự chia đôi Nam và Bắc Hàn, và giảm kích thước cũng như mức thường
xuyên thao diễn quân sự Hoa Kỳ - Nam Hàn. Chánh
quyền Obama đã đảo ngược khuynh hướng này.
Trong ba năm qua, Hoa Kỳ đã thực hiện những thao diễn quân sự chung lớn
nhất với Hàn Quốc kể từ Chiến Tranh
Triều Tiên- Korean War và tăng gia
hiện diện quân đội ở Nam Hàn. Hoa Kỳ và Hàn Quốc cũng đã đạt nhiều thỏa thuận quốc phòng mới, và đầu năm 2012, Ngũ Giác Đài tuyên bố dự tính nâng cấp khả
năng quân sự Hoa Kỳ ở bán đảo Triều
Tiên, mặc dù sự kiện là khả năng quân sự
Nam Hàn đã cải thiện rộng rãi tương
đối với khả năng của chế độ Bắc Hàn, mỗi
ngày mỗi lọan chức năng.
Cùng lúc Hoa Kỳ cũng
đã cũng cố sự hiện diện ở Đông Dương. Kể từ đầu thập niên 1990, các chánh quyền Hoa
Kỳ kế tiếp nhau đã cự tuyệt mong muốn
của Việt Nam thắt chặt phòng vệ-quốc phòng đáng kể
hơn. Hoa Thịnh Đốn đã hiểu rỏ rằng nếu
muốn có liên hệ hợp tác với Bắc
Bình, Hoa Kỳ phải cần nhìn nhận là Trung
Quốc có một cá cược quyền lợi chiến lược trong vùng lớn hơn Hoa Kỳ nhiều. Nhưng
năm 2010, bà Clinton và bộ trưởng quốc phòng lúc đó la Robert Gates
cả hai đều viếng thăm Hà Nội (
Clinton hai lần) Bộ trưởng ngọai
giao Hoa Kỳ kêu gọi cộng tác chiến lược Hoa Kỳ - Việt Nam, và cuối năm 2010 lần đầu tiên sau chấm dứt
Chiến Tranh Việt Nam ( lần thứ hai , lần thứ nhất 1945- 54 là với Pháp ) Hoa Kỳ
đã thực hiện huấn luyện chung hải quân
cùng Việt Nam. Từ đó, hải quân Hoa Kỳ
đã thao diễn hàng năm cùng hải quân Việt Nam và năm 2011,
hai quốc gia kỳ một một bản ghi nhớ hiểu biết -memorandum of
understanding về cộng tác phòng
vệ – defense cooperation. Trong lúc đó, Hoa Kỳ cũng củng cố hợp tác với Cam
Bốt và năm 2010 , Cam Bốt đã gia nhập “
Cộng tác để Sẳn sàng ở Mặt biển và Huấn luyện” do Hoa Kỳ dẫn đạo, một lọat thao diễn hải quân song phương hàng năm trong
vùng. Năm 2010, bà Clinton dứt khóat cảnh báo Nam Vang – Pnom
Penh đừng trở thành quá phụ thuộc
Trung Quốc .
Cuối cùng , chánh quyền Ohama ( nhiệm
kỳ I ) đã đề xướng một liên minh biển ở
Nam Hải ( Biển Đông Viêt Nam
). Hầu bổ sung các mối thắt chặc giữa
Phi Luật Tân và Việt Nam,
Nhật Bổn ký kết những minh ước với hai
quốc gia này, mở rộng cộng tác quốc phòng cùng nhau và trao đổi quân sự. Năm 2012, quân sự Úc Châu, Nhật Bổn và
Hàn Quốc lần đầu tiên tham gia
các thao diễn quân sự hàng năm của Hoa
Kỳ và Phi Luật Tân tên gọi là Balikatan,
có nghĩa là vai kề vai.
An ủi chống lại máy móc
Các nhà lảnh đạo Trung
Quốc, lẽ dĩ nhiên, không bằng lòng về
những thỏa hiệp, minh ước vừa kể. Nhưng những bước này thật sự rất cần thiết
cho nền an ninh Hoa Kỳ, đã xảy ra xa biên cương Trung Quốc và do những chánh
sách các chánh quyền tiền nhiệm Hoa Kỳ xây đắp lên. Khi Hoa Thịnh Đốn xen trực tiếp vào các tranh chấp chủ quyền
Trung Quốc và tăng gia hiện diện ở biên
giới Trung Quốc, Bắc Bình nhìn thấy chánh sách Hoa Kỳ xa hẳn đường lối quá khứ này , rất là vô cớ, bành trướng và đe dọa. Như
chờ đợi từ một uy quyền quốc gia đang phải đối đầu với môi trường suy thóai chiến lược, Trung Quốc
đẩy lui mạnh chống lại thế đóng chốt, tung ra những chánh sách cụ thể thay vì là những từ chương năng nổ gây
hấn Trung Quốc sử dụng trong quá khứ.
Một thành quả là Trung Quốc đã bỏ mọi cố gắng sử dụng đòn
bẩy của mình trên Bắc Hàn hầu nước này
bỏ chương trình hạt nhân. Từ năm 2011, Bắc Bình đã đại thể tăng viện trợ thực
phẩm cho Bình Nhưỡng - Pyongyang , nhập khẩu nhiều hơn tài nguyên khóang sản Bắc Hàn
và đầu tư đáng kể vào hầm mỏ, hạ tầng cơ sở và công nghệ chế tạo Bắc
Hàn. Trung Quốc cũng đã rút lui hổ trợ đàm phán
sáu phe về chương trình hạt nhân
Bắc Hàn, khiến Hoa Kỳ đã phải thảo luận
song phương với Bắc Hàn. Trong khi Bắc
Hàn tiếp tục phát triễn khả năng võ khí hạt nhân.
PLA cũng đặt áp lực trên các
lân bang Trung Quốc đã tăng cường hợp tác phòng vệ- quốc phòng với Hoa Kỳ. Mùa xuân năm 2011, căng thẳng giữa
Hà Nội và Bắc Bình leo thang, khi tàu tuần dương Trung Quốc quấy rối
tàu nghiên cứu động chấn ở vùng
biển tranh chấp và nhiều sĩ quan Tàu đề
nghị dùng vỏ lực chống lại hải quân Việt
Nam. Tương tự như vậy, Trung Quốc chạm trán ở biển đầu năm 2012 cùng
Phi Luật Tân về bải cát Scarborough
Shoal tranh chấp, gợi ý là Trung Quốc sẽ
đẩy mạnh chống lại các nước trông cậy
vào Hoa Kỳ giúp đở họ trong các tranh chấp chủ quyền. Trung Quốc phái đến những tàu tuần tra sẳn
sàng chiến đấu để bảo vể chủ quyền mình
về các bải cát này và sau khi Phi Luật
Tân rút
lui các tàu chiến,Trung Quốc thiết lập một sự hiện diện thường trực ở
đây. Và cũng trong năm 2012, các hảng dầu lữa Trung Quốc tuyên bố những dự tính chưa bao giờ thấy, đào
các giếng dầu trong các biển tranh chấp – các quốc gia khác đã hoạt động tích
cực nơi đây từ lâu - và PLA hình thành
một đơn vị quân sự đồn trú, có nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền lảnh thổ Trung
Quốc ở Nam Hải. Từ đó, Trung Quốc luôn
luôn cũng cố tích cực sự hiện diện của mình
khắp các đảo và vùng biển tranh chấp.
Như
các sự cố này gợi ý theo Ross là ngõng trục chánh quyền Obama đã không góp phần
nào vào ổn định Á Châu. Trái lại : đã làm cho vùng này thêm căng thẳng và dễ xung đột nhau hơn . Các máy bay và tàu quân sự này tràn đầy không phận và biển cả trong
vùng. Hoa Kỳ bị lôi cuốn vào nguy hiểm
liên quan đến tình trạng thù địch trên
các đảo không có gì là chiến lược và biên tế kinh tế ( cho Hoa Kỳ ).
Ngõng trục –Đóng chốt lại càng phức tạp
thêm vì một môi trường chủ nghĩa dân tộc – quốc gia , không chỉ ở Trung Quốc mà
còn ở Nhật Bổn , Phi Luật Tân và Việt Nam. Hãy xem cái gì đã xảy ra tháng chín 2012, khi cảm xúc chống Trung Quốc ở Nhật đã làm áp lực
Tokyo mua đảo dây chuyền, cả hai nước đều cho là của mình
( Trung Quốc gọi là các đảo Điếu Ngư-
Điao yu và Nhật gọi là các đảo Lưu
Kiều ? – Senkaku ). Sau khi thống
đốc Tokyo là Shintaro Ishihara , một nhà họat động ra
mặt chống Trung Quốc, tỏ vẽ muốn mua các
đảo này , một việc chắc chắn sẽ gây hấn với Bắc Bình, Chánh phủ Nhật mua ngay chúng, thay vì chận đứng cuộc
mua bán. Tương tự Trường Sa, những đảo này không có gì mấy về chiến lược
và trị giá kinh tể cả. Tuy vậy , chuyễn
động Nhật này thách thức Trung Quốc về
chủ quyền các đảo và gây ra biểu tình
chống Nhật khắp Trung Quốc, làm ra những
phá họai ngu xuẩn doanh nghiệp Nhật và tài sản chánh phủ. Phản đối kịch liệt
tinh thần dân tộc – quốc gia này đưa Bắc Bình tới leo thang căng thẳng với
Nhật. Ít nhất là 14 tàu tuần dương Trung Quốc kéo theo hàng trăm tàu đánh cá tới các đảo,
sau khi chúng tiến vào các biển lảnh hải tranh chấp.
Trong lúc đó, Trung Quốc thách thức quyền lợi Hoa Kỳ ngòai Á Châu, vứt
bỏ hợp tác hai nước đã cố gìn giữ nhiều năm qua, dẫn tới chánh sách đóng chốt,
ngõng trục. Từ 2006 đến 2010, Trung Quốc bỏ phiếu năm lần các nghị quyết hội đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc trừng phạt Ba Tư - Iran và
năm 2012, Bắc Bình đe dọa phủ quyết trừng phạt Iran xuất khẩu dầu lữa. Sau
khi Hoa Kỳ , các nước Âu Châu và Nhật
Bổn độc lập thỏa thuận trừng phạt Iran xuất khẩu dầu lữa tháng giêng 2012, Bắc
Bình đạt thỏa hiệp với Tehran mua dầu
lữa Iran. Hơn nữa, Bắc Bình đã chận đứng các cố gắng Hoa Thịnh Đốn làm ngưng đổ máu ở Syria- Xi Ri, cản trở sáng kiến Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc và
ủng hộ Mạc Tư Khoa –Moscow hổ trợ
lảnh đạo Syria.
Họat động Hoa Kỳ tăng gia ở ngọai
vi Trung Quốc khiến cho Trung Quốc kết
luận rằng Hoa kỳ đã rời bỏ chiến lược tham dự- strategic engagement ,
nền tảng chánh sách Hoa Kỳ đối với Trung
Quốc kể từ chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Ngược lại các chánh quyền tiền nhiệm,
chánh quyền Obama đã gạt bỏ các quyền lợi
an ninh hợp pháp của Trung Quốc ở các vùng biên cương, gồm luôn cả những
vùng không khẩn thiết cho an ninh Hoa Kỳ. Bằng cách đe dọa và thách thức các
tuyên bố chủ quyền Trung Quốc trên các
lảnh thổ tượng trưng, Hoa Thịnh Đốn đã khuyến khích các nhà lảnh đạo Trung Quốc
tin tưởng là chỉ có cách chấp nhận những chánh sách thù địch là nâng cao được khả năng Trung Quốc
bảo đảm an ninh cho mình. Chính vậy
nên mới thành một khôi hài lớn của chánh
sách đóng chốt: một chiến lược làm ra để chận đứng một Trung Quốc đang vươn
dậy, đã làm phát lữa tính hiếu
chiến Trung Quốc và làm tai hại đến lòng tin vậy Tàu vào hợp tác.
Đóng chốt đã làm thiệt hại quyền lợi an ninh Hoa Kỳ rồi đó
và phí tổn chỉ có thể tăng gia. Nếu Hoa Thịnh Đốn tiếp tục đường lối hiện hửu
này, kháng cự Tàu đến các chánh sách Hoa
Kỳ tất nhiên phải gia tăng, ngăn cản hợp tác song phương những vấn
đề cực trọng, từ thương mãi đến ổn định
kinh tế tòan cầu. Nổ bùng chiến cuộc trong vùng có thể xảy ra thật sự, khi Trung Quốc cố đẩy
lui hiện diện Hoa Kỳ gia tăng ở biên
giới mình và các mối căng thẳng chủ nghĩa dân tộc giữa Trung Quốc và các nước chung sức cho an
ninh Hoa Kỳ trên những đảo tranh chấp
không có nghĩa gì cho Hoa Kỳ cả thảy.( nhưng lại quan trọng cho các quốc gia
nhỏ liên can như Phi Luật Tân và Việt Nam…) .
Ross kết luận : Hoa Kỳ có thể trả
lời ngọai giao cứng rắn của Trung Quốc với những chánh sách vừa giữ vững trật tự cho vùng, vừa tối thiểu cơ hội xung đột Hoa Kỳ - Trung Quốc. Trong những năm
tới, Hoa Thịnh Đốn phải tạo dựng lại hình dáng
chánh sách Á Châu hầu phục hồi nhất trí các chánh quyền trước: là tăng gia hiện diện Hoa Kỳ ở lục địa Đông Á
không khẩn thiết gì cả cho an ninh Hoa Kỳ
và Hoa Kỳ phải tránh vướng rối vào các tuyên bố chủ quyền phức tạp trong
vùng. Vì lý do Hải Quân Hoa Kỳ vẫn sẽ ngự trị trên các biển Á Châu, Hoa kỳ có thể làm an tâm các đồng minh về ý chí cương quyết chống lại Trung Quốc làm mất cân
bằng , trong khi bình thản rút khỏi các tranh
chấp biển và giảm bớt sự hiện
diện của mình ở các biên cương Trung
Quốc. Khi Trung Quốc vươn dậy, một chánh sách
kiềm chế, hơn là gây hoang mang, sẽ
phụng sự an ninh quốc gia Hoa Kỳ tốt
đẹp hơn .
( Irvine, Nam Ca Li – Hoa
Kỳ, ngày
17 tháng 11 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét