Biết rõ hơn để gìn giữ, bảo vệ:
Hà Giang, một tỉnh địa đầu cực Bắc( Đông Bắc ), dân Kinh là thiểu số
G S Tôn Thất Trình
Ai ơi nên biết nước nhà :
A Pa Chải (*) phía sông Đà cực Tây,
Cực Nam
Xóm Mũi , Rạch Tàu,
Cực Bắc Lũng Cú, Đồng Văn cổng trời,
Cực Đông Hòn Gốm, Đồng Môn
Tâm Đạo
(*) A Pa Chải
thuộc tỉnh Lai Châu, Xóm Mũi- Rạch Tàu tỉnh Cà Mau, Lũng Cú- Đồng Văn tỉnh Hà Giang, bán đảo Hòn Gốm – Đồng Môn tỉnh Khánh Hòa ?- Phú Yên)
Vị trí
Hà Giang là một
tỉnh miền núi cao, nằm ở biên giới tổ quốc vùng Đông Bắc Việt Nam ; vĩ độ Bắc 220 10’
– 230 23’ và kinh độ Đông 104020’
– 105034’. Bắc giáp Trung Quốc
trên chiều dài đường biên giới 274km thuộc các huyện Xín Mần, Hòang Su
Phì, Vị Xuyên, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc. Nam giáp Tuyên Quang.
Đông giáp Cao Bằng. Tây giáp Lào Cai, Yên Bái. Diện tích tự nhiên tòan tỉnh là
7884. 37 km2 ( theo Wikipedia năm 2012 là
7945.8 km2 ). Dân số cuối năm 1999 là 609 082 người ; năm 2002
là 637 700 người, năm 2008 là 705 100
người và năm 2012 có lẽ đã trên 750 000
người. Thị xã tỉnh lỵ là Hà Giang, cách thủ đô Hà Nội 320km trên
đường quốc lộ số 2 . Cũng trên quốc lộ 2 là thị trấn cửa khẩu Thanh Thủy qua Trung Quốc, cách thị xã
Hà Giang 25km. Ngòai Thanh Thủy, Hà Giang còn 3 cửa khẩu nhỏ hơn qua Trung Quốc
là Phó Bảng , Xín Mần và Săm Pun. Năm
2008 , thành phần nữ nhiều hơn nam, và dân nông thôn chiếm 625 500 người so với dân thành thị chỉ có 79
600 người ( chừng 12 % dân nông thôn ). Dân Kinh(
Việt ) ở tỉnh chỉ chiếm khỏang 11 %
tổng số dân tỉnh, số lượng đứng hàng thứ tư sau các tộc dân H’Mông - Mèo, Tày , Dao( Mán ). Hiện tỉnh nhà có 22 tộc dân thiểu
số, đông nhất theo thứ tự là H’Mông( chừng 30% ), Tày ( trên 26% ) , Dao ( trên
15 % ), Nùng ( gần 10% ), Giáy, La Chí, Hoa và Lô Lô, Thổ, Mường.... Số dân hai tộc dân hiếm hoi là Pu Péo và Phù Lá ít hơn 400 người ở Hà Giang, đang giảm dần.
Ngôn ngữ các tộc dân thiểu số thuộc nhóm
H’ mông – Dao là H’Mông, Kim Mun, Pa Thèn ( PaHng ? ) ở Bắc Quang , Quang
Bình; nhóm Tày –Thái là Nùng, Tày,
Giáy ở Yên Minh, Đồng Văn; nhóm Kra (
Cờ Lao ? ) là Gelao đỏ ở Yên Minh, Gelao trắng ở Đồng Văn, Pu péo ( Qabiao ? )
cũng ở Đồng Văn, La Chí ở Hòang Su Phì, Xín Mần, Bắc Quang; nhóm Tạng – Miến là Lô Lô đỏ ( Mán Tây –
Mantsi ? ) ở Mèo Vạc, Yên Minh, Lô Lô Hoa ( Flowery Lolo ? ) ở Mèo Vạc, Đồng
Văn, Lô Lô Trắng ở Mèo Vạc.
Phân chia hành chánh
Theo dòng thời gian, lịch sử địa phương .
Khai quật khảo cỗ ở Đồi Thông gần thị xã Hà Giang cho
biết tỉnh đã có người cư trú khỏang ít nhất 11 000 -30 000( ?) năm rồi, thuộc thời
đại đồ đá văn hóa Sơn Vi, tập trung ở gò đồi Vĩnh Phú, trải dài từ Lào Cai, Lục
Ngạn qua Hà Nội xuống đến Nghệ Tĩnh; công cụ chế tác từ đá cuội, quartzit. Văn
hóa- văn minh Sơn Vi như chúng ta đã biết tiếp lên văn hóa Hòa Bình -Bắc Sơn, phát hiện thành tựu đáng kể của các nhà khảo
cỗ Pháp vào thập niên 1920, với hơn 150 di tích phát hiện ở nước nhà ( hàng vạn
di vật bằng đá cuội ghè đẻo thành những
công cụ hình hạnh nhân, hình tròn, rìu ngắn, rìu dài, và đặc biệt là rìu mài lưỡi …). Vào thời đại
Đồng Thau ( văn minh Sông Hồng - Phùng Nguyên – Đồng Dậu – Gò Mun -Đông Sơn),
các tộc dân Tày Yu ( ? ), đã ngự trị vùng này theo khám phá các trống đồng thau
cho tế lễ, vẫn còn được các tộc dân Lô Lô và Pu Péo sử dụng ngày nay, đặc biệt
ở Mèo Vạc; trưng bày ở bảo tàng trung tâm thị trấn Hà Giang và viện bảo tàng
lịch sữ Hà Nội.
Thời lập quốc, Hà Giang thuộc bộ
Tân Hưng , một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Thời Việt Nam Minh thuộc, đầu thế kỷ thứ 15, thuộc
huyện (? ) Bình Nguyên rồi từ năm 1473 lấy luôn tên châu Bình Nguyên; sau đó đổi thành tên châu Vị Xuyên. Cuối thế kỷ
thứ 18, gia đình “Vua (? ) H’ mông – Mèo” họ Vương, cai quản
hai khu vực gần biên giới Trung Quốc là Đồng Văn và Mèo Vạc được các vua nhà Nguyễn Phước ( từ vua Minh
Mạng ? ) phong tập ấm với chức hàm tri châu – tri huyện là Bang Tá. Pháp
chiếm Hà Giang năm 1886 , thiết lập một
đồn binh ở bờ phía đông sông Lô. Năm
1905 đồn binh này là một trong 4 căn cứ
quân sự chánh của Đông Pháp – French Indochina
ở Bắc Việt. Năm 1901, thời Pháp thuộc hai tù trưởng tộc dân Dao là Triệu Tiến
Kiến và Triệu Tài Lộc nổi lên chống Pháp
và bị dẹp tan. Triệu Tiến Kiến bị giết ở chiến trận. Năm 1913, Triệu Tài Lộc
tái tổ chức nổi lọan cùng với Triệu Tiến Tiến cùng chung một bộ lạc Dao, kéo dài 2 năm cho đến năm 1915. Cuộc nổi dậy lấy danh hiệu là ‘Quốc Bạch Kỳ - White
Flag of the Fatherland” , Pháp gọi là
“Giặc Cờ ( Nón, Mũ ) Trắng- White Flag, White Hat Revolt” . Nổi
dậy lan rộng đến Tuyên Quang, Lào Cai và Yên Bái. Pháp đàn áp dữ dội cuộc nổi lọan, đày xa rất
nhiều dân Kinh tham gia nổi lọan và treo cổ 67 “lọan quân – rebels’.
Pháp ủng hộ các “vua H’ Mông” hầu giữ
cho các vùng biên giới khỏi lọt vào tay Trung Quốc. Năm 1900, Vương Chính Đức
được công nhận là vua xứ Mèo – H’Mông. Trung thành của “Vua” Mèo đã thể hiện rỏ
rệt, giúp Pháp dẹp yên các bộ lạc nổi lọan sau đó, đặc biệt là các bộ lạc Dao (
Mán ). Pháp tưởng thưởng công trạng này, phong cho Vương Chính Đức cấp bậc thiếu
tướng ( ? ) quân đội Pháp. Nhưng vì dân
Việt Nam
chống đối Pháp thuộc địa mỗi ngày một gia tăng, “ vua Mèo” ngã về trung lập. Vương Chú Sển, nối “ ngôi” ( tập ấm
) cha chết năm 1944, trái lại cam kết ủng hộ ông Hồ Chí Minh kháng chiến 1940 –
54 . ( phần lớn chi tiết lịch sử này viết theo nguồn Wikipedia- 2012 ) .
Năm 1900, tỉnh
Hà Giang được thành lập đầu tiên theo sự chia tỉnh Tuyên Quang. Khi đó tỉnh Hà
Giang gồm phủ Tương Yên và 4 huyện :
Vĩnh Điện( do phủ quản lý ), Để Định, Vị Xuyên và Vĩnh Tuy. Năm 1976, sau khi
đất nước thống nhất, Hà Giang hợp cùng Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên. Năm 1991, Hà Tuyên lại
tách ra làm hai tỉnh : Hà Giang và Tuyên Quang.
Hiện nay, Hà
Giang gồm một thành phố thị xã là tỉnh lỵ
Hà Giang và 10 huyện: Bắc Mê huyện lỵ hay thị trấn là Yên Phú, Bắc
Quang hai thị trấn là huyện lỵ Việt
Quang và Vĩnh Tuy, Đồng Văn hai thị trấn là
huyện lỵ Đồng Văn và Phố ( Phó) Bảng, Hòang
Su Phì huyện lỵ là Vinh Quang, Mèo Vạc
huyện lỵ là Mèo Vạc, Quản Bạ
huyện lỵ là Tam Sơn, Quang Bình chưa
có thị trấn, Vị Xuyên hai thị trấn là
huyện lỵ Vị Xuyên và Việt Lâm , Xín Mần
thị trấn huyện lỵ là Cốc Pài, Yên
Minh thị trấn huyện lỵ là Yên Minh.
Thị xã Hà Giang có 4 phường, 4 xã. Tổng số xã tỉnh nhà là 178. Nhiều xã nhất là huyện Bắc Quang ( 31 xã ). Diện
tích huyện lớn nhất là Vị Xuyên: 1452 km2
, nhỏ nhất là Đồng Văn: 447km2 . Đông dân nhất là Bắc Quang
103 0634 người, ít dân nhất là Quản Bạ
39 821 người. Người H’ Mong chủ yếu sống
ở vùng núi cao từ 700 m trở lên, nơi địa thế hiểm trở, giao thông đi lại
đặc biệt khó khăn, thuộc các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ và một
số xã các huyện Bắc Mê, Hòang Su Phì, Xín Mần. Người Tày sinh sống ở vùng đồi núi thấp, tập trung ở hai huyện Vị
Xuyên và Bắc Quang. Người Dao cư trú ở
địa bàn khá rộng dọc biên giới Việt Trung, cao độ 400m. Người Nùng sống tập
trung ở hai huyện đất đai vùng cao phía
Tây là Hòang Su Phì và Xín Mần. Địa bàn cư trú người Kinh rất rộng, song chủ
yếu tập trung ở trung tâm các huyện thị tỉnh nhà.
Địa hình, đất đai
Là một tỉnh miền
núi cao, địa hình Hà Giang rất phức tạp, khí hậu ôn đới nhưng thời tiết địa
phương miền núi tạo ra nhiều vùng khác biệt nhau, nhiều dãy núi cao và cao sơn
nguyên, trong đó có các đỉnh cao trên 2000m so với mặt biển như Tây Côn Lĩnh 2418m , Kiều
Liêu Ti 2402m, Pu Tha Ca 2274m. Trung bình
tòan tỉnh độ cao từ 800 đến 1200m . Phía Bắc và Tây Bắc cao nhất, phần trung tâm và phía Nam tỉnh thấp nhất độ cao chỉ từ
80- 100m .
-
Phía Bắc là vùng
núi đá vôi, gồm địa phận các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc
chiếm 28.4 % tổng diện tích. Độ cao trung bình
từ 1000 đến 1600m . Vùng núi cao
này chạy theo hướng từ Bắc - Tây Bắc, thấp
dần về Nam – Đông Nam chủ yếu cấu tạo là đá vôi và đá granit, nằm giữa hai cánh cung Ngân Sơn, từ Bắc Kạn lên tới Đồng Văn dọc phía Tây
thung lũng Sông Cầu và cánh cung sông Gâm
( có khi gọi là sông Gấm, sông Gầm ) từ
Tuyên Quang lên tới Hà Giang. Địa hình hiểm trở các đỉnh núi cao nhọn chia cắt lớn, vách dựng
đứng, độ dốc trên 250 và
những thung lũng hẹp đi lại khó khăn, nguồn nước cho sinh họat và sản xuất khan
hiếm. Trên cao nguyên đá Đồng Văn có điểm cực Bắc của Việt Nam là Lũng Cú
mệnh danh là” nóc nhà Việt Nam” nơi “ cúi
mặt sát đất , ngẩng mặt đụng trời”
trong vùng có nhiều hang động cácxtơ ( karst )
đẹp như Động Én, Yên Minh và nhiều cảnh quan hùng vĩ như Cổng Trời Quản Bạ , Cổng Trời Đồng Văn .
- Phía Tây là vùng đồi núi cao của hai huyện Xín Mần,
Hòang Su Phì và một số xã vùng cao hai huyện Vị Xuyên và Bắc Quang, chiếm 18.3 % tổng diện tích. Vùng đồi núi này đất
pha cát, cao độ trung bình từ 900 – 1000m, xen kẻ là khối núi thượng nguồn
sông Chảy với nhiều đỉnh cao đã kể trên
như Tây Côn Lĩnh, Kiều Liêu Ti. Địa hình cũng bị
chia cắt mạnh, có nhiều sườn dốc, lũng sâu. Hiện tượng bào mòn, rửa trôi, đất
lở, đất trượt diễn ra nghiêm trọng vào mùa mưa, cản trở sản xuất và sinh họat.
- Vùng đồi núi thấp gồm thị xã Hà
Giang, các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê , chiếm 53.3 % diện tích tòan
tỉnh. Vùng đồi núi này thấp, cao độ trung bình từ 80 đến 400m, sườn thỏai, xen
kẽ các thung lũng rộng. Quốc lộ 2 nối liền các huyện trong vùng với thị xã Hà
Giang cho tới cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy. Trong vùng cũng có nhiều cảnh quan
đẹp và các hang động cácxtơ để phát triễn du lịch như động và suối Tiên, hang
Phương Thiện, hang Dơi, hang Làng Lò, hang Chui ( thị xã Hà Giang ).
Đại thể đất đai Hà Giang cũng như
địa hình phức tạp vì được hình thành từ các lọai đá mẹ khác nhau :
-
Đất fêralit các
dạng địa hình vùng núi đá vôi. Canh tác từ lâu đời, không biện pháp bảo
vệ nên
diện tích bị bào ( xói ) mòn, rửa trôi mạnh, lộ đá gốc. Đất bạc màu,
thiếu nước thường xuyên nên thời gian canh tác trong năm bị hạn chế.
- Đất
fêralit
trên các đá phun trào, đá biến chất hay
các đá trầm tích khác, phổ biến ở
vùng đồi núi cao phía Tây. Tầng đất dày, pha cát, độ chua lớn, dễ bị rữa
trôi thành đất bạc màu, khả năng giữ nước kém cỏi, ít thuận lợi cho trồng trọt.
-
Đất mùn vàng đỏ
trên núi, tỉ lệ mùn tầng mặt tương đối lớn. Nhưng vì độ dốc lớn, chỉ để
dành cho lâm nghiệp hay các cây công nghệ
đa niên đa tầng tương tự rừng trồng.
-
Đất phù sa sông
suối các thung lũng. Đất thường màu xám, sẩm, hơi đen, tơi xốp và thóang
khí. Đây là nhóm đât tốt cho sản xuất
nông nghiệp
Thủy văn
Lượng mưa lớn (
2500mm / năm ) kết hợp chia cắt mạnh địa hình, giúp cho tỉnh có mạng lưới dòng chảy bề mặt khá dày. Các dãy núi cao phía Bắc và Tây Bắc là nơi
bắt nguồn nhiều phụ lưu quan trọng thuộc
các sông lớn Hà Giang như sông Lô, sông
Gâm và sông Chảy. Các sông thường có độ dốc lớn nên họat động đào lòng mạnh,
khả năng tập trung nước mau lẹ. Mùa lũ, dòng chảy lớn, cuốn trôi cả những tảng
đá lớn, làm bờ sông dễ bị xói lở. Thung lũng các sông Hà Giang, nằm ở thượng
lưu, lại chảy giữa các dãy núi nên
thường hẹp. Thủy chế chia làm 2 mùa rỏ rêt. Mùa mưa chiếm 75-85% tổng lượng nước cả năm. Mưa lớn gây lũ, đe
dọa tới đồng bằng hạ lưu. Cần có biện
pháp khôi phục, bảo vệ vốn rừng, tạo thăng bằng sinh thái, điều tiết dòng chảy
sông ngòi.
Ba sông chính Hà Giang là :
-
Sông Lô bắt
nguồn từ Vân Nam – Trung Quốc, chảy vào Hà Giang ở xã Thanh Thủy huyện Vị
Xuyên, qua Thị xã Hà Giang, suôi dòng về Tuyên Quang, Phú Thọ và gặp sông Hồng ở Việt Trì. Đọan chảy ở địa
phận Hà Giang lòng nhỏ, nhiều thác ghềnh.
Sông Lô tại TP Hà Giang |
-
Sông Gâm bắt nguồn từ vùng Nghiêm Sơn -Trung Quốc, chảy qua các mõm
cực Bắc Hà Giang, các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Bắc Mê đến huyện Na
Hang, Chiêm Hóa, đổ vào sông Lô tại Tuyên Quang. Ở Hà Giang, sông Gâm quanh co,
nhiều đọan chảy ngầm trong lòng núi.
Sông Gấm- Bắc Mê - Hà Giang |
-
Sông Chảy bắt nguồn từ đường chia nước Tây Côn Lĩnh,
chảy qua các huyện Hòang Su Phì, Xín Mần và Bắc Quang. Ở Hà Giang lòng sông
nhỏ, độ dốc lớn, nhiều hẻm vực, nước chảy xiết. Sông Chảy xuôi dòng về Yên Bái,
Phú Thọ rồi nhập sông Lô ở Đoan Hùng.
Sông ngòi Hà Giang có giá trị lớn về thủy điện. Đồng thời là nguồn cung cấp nước
quan trọng cho đời sống và sản xuất. Nhưng vì phần lớn sông, suối có độ cao
thấp hơn địa bàn cư trú, nên nhiều nơi thiếu nước nghiêm trọng. Sông lại có
nhiều thác ghềnh nên ít có giá trị về giao thông.
Khí hậu
Khí hậu Hà Giang có những đặc
tính chung khí hậu miền Bắc, mùa hè nóng ẩm mùa đông khô hanh và lạnh. Khối núi
thuộc cánh cung sông Gâm ở phía đông phân hóa phức tạp khí hậu đem lại nhiều
sắc thái riêng biệt. Nhiệt độ trung bình trong năm khỏang 18-250C.
Nóng nhất là các tháng 6,7,8 , trung bình 27.70C. Lạnh nhất là các
tháng 12, 1, 2 , trung bình 150C. Tổng số giờ nắng trung bình là
1400 giờ. Lượng mưa trung bình cao 2500
mm, tập trung 75-85% vào các tháng mùa
hè , từ tháng 4 đến tháng 10. Mưa nhiều nhất vào các tháng 6,7,8. Ở vùng núi
cao từ 700m trở lên, nhiệt độ hạ thấp đáng kể, trung bình chỉ 15- 160C;
mùa đông thường kéo dài tới 6-7 tháng vào tháng chạp và tháng giêng , tiết trời
gía lạnh nhiệt độ có khi xuống dưới 00C. Ở các thung lũng và lòng
chảo khuất gió, nên lượng mưa giảm nhiều khiến thời gian khô hạn kéo dài 4- 5
tháng. Các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Hòang Su Phì, Xín Mần, lượng mưa
ít nhất tòan tỉnh, chỉ chừng 1200mm. Mùa đông ở đây thường có sương muối và băng giá. Vùng núi thấp dưới
700m, nhiệt độ trung bình cao hơn trên 220C, mùa đông có 3 tháng
nhiệt độ chưa tới 150C, mùa hè có
5 tháng nhiệt độ trung bình trên
250C. Lượng mưa trung bình thị xã Bắc Giang là 2430mm/năm, đặc biệt lượng
mưa Bắc Quang lên tới 4800mm/năm.
Thảo mộc và động vật
Năm 2000, diện tích rừng cả tỉnh
còn gần 290 000 ha, trong số này gần 22 000 ha
là rừng trồng. Độ che phủ rừng là 36%, đưa Hà Giang đứng đầu các tỉnh Đông Bắc về
diện tích rừng cũng như rừng tự nhiên. Hà Giang có nhiều khu rừng nguyên sinh
và 3 khu bảo tồn thiên nhiên: Bắc Mê với
diện tích 15 000 ha, Du Già 20 000 ha và Tây Côn Lĩnh 19 000 ha.
Ruộng vườn và trâu bò, súc vật nuôi thường thấy ở độ cao dưới 800m. Từ
800 m (2600 bộ Anh ) đến 950m ( 3120 bộ Anh ) là cỏ hòa bản- grasses và cây lùm bụi – wood shrubs ( cây cao
nhất chỉ chừng 3m ( 9.8 bộ Anh ). Lớp phủ
thực vật trong rừng núi có cấu trúc đai cao rỏ rệt. Dưới chân núi là các lòai
ưa ẩm và nhiệt như chò chỉ Parashorea
chinensis, táu( táu mật ) Hopea
chinensis và các lọai thực bì thứ sinh như tre nứa, giang, vầu . Ở độ cao
1000 dến 1600m là sồi- dẽ ( Lithocarpus bonnettii , L. corneus, L. echinotholus, L. fenestratus
. L. findettii, L. fordianus …, và nhiều lòai họ dẽ khác Fagacea khác, như dẽ Cao Bằng Castanea
mollissima, dẽ Phăng xi Păng Castanea
phansipanensis , dẽ Tuyên Quang Castanopsis
cerabrina… ). Lên cao hơn nữa là rừng
hỗn giao lá rộng- lá kim như các
lòai kim giao, pơ mu, pê mu ( Podocarpus
sp. ) . Rừng đai cao trên 1000m thường là rừng rậm, 80% tàn cây khép kín, các
tầng dưới đầy dây leo lớn chằng chịt, dương xĩ thân mộc – tree ferns và
các lòai đổ quyên- rhododendrons .
Chuối, tre, nứa và lùm bụi thứ sinh cũng mọc mạnh mẽ hai bên các lối mòn đuờng
đi bộ trong rừng. Đặc biệt trên cao hơn
1100m như ở mặt Đông Bắc núi Mương Cha
là ghềnh núi đá vôi cheo leo, còn
sườn Tây Nam
lại thoai thỏai và đã chuyễn hóa thành ruộng vườn, nương rẫy. Trên 2000m là
rừng núi hổn tạp giữa rừng lá sớm rụng và rừng
luôn luôn xanh mây phủ. Đây là lọai rừng các tầng dưới có nhóm cây thuộc
họ Đổ Quyên Ericaceae cây lùm bụi tầm
gửi các lòai Đổ Quyên- Rhododendron
và Sơn Trâm- Vaccinium. Ở lọai
rừng này còn đếm thêm được các lòai họ
Long Nảo Lauraceae, họ Lài Oleaceae. Cao hơn nữa sẽ gặp các lòai họ sồi dẽ Fagaceae, họ Cơm nguội Myrsinaceae
và họ Đinh Lăng Araliaceae. Thân cây
mộc phần lớn đều có rong rêu phủ dày. Rừng Hà Giang còn chứa hàng nghìn lọai
cây dược liệu quí hiếm.
Về động vật, tỉnh đã phân lọai
được 16 loài bò sát ( 14 tông chi và 5 họ ) và 36 lòai lưỡng cư ( 20 tông chi
và 7 họ ). Tỉnh còn bắt gặp nhiều lòai động vật hoang dã khác như vọoc mũi hếch, trĩ đỏ, khỉ, hổ ( cọp) công, tê tê và hàng trăm loài chim chóc khác.
Khóang sản
Tài nguyên khóang sản Hà Giang
chưa được thăm dò đầy đủ. Nhưng nhìn chung
đã khá đa dạng, phong phú với 28 kim lọai khác nhau, tập trung trong 149 mỏ và
điểm quặng. Các khóang sản khai thác được cho phát triễn kinh tế tỉnh là:
-
Ăng ti moan, hàm lượng khá, chế biến tập trung ở Mậu
Duệ, Bó Mới ( huyện Yên Minh).
-
Vàng sa khóang, trử lượng sơ bộ năm 2000 chừng 1000 kg, phân bố ở nhiều nơi từ Mèo Vạc qua Bắc Mê , Vị Xuyên đến Bắc
Quang, nhưng tập trung nhiều hơn cả là ở Tiên Kiều và Bình Vàng.
Hà Giang còn có
mỏ sắt, mang gan, thủy ngân, thiếc, đồng, bô xít, quí kim và nước khóang, nhưng
trử lượng nhỏ lại phân tán, phương tiện khai thác thủ công, bán cơ giới nên
năng xuất và hiệu quả thấp. Tỉnh có đá vôi để sản xuất xi măng, nhưng trữ lượng
không lớn. Đá, cát, sõi, đất làm gạch có
thể khai thác đủ phục vụ cho nhu cầu địa phương.
Phần II:
Lạm bàn phát triển Hà Giang
Từ khi
tái lập tỉnh năm 1991, điểm kinh tế xuất
phát thấp kém chủ chốt là nông nghiệp lại manh mún ,qui mô nhỏ, kỷ thuật canh
tác lạc hậu, điều kiện thiên nhiên ít thuận lợi, sản phẩm không đáp ứng nổi nhu cầu nhân dân tỉnh nhà về số lượng lẫn
chất lượng. Đến năm 2000, thống kê cho biết tòan tỉnh có 117 xã trong tổng số 1718 xã thuộc diện nghèo đói, tập trung ở các huyện vùng
cao phía Bắc và phía Tây như Hoàng
Su Phì ( 25 trong số 26 xã ), Đồng Văn (
17 trong 18 ), Quản Bạ( 10 trong 11), Bắc Mê ( 10 trong
13 ). Số hộ nghèo đói năm 2000 lên đến
25 015 hộ chiếm 22 % tổng số hộ dân tỉnh. Bá cáo chương trình IFAD ( Cơ quan
Quốc tế phát triễn Thực Phẩm và Nông Nghiệp liên kết với Lương Nông Quốc tế -
FAO, Liên Hiệp Quốc) ở vài huyện chương
trình họat động năm 2004 các hộ nghèo đói vẫn còn chiếm 21 % tổng số,
số trẽ em dưới 5 tuổi thiếu dinh duỡng
lên đến 77 %. Bình quân thu nhập đầu
người năm 1999 ở Hà Giang chỉ bằng 0.32
của cả nước và 0. 63 % của cả vùng Đông Bắc . Năm 1991 nông lâm ngư nghiệp chiếm 79% GDP tỉnh nhà, công
nghiệp – xây dựng chiếm 6. 7 % và dịch
vụ 13.8 % . Nhưng các năm 1998-1999,
dịch vụ mỗi năm tăng lên đến 27- 28 %
GDP và tỉ lệ
nông nghiệp giảm xuống chỉ có 51 – 52 %
ở các năm này.
Dịch vụ du lịch dựa trên danh lam thắng cảnh
Hà Giang mảnh
đất địa đầu cực Bắc của của Tổ Quốc, có
những ngọn núi cao lưng trời, nhiều con sông ngọn suối, tiềm năng du lịch lớn chưa
được khai thác bao nhiêu cả. Tài nguyên du lịch thiên nhiên đáng kể trước
tiên là các hang động cácxtơ như hang Dơi , hang Làng Lò , hang Phương Thiện,
hang Chui cách thị xã Hà Giang 7 km về phía Nam, động Én ở huyện Yên Minh.
Thảy đều là các hang động thiên nhiên, tuy còn hoang sơ nhưng đầy vẽ đẹp
kỳ lạ.
Cảnh quan
quanh thị xã Hà Giang ( Hà Biang ? ) thật sự hấp dẫn. Hà Giang là một thị trấn nhỏ bé, dân số chỉ
chừng trên 50 000 người ( năm 1999 có 37
235 người thuộc đô thị lọai 4 lọai áp chót nước nhà ), năm 1979 lại bị Trung Quốc phá tan tành,
không khác gì nhà Thanh ( trị vì nước
Tàu từ năm 1644 đến năm 1911) do vua Càn Long hay Khang Hy ? sai khiến, đã tàn phá tỉnh Quế Lâm- Trung Quốc mấy trăm năm trước, khiến nhiều tộc dân địa
phương Trung Quốc vùng này, đặc biệt là
tộc dân Miêu ( H’ mông, Mèo ) phải di cư
xuống cư trú Việt Nam . Nay thị xã Hà Giang đã hòan
tòan khôi phục lại như xưa nhưng nên đô thị hóa mạnh thêm hơn nữa dựa về công nghệ, dịch vụ gíáo dục, y
tế, giao thông , viễn thông , ngọai thương với Trung Quốc, ngân hàng v.v… hướng
nhiều về du lịch, một tài nguyên tỉnh nhà chưa phát triễn. Hà Giang nằm trong
thung lũng sông Lô, chảy qua bốn bề núi đồi hùng vĩ : núi Đồi Thông, Chum Vàng, Chum
Bạc… Cách thị xã 2km, còn có suối và động Tiên , một thắng cảnh đã
nổi tiếng rồi. Tương truyền, xưa kia các tiên nữ thường xuống động này tắm vào dịp Tết. Nhân
dân quanh vùng ( nay luôn cả dân vùng
thủ đô Hà Nội ? ) vẫn đến đây lấy nước
rửa và uống, cầu may mắn vào đêm giao
thừa.
Cổng trời nhìn xuống Tam Sơn, Quản Bạ, Hà Giang |
“Cổng trời Đồng Văn”, ở huyện Đồng Văn
cực Bắc, nằm ở cao độ 1000m trên mặt biển, địa hình chỉ thấy núi đá. Bầu trời quanh năm hầu như chỉ có mưa và mù.
Dân gian Đồng Văn nói: “ Thấy nhau trong
tầm mắt, gặp nhau mất nữa ngày” và “ đất
không ba bước bằng, trời không ba ngày nắng”. “Cổng trời “ Đồng Văn chứa điểm cực Bắc nước nhà là Lũng
Cú. Lũng Cú cũng như nhiều nơi huyện Đồng Văn dọc theo sông Nho Quê, một
phụ lưu sông Gâm, thời Pháp thuộc là
vùng quân sự đồn binh quân đội Pháp thuộc địa, ít ai được phép bén mảng tới.
Nay thì ai chưa đến Lũng Cú thì xem như chưa đến Đồng Văn. Lũng Cú hiện có
một đồn binh quân đội mình, có tháp canh gác treo cờ Việt Nam, thể hiện chủ quyền độc lập nước nhà, đồng thời cũng có nhiệm vụ
thi hành thỏa thuận biên giới Việt -Trung ra sức giữ vững ổn định và hòa
hiệp hai nước.
Một “cổng trời”
khác là Quản Bạ, núi non trùng điệp bao quanh thung lũng Quản Bạ, cách Hà Biang ( Giang ) 45 km ( 28 dặm Anh ).
Trên đỉnh ở cao độ 1945.8 m, nay đã thiết lập một đài truyền
hình ti vi. Đáng nêu lên là đồi
núi Cô Tiên , khí hậu mát mẽ quanh năm, nơi nghĩ mát lý tưởng không thua
kém gì Sa Pa ,
Tam Đảo. Trên đèo Quản Bạ , nhìn thấy Thạch Nhủ Đôi- Double Stalagmite ,
còn gọi là “ Đôi Vú Đá – Hai Gò Bồng
Đảo- Two Stone Breasts” ở thung lũng phía
dưới. Rừng cây và đồng cỏ phủ tràn thung
lũng, nơi nhiệt độ cũng rất mát mẽ từ 100
C ( 500F ) mùa đông đến
240 C ( 750F ) mùa hè.
Du lịch nhân văn
có ý nghĩa nhất là
-
Đồi Thông, khu
di chỉ khảo cổ học nằm ngay ở thị xã Hà
Giang. Tại đây hàng ngàn di vật thời tiền sử ( văn minh Sơn Vi, một trong những văn hóa sớm nhất nước ta ) đã được
khai quật, trưng bày tại hai bảo
tàng Hà Giang và thủ đô Hà Nội, như đã kể trên.
-
Thị trấn Đồng Văn
năm trong thung lũng Cao nguyên Đá - Rock Plateau Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang, là nơi lịch sử giao duyên lâu ngày của 4 tộc dân
Hoa - Tàu , H’Mông – Mèo, Tày và Kinh - Việt. Họ chia sẽ vài tập quán sinh họat văn hóa truyền
thống, nhưng cũng giữ lại vài sắc thái riêng biệt tộc dân mình. Có lẽ đó là
nguồn gốc tên thị trấn Đồng Văn chăng ?
Thị trấn Đồng Văn cách Sà Phìn 16 km ( 9.9 dặm Anh ) và cách biên giới 3km (
1.9 dặm Anh ), trên cao độ 1235m là vùng sinh sống của hai tộc dân đa số tỉnh
nhà: Tày và H’Mông. Vùng cao này nổi tiếng về trái cây xứ mát như mận tây- plum Hậu, đào lông -
peach Mèo và hồng trái – kaki, persimmon không hột, cũng như cây
dược phẩm sâm- ginseng địa phương, quế - cinnamon và hồi- anis… Các nhiếp ảnh viên và các tay giang hồ bạt
xứ mới hay đến Đồng Văn tìm phong cảnh lạ, từ chiều thứ bảy để đi chợ
trời dân tộc ít người
, sáng sớm hôm sau và trở về Hà Nội ngay chủ nhật
hôm đó . Họ không rỏ là quanh chợ Đồng Văn là một khu phố cổ ( cũ ) nhà cửa xây
cất đã một hai trăm năm rồi của ba tộc dân Hoa , Mèo, Tày và Việt. Các nhà
xưa cổ Đồng Văn được xây dựng các năm
1810 – 1820 ( thời vua Gia Long ? ), trong khi nhà “ mới”chỉ
xây cất vào cuối thế kỷ thứ 19, khi Pháp
thực dân chiếm vùng này và thiết lập nền
cai trị bản xứ. Nhà cổ đều 2 tầng, lợp ngói âm dương- ying yang và tường xây bằng đất đập vụn. Tường dày 30- 60cm, giúp nhiệt độ trong nhà ổn định. Kiến
trúc xây cất bằng gỗ lim – iron wood
chịu đựng được tàn phá thời gian, vách
rêu phong lớp mặt rất thích nghi cảnh
quan xám xịt suốt năm thật kỳ lạ của Cao Nguyên Đá Đồng Văn. Cuối đường hai bên dãy nhà phố cỗ, một phía
dẫn tới thị trấn Yên Minh, phía kia tiến
về đèo Mã Pì Lèng đẹp đẻ và thị trấn Mèo Vạc. Mèo Vạc ở cao độ 1500m
( 4900 bộ Anh ) là một thị trấn trên thung lũng sông Nho Quê, một con sông bên kia bờ là biên giới với Trung Quốc, lai vảng còn bị
quân sự giới hạn. Con đường ngang qua
đèo Mã Pí Lèng từ chợ Đồng Văn đến thị trấn Mèo Vạc dài 25.5 Km (14 dặm Anh), theo nhiều người
ngọan mục nhất nước, nhưng nhỏ hẹp và
nguy hiểm giao thông, dưới núi là
vực sâu
cách đèo 2600 bộ Anh (gần 870m ) nơi dòng sông Nho Quê uốn lượn. Làm
đường này năm 1959 phải mất đến 11 tháng, nhiều người chết.
Chợ Sà Phìn |
Sà Phìn
là một thị trấn bé tí xíu ở xã Sà phìn cũng thuộc huyện Đồng Văn, cách biên
giới Trung Quốc 2 km. Đặc điểm là khỏang
20 căn nhà quái dị, hai tầng xây cất theo kiểu người Hoa, gạch màu vàng và mái
kiểu Tàu. Khu dinh thự họ Vương ở xã Sà Phìn là một gia
tài kiến trúc cột mốc độc đáo vùng Đông
Bắc, đã được xếp vào di sản văn hóa nước nhà năm 1993. Dinh cách thị xã Hà Giang về phía Tây Bắc 145
km ( 90 dặm Anh ) và 24 km ( 15 dặm Anh)
phía Tây Nam huyện Đồng văn . Dinh được họa
kiểu theo kiến trúc cuối đời nhà
Thanh -Qing dynasty, chia ra 3 mặt: tiền, trung và hậu. Gồm 6 xây cất theo
chiều dài và 4 phía góc, hai tầng, 64 phòng và 1120m( 3670 bộ Anh ) khoảng trống. Hai vòng thành bao
bọc dinh, xây bằng đá hộc có gắn lỗ châu mai. Giữa hai vòng thành là một dãi
đất rộng 50m, trồng tòan trúc. Thành dài 0.6 km , rộng 0.9 m và cao 2.5- 3 m.
Dinh có 3 ngôi nhà sàn đều dựng bằng gỗ qúy pơ mu. Ngôi nhà chính là nơi ở của “ vua “ họ Vương,
tại đó còn bức hòanh phi với bốn chữ vua nhà Nguyễn Phước ban cho “ Biên Chinh
Khả Phong”
Chợ tình Khau Vai chỉ họp mỗi năm một lần vào ngày 27 tháng 3
âm lịch tại xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc. Tương truyền cách đây lâu lắm, một đôi uyên ương xinh đẹp
yêu nhau nhưng họ sống ở hai huyện khác nhau, có nghĩa là nếu lấy nhau cô gái
phải về nhà chồng. Nhưng dân huyện cô chống lại điều này và dân huyện nhà trai muốn cô về huyện nhà
trai, gây ra hiềm khích chánh kiến. Khi họ gặp nhau, thì dân hai huyện đánh
nhau. Để tránh gây máu chảy, đôi trai gái đồng ý rời xa nhau, chỉ bí mật gặp
nhau mỗi năm một lần vào ngày kỷ niệm
quen nhau đầu tiên, ở Khau Vai. Nay nơi
này trở thành nơi hò hẹn chung cho tất cả những người yêu nhau trong vùng,
thuộc các thanh niên các tộc dân Mèo
Trắng – White H’mông, Tày và Lô Lô áo quần
màu sắc sặc sở.
Chợ phiên miền
cao thu hút du khách đến Hà Giang là Chợ
Phiên thị xã Hà Giang ở bờ đông Sông
Lô nơi các
nhóm tộc dân Tày, Nùng, Dao Đỏ và Mèo Trắng họp nhau mỗi chủ nhật;Chợ Phiên Lũng Phìn trên tỉnh lộ 55 Mèo Vạc- Yên
Minh là nơi buôn bán miền quê , tụ họp nhiều tộc dân địa phương tấp nập trao
đổi yên ngựa, bán nấm khô, lạp xưởng đầy gừng, trâu bò, các quả bạch
đậu khấu – cardamom pods, giày dép plastic, những dãi dây băng chói lọi,
chỉ thêu … trao đổi buôn bán theo tán
gẩu trên đỉnh đồi, và ăn chén cháo thịt
ngựa nhắp rượu bắp –ngô( nếp ? ). Chợ Phiên Lang Si ở Đèo Lang
Si là làng các nhóm tộc dân Mèo Trắng cứ 6 ngày họp một lần. Làng Lang Si cách
thị xã Hà Giang 116km( 72 dặm Anh ), nơi
quân đội Pháp thuộc địa xây một tường thành biên giới cho “vuơng quốc”
H’mông Trắng. Vùng nổi tiếng sản xuất mật ong ngon.
Bán Rượu ở Chợ Phiên Hà Giang |
Ngòai các chợ
phiên vùng cao, Hà Giang còn là nơi văn
hóa lễ hội đặc sắc của 22 tộc dân nước nhà. Hai lễ hội tiêu biểu nhất là:
lễ hội vui xuân của người H’ mông và người Dao thường được tổ chức sau Tết Nguyên
đán và kéo dài 3-7 ngày. Lễ hội có tính cách đa dạng: mừng công, cầu mưa, cầu con trai, kết hợp các
trò chơi bắn nỏ, hát giao duyên, ném papáo, chọi trâu – fighting buffalo,
chọi gà fighting chickens… Lễ hội mừng nhà mới của người Lô lô kéo dài hai
ngày đêm ở các ngôi nhà mới.
Đáng mừng là
sau 3 năm sửa sọan , đặc biệt là tổ chức các làng văn hóa tộc dân, ngày 3/10/ 2010, Cơ quan Văn Hóa và Giáo Dục Quốc Tế -
UNESCO đã công nhận cao nguyên cácxtơ
Đồng Văn ( nơi đã khám phá ra nhiều lòai
sinh vật hóa thạch sinh sống cách đây 400- 600 triệu năm ) là thành viên
của Mạng lưới 77 Công viên Địa lý Tòan Cầu –
Global Geoparks Net Work, một trong hai thành viên thuộc vùng Đông Nam Á.
Tuy nhiên muốn thu
hút thêm nhiều du khách ngọai quốc hơn là con số nhỏ nhoi 3500 khách ngọai viếng tỉnh năm 2011, phải
suy nghiệm lại quan niệm các
làng du lịch tộc dân- communal tourism village : tất nhiên phải dời bỏ cách
nuôi súc vật dưới nhà sàn, trong nhà ngòai
vấn đề cải thiện vệ sinh, phải cải thiện
ngay cả đặc điểm nấu nướng, soong chảo nồi niêu ăn uống, lưu tâm đến trang hòang đặc sắc, có các phương
tiện tiêu khiển trong gia thất như đàn địch, ca hát mời đuợc các nhóm tài tử
như ở các lễ hội địa phương v.v… , mở
đường ô tô đến được các làng , mỗi đường chỉ đến một làng tộc dân độc đáo tránh
nhàm chán một đường tỉnh huyện có đến 3 làng Tày trình diễn !
( Hòang Văn Kiên , 2012 ). Và lẽ dĩ nhiên là cùng lúc thiết lập, nâng cao
hệ thống khách sạn ( tỉ như Khách sạn Cao nguyên đá Đồng Văn -Rocky Plateau
Hotel ở đường chánh Đồng Văn có 16 phòng
tân tạo tiện nghi khá đầy đủ: nước nóng,
ti vi vệ tinh, phòng khách chờ đợi cao
ráo, các bức tranh Mỹ thuật Phổ thông giã – faux Pop Art paintings… ),
nhà nghĩ dưỡng, nghĩ mát địa phuơng. Hai hướng du lịch khác cần gia tăng là du lịch
sinh thái như khảo cứu đa lọai thực vật rừng Khâu Ca và rừng núi Pu Tha Ca gần khu
bảo tồn thiên nhiên Du Gia , giữa tỉnh
lộ nối liền tỉnh lộ 34 và hai tỉnh lộ 4C và 55.
Nơi đây khảo sát thực vật các tháng 5- 10 năm 2005 đã kiểm kê xếp lọai được 471 lòai cây cỏ có
mạch, thuộc 268 tông, 113 họ; trong đó có 179 lòai làm thuốc, 14 lòai ghi sổ đỏ
( có nguy cơ tuyệt tích) Việt Nam và một lòai ghi sổ đỏ quốc tế IUCN là Amentotaxus argotaenia . Và du
lịch khảo cỗ tỉ như thám hiểm ở hang động mới khám phá gần thôn Tà Lũng B,
nhiều hang động rộng đến 500 m2 chứa đầy thạch nhũ hình thể độc đáo
trong ngần nguyên sơ , cùng những rìu ,
búa đá kích thước 13.5 -22 cm đẻo chạm
tinh vi, chế tạo đã trên 4000 năm nay. Dù sao thì Hà Giang cần nổ lực đuổi cho mau
kịp du lịch Sa Pa , Tam Đảo, các công viên du lịch trung du
hay đồng bằng Sông Hồng.
Công Nghệ
Ngành công
nghiệp Hà Giang chỉ có hai tiềm năng phát triễn là khóang sản và nguyên liệu nông lâm sản. Nhìn chung công nghiệp chiếm vị thứ thứ yếu,
chỉ chiếm 20.8% cơ cấu GDP tòan tỉnh năm 1999.
Công nghiệp chế biến then chốt tỉnh nhà là chế biến lương thực - thực
phẩm , năm 1999 chiếm đến 35.2 % trị giá
sản xuất công nghiệp, gồm 1772 cơ sở sản
xuất thu hút 2028 trên tổng số 5966 lao động tòan ngành. Các sản phẩm thế mạnh là chế
biến chè ( trà ), bánh kẹo và trái cây
chẳng hạn như cam quít, xay xát lúa –
ngô. Ngành chế biến nông nghiệp có triễn vọng nhất Hà Giang là công nghệ
trà( chè) – tea industry. Năm 1995 trà sơ chế tỉnh nhà mới
có 2100 tấn trong số sản xuất 9620 tấn, năm 2002 đã đạt 20 394 tấn gồm lọai trà thơm ngon là Tuyết
Sơn – Snow shan lá non lông trắng bạc như
Bạch Mao tập trung ở Lũng Phì - huyện Đồng Văn và Ngam La- huyện Yên Minh. Trà
Lũng Phìn –Đồng Văn rất được dân Hà Nội ưa
chuộng pha chế làm thành trà hoa (
nhụy hoa ) sen -lotus teas , trà hoa lài ( nhài )- jasmine teas, trà
hoa mộc-
osmanthus teas ( đúng hơn là
lòai tiểu mộc lá thon dài Xylosma longifolium thuộc họ bần
quân hồng quân Flacourtiaeae ). Trà Gà Giang
cũng rất nổi tiếng ở Trung Đông, Nga Sô cũ. Các ngành chế biến nông phẩm khác của Hà Giang đáng
tăng cường cải thiện mở rộng thị trường trong và ngòai nước là rượu bắp ,
ngô – maize,corn whiskey, các lọai bánh mì bánh tráng mềm bắp ngô kiểu Mỹ
châu la tinh, rượu mùi mận tây, nấm đóng hộp, nước uống cam quít và cây trái xứ
mát, chế biến dược liệu địa phương thuốc
Bắc , thuốc Nam… ( Đổ trọng Eucomia
ulmoides, một đại mộc dân gian trồng lấy võ làm thuốc trợ tim, hạ huyết áp, giúp phụ nữ mau khỏe sau sinh sản, Ý
dĩ hay Bo bo nếp-Coix lacrima- jobi var. ma yuen
một lòai hòa bản trồng lấy hột nấu chè
trị sốt, sưng thấp khớp, khó đái,
Đại hồi Illivium verum trồng làm gia vị giúp tiêu hóa chống một số
virus – siêu vi khuẩn, Thảo quả (Đò
ho, Sa nhân cóc Amomum Tsao –ko, trị
hôi miệng, mất ăn …), các lọai Đậu khấu ( Aramomum compactum hay là
Elatteria cardamomum , thuốc
giúp tiêu hóa, bổ phổi), Sa nhân ( Amomum
villosum var. xanthoides, làm gia
vị, chất kích thích, trị kiết, đau bụng có cơn…) ngay cả các loài Sâm Việt Ngọc Lĩnh , sâm Tàu , sâm Mỹ hay sâm Triều Tiên… ), Gừng dại ( Gừng gió, Gừng da , Ngãi xanh Zingiber
zerumbet củ chồi lá đều ăn tươi được ở Ấn Độ, Trung Quốc làm chất kích thích,
trị suyễn, đau bao tử, trị kiết, bịnh da, bịnh sán lãi ). Lẽ dĩ nhiên là không
quên công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản
đặt biệt là công nghệ tre, vầu( tre vầu, mạy cước lóng to gần như đặc ruột Bambusa nutans), luồng ( giang , nứa ),
một công nghiệp liên quan mật thiết đến đời sống các tộc dân địa phương nhưng
qui mô nhỏ.
Công nghiệp khai thác và chế biến khóang sản
chính ở Hà Giang là ăng ti moan ở
huyện Yên Minh. Không rỏ hảng Úc đã đầu
tư khai thác vàng sa khóang ở Sông Lô- Hà Giang đến đâu rồi ?
Phải nghiên cứu khảo sát thêm
quặng măng gan để phục vụ cho ngành luyện kim Thái Nguyên và ngành làm
pin.
Hà Giang có nhiều điểm quặng sắt vùng Tòng ( Tùng ) Bá, huyện Vị Xuyên trử lượng lớn ước lượng đến 200 triệu tấn chủ yếu là quarzit manhêtit hàm lượng sắt 42- 46% nhưng còn rải rác trên diện tích rộng lớn, khó khai thác có lợi. Bô xít dạng điaspor, hàm lượng 39- 65.4 % AL2O3, trử lượng còn rất ít so với 5- 6 tỉ tấn Tân Rai ( Lâm Đồng) , Đắc Nông và Krông Nừng ( Gia Lai). Các công nghiệp vật liệu xây dựng tập trung ở thị xã Hà Giang, các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Đồng Văn như xi măng, gạch ngói, vôi v.v… cũng còn rất bé nhỏ. Không rỏ nay các cụm công nghiệp ở thị xã Hà Giang, ở các thị trấn tụ điểm đô thị dọc theo quốc lộ 2 đã phát triễn thêm được các công nghệ cơ khí, dệt may, dược liệu nào nữa không ? Nhưng chắc chắn là vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, diện tích 28 700 ha chánh quyền vừa cho thành lập thuộc các xã huyện Vị Xuyên :Thanh Thủy, Thanh Đức Phương Tiến, Xín Chải, Lao Chải, Phong Quang…, sẽ phát triễn mạnh mẽ tương lai. Gồm một khu miễn thuế quan, một khu chế biến xuất khẩu, một khu công nghệ, một công viên tiêu khiển với phòng ốc cơ sở làm việc và nơi cư trú. Giai đoạn đầu khởi công năm 2010, sẽ hòan tất năm 2015 có đủ hạ tầng cơ bản cho họat động thương mãi, xí nghiệp đầu tư. Giai đọan 2 sẽ khởi công năm 2016 và hòan tất năm 2020 .
Mỏ quặng Ăng-ti-mon Hà Giang |
Hà Giang có nhiều điểm quặng sắt vùng Tòng ( Tùng ) Bá, huyện Vị Xuyên trử lượng lớn ước lượng đến 200 triệu tấn chủ yếu là quarzit manhêtit hàm lượng sắt 42- 46% nhưng còn rải rác trên diện tích rộng lớn, khó khai thác có lợi. Bô xít dạng điaspor, hàm lượng 39- 65.4 % AL2O3, trử lượng còn rất ít so với 5- 6 tỉ tấn Tân Rai ( Lâm Đồng) , Đắc Nông và Krông Nừng ( Gia Lai). Các công nghiệp vật liệu xây dựng tập trung ở thị xã Hà Giang, các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Đồng Văn như xi măng, gạch ngói, vôi v.v… cũng còn rất bé nhỏ. Không rỏ nay các cụm công nghiệp ở thị xã Hà Giang, ở các thị trấn tụ điểm đô thị dọc theo quốc lộ 2 đã phát triễn thêm được các công nghệ cơ khí, dệt may, dược liệu nào nữa không ? Nhưng chắc chắn là vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, diện tích 28 700 ha chánh quyền vừa cho thành lập thuộc các xã huyện Vị Xuyên :Thanh Thủy, Thanh Đức Phương Tiến, Xín Chải, Lao Chải, Phong Quang…, sẽ phát triễn mạnh mẽ tương lai. Gồm một khu miễn thuế quan, một khu chế biến xuất khẩu, một khu công nghệ, một công viên tiêu khiển với phòng ốc cơ sở làm việc và nơi cư trú. Giai đoạn đầu khởi công năm 2010, sẽ hòan tất năm 2015 có đủ hạ tầng cơ bản cho họat động thương mãi, xí nghiệp đầu tư. Giai đọan 2 sẽ khởi công năm 2016 và hòan tất năm 2020 .
Phát triển nông nghiệp
Hà Giang có chừng
130 435 ha đất trồng trọt, chiếm 21 % tổng diện tích . Biến đổi cao độ và địa hình đồi núi, thung lũng hẹp
phức tạp, phân chia Hà Giang, từ các năm 1983 – 1996, ra làm 4 vùng sinh thái
nông nghiệp có những nhu cầu và ưu tiên đặc thù khác nhau( có lẽ cần xét lại
theo những tiến bộ sau này của Hà Giang và của nước nhà chăng ?) :
Vùng I là ở các quận Mèo Vạc, Đồng Văn, Quản
Bạ. Vấn đề chính là độc canh bắp
( ngô), không đủ đất trồng trọt, đất
đai mau acid hóa thêm vì chỉ sử dụng
phân bón hóa học ( u rê ) trở nên chai sạn – compact . Vùng I cũng thiếu
đất trồng cỏ nuôi súc vật, thiếu củi đốt trầm trọng, thiếu nước nên cần dùng
nhiều năng lực phụ nữ trẻ em chuyễn nước
về gia thất, hương lộ liên xã bùn lầy không
thuận tiện, thiếu thốn nhiều về y tế và giáo dục. Đa số khỏang 80% là tộc dân H’ mông. Ưu tiên phát triễn là đa đang hóa cây trồng
trọt và cải thiện cỏ nuôi súc vật, tái tạo rừng
thiên nhiên, trồng lại rừng nhiều tầng cung cấp thêm chất mùn cho
nương rẫy, phát triễn những dạng nông
nghiệp đặc trưng như nuôi ong, trồng cây dược phẩm, làm những ao hồ núi chứa
nước mưa, cải thiện các hương lộ liên xã, huấn luyện cán bộ y tế, xây cất các
trạm y tế và hình thành các phòng khám đa khoa khu vực, trang bị y cụ, thuốc
men và tăng cường trình độ chuyên môn cán bộ y tế giáo dục.
Vùng II
là huyện Yên Minh đang phải
đốt rừng làm rẫy không vững bền được khi dân số gia tăng, lạm thác các đồng cỏ,
lạm thác củi nấu nướng, để rừng thiên nhiên thoái hóa tái tạo kém cõi, trồng lại rừng với một lòai cây duy nhất, cố
gắng làm y tế, giáo dục thích nghi và chuyên môn hơn. Đây là vùng sinh sống
nhiều tộc dân: H’mông , Dao ( Mán ), Tày ,Giáy v.v… Ưu tiên phát triễn là thực thi những mô hình nông lâm - agroforestry models vững bền hơn, phổ
cập những cách thức trồng trọt cây lương
thực tốt hơn, phát triễn một hệ thống
phối hợp trồng cây lâu năm - cây mộc và
chăn nuôi cố định, có rào dậu không thả
súc vật lang thang. Phát triễn những thể thức nông nghiệp nhỏ thích hợp
như nuôi ong , trồng cây lương thực trồng măng tre, vầu, giang, luồng, nuôi nấm
( ngòai nấm tai mèo nên lưu ý thêm về nấm mở , nấm đông cô , nấm hương hay hương cục – truffle ở dưới rừng sồi dẽ kiểu Âu Châu,
hay nấm “ mỡ “ Nhật “ cay nồng đổ mồ hôi” matsutake mùi vị quế và và nhựa thông, không thể thiếu dùng chiên xào các món ăn
ngon với rượu sa kê, các lọai nấm ăn được xứ mát khác…), tái lập
thêm ruộng
bậc thang – rice terraces, huấn
luyện giỏi hơn các cán bộ y tế, tăng
chuẩn giáo viên và học trình.
Vùng III
ở hai huyện Hòang Phi Sù và Xín Mần.
Hai huyện này cũng còn phải làm nương rẫy không thể vững bền đươc. Thả
rong súc vật ăn cỏ trong rừng làm phương hại đến tái lập rừng thiên nhiên . Đất
đai quá nghèo nàn. Lạm thác củi đốt. Y tế, giáo dục thiếu thốn hay không có. Đây là vùng cư trú các tộc dân Nùng, Dao,
H’Mông,Tày, La Chí. Cần thực thi những
mô hình nông lâm hay lâm nghiệp vững bền hơn.
Phát triễn những thể thức phối
hợp cây mộc và chăn nuôi có rào dậu. Phát triễn những sáng kiến nhỏ thích hợp
(nuôi ong, trồng câydược phẩm… ), thiết
lập những ruộng bậc thang mới. Tăng cường, cũng cố y tế, giáo dục.
Vùng IV
gồm các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê. Đây là nơi tài nguyên rừng quan trọng đang bị đe dọa nặng nề. Phải
cố gắng thiết lập những rừng cây đa lọai
,đa tầng, đa năng, không chỉ trồng rừng độc loại như rừng thông ba lá trước đây.
Xét lại tại sao đã quá lạm dụng phân bón hóa học mà không tăng gia mấy năng
xuất lúa nước. Thay đổi hệ thống làm rẫy – shifting
cultivation không vững bền được. Lạm thác ăn cỏ - overgrazing. Đốn củi không kiểm sóat gì hết. Đây là nơi cư trú của các tộc dân Tày, Dao, Kinh, H’mông, Hoa, Nùng, Giáy. Cần thực hiện những mô hình nông lâm hay lâm vững bền hơn. Phát triễn những thể thức quản
trị rừng vững bền hơn. Cố gắng dùng phân bón hóa học hửu hiệu kinh tế hơn. Nâng cấp hệ thống tưới
tiêu cỗ truyền. Nâng cấp y tế, giáo dục địa phương.
Ruộng bậc thang hà giang |
Chủ yếu lúa trồng ở Hà Giang là lúa nước. Năm 2000, diện tích trên 28000 ha ( kể cả ruộng lúa
nước bậc thang, chiếm đến 95. 3 % tổng
diện tích trồng lúa. Phần còn lại dưới 5 %
trồng lúa nương - lúa rẫy – lúa
cạn, không một thời gian nào cây lúa ngập nước cả. Diện tích lúa nước không gia
tăng gì cả trong những năm qua,dù rằng
chánh phủ hửu lý hổ trợ làm thêm ruộng lúa nước bậc thang và cố gắng phát triễn xây dựng những hồ nước trên núi – mountain
reservoirs vừa thay thế đội nước từ sông suối sâu thẳm tốn năng lực tiêu
dùng hay tưới tiêu. Năng xuất gia tăng
đáng kể từ 2.8 t/ ha năm 1995 đến 4.14
t/ha năm 2002 . Còn có thể tăng thêm năng xuất lúa mùa đủ nước tuới tiêu, trồng
các giống lúa mới ( lọai lúa lai- hybrids kiểu Trung Quốc hay lúa nội
phối- inbreds kiểu Thần Nông miền
Nam du nhập hay tuyễn chọn gần đây ở các trung tâm khảo cứu miền Bắc hầu có
năng xuất trung bình lúa mới các vùng Trung Du, vùng đồng bằng sông Hồng hiện
nay là 6- 7 t/ha. Nới rộng hay tăng năng xuất lúa nước đông xuân thì phải tăng cường hệ thống tưới tiêu và khả năng
chịu lạnh hơn của các giống mới. Tuy nhiên vì dân mỗi ngày mỗi đông và ruộng
lúa nước giới hạn, lúa cạn( nương rẫy ) không thể bền vững, Hà Giang khó lòng có được
mức bình quân lương thực qui thóc quốc gia; năm 1991 chỉ 259 kg/ người, năm 1999 là
305. 3 kg/ người, hơn phân nữa
con số quân bình quốc gia đôi chút mà thôi ! Năm 2007 là 397.5 kgr /người vẫn
còn thua kém nhiều mức bình quân cả nước
là 501.8 kg/người.
Phải cố gắng tăng
năng xuất ngô – bắp, lương thực chủ
yếu trong bửa ăn hàng ngày của tộc dân
H’ Mông, trồng nhiều ở Đồng Văn, Mèo Vạc,
Yên Minh, Quản Bạ là các huyện vùng cao
núi đá vôi trên đất feralít. Phải phổ
biến các giống bắp lai mới siêu năng Mỹ hay lai tạo trong nước thích hợp khí
hậu vùng cao Hà Giang cũng như các kỷ thuật luân canh hay các hệ thống sinh
thái trồng lại rừng gìn giữ được mức phì nhiêu đất đai cũng như cố định được trồng bắp lâu năm trên một mảnh đất ở chương
trình cố định đất canh tác và làng xã sau khi bải bỏ chế độ hợp tác xã
không hợp thời và thực thi các điều khỏan luật
điền địa mới nước nhà.( Nghị định 100 về việc cho các
hộ nông dân thuê đất năm 1981; Nghị định số 10
cho phép nông dân khai thác riêng rẽ 10 – 15 năm cho hoa màu hàng niên
và lâu hơn cho cây mộc; Luật về
giảm gia nhập bắt buộc Hợp Tác Xã năm
1993: Nghị định 327 về đất bỏ hoang –
barren hills , luân canh làm nương rẫy? v.v…)
Sắn( khoai mì miền Nam )- cassava tiếng Anh, manioc theo tiếng Pháp, rất thông dụng cho tộc dân H’ mong các huyện Quản Bạ, Đồng văn , Mèo Vạc và các cộng đồng H’ Mong ở huyện Bắc Mê, cũng
như các nông dân Dao ở các huyện Yên Minh, Hòang Su Phì, Xín Mần. Các tộc dân
khác như Tày, Nùng xem sắn là cũ cứu
đói và ăn trộn cơm vì không sản xuất đủ gạo, hay để nuôi heo. Tiến bộ quốc tế
những năm sau này về cải thiện năng xuất và lề lối canh tác giúp định canh định cư dễ dàng hơn, đáng được Hà Giang nổ lực
phát triễn thêm. Ngòai khoai lang( nên nhấn mạnh đến khoai lang vỏ tím ruột
tím được dân Nhật, Đài Loan… ưa chuộng
ngày nay), Hà Giang còn là vùng trồng lòai củ khoai mài ( từ nghèo, khoai chụp, hòai
sơn, sơn dược, khoai rạng, khoai ngà … ) có lẽ
thuộc các lòai khoai mỡ-
igname chịu lạnh Dioscorea
depauperata, D. batatas, D. persimilis.
Các khoai mài - khoai mỡ- khoai ngọt – khoai từ
- chụp …Dioscorea sp. có đến trên 600 lòai và mấy ngàn giống trên thế giới, nhiều giống cao
năng chịu đất nghèo, lạnh vùng cao, trồng định canh -định cư, dây riêng biệt
lên giàn, cho leo sào cao hay không,
hoặc trồng mọc thành các tầng dưới
tán rừng trồng lại, có lẽ nên khảo cứu bổ
sung hệ thống sinh thái rừng -nông nghiệp ( trồng trọt , chăn nuôi ) Hà Giang ?.
Cây trà -
chè là cây công nghiệp mũi
nhọn Hà Giang từ 20 năm nay. Năm 2000, tổng trị giá
sản phẩm và diện tích cây trà chỉ
đứng sau cây lúa và cây bắp, nhưng lại dẫn đầu
số về các lọai cây sản phẩm xuất khẩu của tỉnh. Từ 6470 ha năm 1995, diện
tích trồng trà năm 1999 đã lên trên 10 387 ha:
sản lượng từ 9625 tấn lên 16 293
tấn. Có lẽ nhân cơ hội này, xét qua về
tiến triễn ngành trồng trà ở Việt Nam .
Ngày nay Việt Nam
được xem là một nôi phát sinh cây trà
trên thế giới ( gồm luôn cả lòai trà hoang dã núi rừng cao Đông Bắc Ấn Độ là Xishuanbanna). Sau khi Pháp chiếm Việt
Nam vào cuối thế kỷ thứ 19, năm 1890 Pháp
chú tâm đặc biệt đến cây trà, khảo cứu
nhiều về thực vật lòai trà và phẩm giá trà Việt Nam, sau Anh Quốc chừng 30 năm
ở Sri Lanka ( Tích Lan ) và Darjeeling ( Ấn Độ ). Họ đã thiết lập 3 trung tâm khảo cứu canh tác cây trà ở Phú
Hộ ( tỉnh Phú Thọ), Bảo Lộc ( tỉnh Lâm Đồng ) và Pleiku ( tỉnh Gia Lai ), có
vườn ươm 27 giống trà tốt và một xưởng biến chế trà ở Tĩnh Cương( ? ) Phú Hộ.
Đến tháng 8 năm 1945, diện tích trà trồng ở tòan cõi nước nhà là 13 585
ha, sản xuất 6000 tấn trà khô, trà đen, trà xanh và trà ướp hương hoa
thơm. Nhưng không thể nào tăng thêm diện tích trà từ 1945
đến 1955 vì chiến tranh Đông Pháp- Việt Nam lần thứ nhất. Thời gian này chế
biến chánh là trà xanh cho thị trường quốc nội và xuất khẩu sang Trung Quốc. Năm
1956 – 57 tái xuất hiện trà đen cận đại
Catecka Biển Hồ ( Gia Lai ) miền Nam và 2 xưởng chế biến trà cận đại ở Phú Thọ miền Bắc Nga Sô giúp đở kỷ thuật. Năm
1957, miền Bắc đã xuất khẩu 700 tấn trà đen và 500 tấn trà xanh sang Nga sô. Từ
năm 1960 - 62 ( ? ) miền Nam đã khởi sự
chế biến trà xanh kiểu Nhật xuất khẩu
sang Nhật và diện tích các vườn trà tiểu điền dân di cư miền Bắc tự khai
khẩn, tăng nhanh ở vùng Bảo Lộc ? Từ năm 1955 đến năm 1975, miền Bắc không bị
chiến tranh trực tiếp, nới rộng diện tích trồng trà lên 65 000 ha, sản
xuất 35 000 tấn trà khô, trong đó chế
biến 18 000 tấn xuất khẩu. Năm 2007, diện tích trồng trà ở cả hai miền Nam –
Bắc là 131 000 ha, sản lượng trà khô là
167 000 tấn, trong số này chế biến xuất khẩu là 130 000 tấn và hơn 30 000 tấn
tiêu dùng trong nước. Lúc này trà Việt Nam đã có mặt tại hơn 80 quốc gia
trên thế giới. Năm 2009, diện tích vẫn như cũ 130 098 ha, nhưng năng xuất đã
tăng từ 4.2 t/ha trung bình năm 2000,
lên 6.3 tấn /ha năm 2007 đến 6.5 t/ha năm 2009. Các vùng trồng trà chánh yếu ở Việt
Nam
là:
-
Vùng trà Tây Bắc, tập trung ở 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu và Điện Biên. Đặc điểm của vùng trà này là cao độ 500m trên mặt biển, tổng diện tích 17 200 ha.
Đất đai và khí hậu thích hợp cho các giống trà thơm –aromatic vatieties như trà Ô Long( oolong ), trà Shan…
-
Vùng trà Việt Bắc gồm các tỉnh Hà Giang, Yên Bái, Tuyên
Quang, Lào Cai, Bắc Kạn, Cao Bằng. Đặc điểm vùng trà này là địa hình phức tạp.
Tổng diện tích 41 000 ha. Có nhiều giống trà
khác nhau đặc biệt là trà Tuyết
Sơn – Snow Shan ở Lũng Phìn huyện
Đồng Văn ở cao độ trên 800m.
-
Vùng trà Bắc Trung Du gồm các tỉnh Thái Nguyên, Phú
Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phúc. Đặc điểm là trà chuyễn tiếp từ núi đồi qua trồng đồng bằng
đất thấp. Tổng diện tích trà trên 35 000
ha.
-
Vùng trà Bắc Trung Bộ gồm Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
Tổng diện tích 11 000 ha. Đặc điểm là
khí hậu nóng nực cho trà nhưng đất đai
lại thích hợp hơn. Tập trung vườn trà là ở tỉnh Nghệ An .
-
Vùng trà Tây
Nguyên gồm 3 tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai và Kontum: tổng diện tích 26 000 ha, trên cao độ
850m- 1500m, nhưng các vườn trà phần lớn tập trung ở tỉnh Lâm Đồng, tỉnh có diện tích trồng trà
lớn nhất đất nước.
Việt Nam dự
trù trồng 150 000 ha trà năm 2020, tăng
năng xuất trung bình từ 6500 kg/ha năm 2010 đến 8000 kg/ha năm 2020, cố gắng
cải thiện phẩm giá trà, cùng xử lý trà an tòan vệ sinh – sức khỏe mẩu mực cận
đại các phương thức canh tác, chế biến các lọai trà hầu mau đưa ngành xuất khẩu trà nhập câu lạc bộ xuất
khẩu 1 tỉ đô la Mỹ một năm.
Điều kiện thiên
nhiên Hà Giang đặc biệt thích hợp cho
việc trồng cây ăn trái ( ăn quả
) cận nhiệt đới hay ôn đới. Các lọai cây có múi như cam quýt Hà Giang đã được
ưa chuộng ở thị trường phía Bắc trong đó
có Hà Nội. Năm 2000, diện tích cam quýt tỉnh nhà đã gần 2500 ha, chiếm 35 % tổng diện tích cây ăn trái tòan tỉnh. Vùng
trồng cam hiện tập trung từ Bắc Quang lên thị xã Hà Giang. Vấn đề then
chốt là phải du nhập các giống cam qúyt
tuyễn chọn ở ngọai quốc, lai giống tuyễn chọn thêm các giống năng xuất cao hơn,
mẩu mã đẹp hơn, chất lượng tốt hơn.
Nhưng tương lai ngành cây ăn trái Hà Giang lại là các lòai cây ăn trái rụng lá sớm – deciduous fruit
xứ mát, ôn đới. Năm 1995, Hà Giang
còn thua kém xa Bắc Thái ( chỉ trồng 3500 ha so với 10780 ha ). Năm 2010 diện
tích cây ăn trái hai tỉnh đã tương đương nhau ( 10 000 ha ), nhưng Hà Giang vẫn còn thua Sơn La ( 12 000 ha ) và Quảng Ninh (
14 000 ha ). Trước tiên phải kể đến các lọai mận Nhật - mận tây( plum ) lòai Prunus salicina . Các giống
mận tây nổi tiếng ở miền Bắc là Mận Tam Hoa , mận Hậu , mận Đường nguồn gốc miền Nam Trung Quốc ( ? ) đều có nhược điểm : mùa thu họach ngắn ngủi, khiến cung cấp thừa
mứa mùa thu họach mận, giá bán hạ quá
đáng, sau tháng 6 là tháng ngày mùa,
trái mận nhỏ (20- 30mm ), không giữ được
lâu ngày sau khi hái. Năm 1995, Pháp
viện trợ du nhập hột làm cây gốc- rootstock cho cây mận là giống Myrobalan B lòai mận tây hạnh đào – cherry plum ( không phải Là
Myrobolan họ cây bàng Terminalia), đem
gieo trồng ở Hà Nội, Mộc Châu ( Lai Châu ) và Sa Pa ( Sơn La ). Năm 1996, du nhập các gỗ mận tháp, trái to , chuyên chở ít bầm dập là Blackamber, Friar , Simka và Fortune, đem ghép trên các gốc Myrobalan. Không rỏ nay
kết quả ra sao ? Cũng không rỏ là Việt Nam đã du nhập các giống mận Nhật ngon , trái to của bang Ca li- Hoa Kỳ khác các
giống Blackamber, Friar chưa ?
Mơ trồng nhiều ở vùng Hòa Bình- Lạng Sơn – Cao Bằng là mơ hoa vàng , hay mơ Nhật lòai Prunus
mume, trái cũng màu vàng, phủ đầy lông ruột dính, hột tròn rất cứng, và các
lọai mơ -mai lọai hòang mai ( mơ ) Cao Bá Quát ca tụng “Hòang mai, vũ hậu, lục hà hương”
thường thuộc lòai Prunus armenica,
nguồn gốc Ba Tư-Iran. Nên khuếch trương thêm
trong chương trình tái tạo rừng ở Hà Giang là các giống mơ vàng Bạch
thông –yellow apricot, mơ vàng Mộc Châu và mơ vàng Má Đào – pink apricot và du nhập thí nghiệm các giống mơ mai Ca Li
như Apricot Gold trái to, có giống lùn chỉ cao tự nhiên 1.2- 1.3m, giống Royal trồng nhiều nhất ở Ca li rất thích
hợp đóng hộp hay phơi khô , giống Early Gold trái chín sớm và nhu cầu lạnh rất
ít, giống King chín sớm, trái rất to màu vàng rực rỡ nhưng lại cần có cây khác thụ phấn, giống Royalty trái to nhất ở các trái mơ v.v… Giống đào
lông – peach lòai Prunus persica dân H’Mông trồng ở Hà
Giang tên gọi là Đào Mèo, nếu săn sóc kỷ lưỡng cũng có trái to như các đào lông Âu – Mỹ , nhưng bình thường trái nhỏ và mùa thu
họach rất ngắn. Hai lọai đào địa phương khác nên phổ biến thêm là Đào Mẩu
Sơn ( Lạng Sơn ) và Đào Sa
Pa ( Lào Cai, vỏ vàng, ruột
vàng, hột rời ). Năm 1991, Lương nông Quốc tế- FAO thử nghiệm ở Bắc Hà tỉnh Lào
Cai cho thấy là giống đào lông DA2 của Bảo Gia Lợi – Bulgaria
thích nghi cho miền cao Việt Nam. Lê
trồng nhiều ở Hà Giang thuộc nhóm lê Tàu Pyrus
pyrifolia Na Kai trái nhỏ, ăn như có sạn do tộc dân H’ Mông du nhập từ
lâu và năm 1960 đã phổ biến rải rác ở
nhiều vùng cao tỉnh nhà. Tuy nhiên diện tích các giống lê Tàu không mở rộng
được, vì thời gian thu họch ngắn ngủi quá đổi. Các giống “lê tây thường là“ giống
lai Pyrus communis x P. pyrifolia hay
các giống lê lòai Pyrus pashia
đều cho trái ăn rất dỡ. Giống lê Tây
Kieffer , Mieville du nhập năm 1921 khá nhất, nhưng mùi vị còn tầm
thường, nấu chín ăn ngon hơn, chịu đựng
phần nào bệnh cháy lá Erwinia amylavora,
có yêu cầu lạnh ít. Hai giống lê địa phương khá nhất là Lê Táo và Lê
Đường đều thuộc lòai P .pyrifolia.
Hà giang nên thí nghiệm thêm các giống “lê Ca Li” là Hosui,
Shinseki , Yali ( hay Mỏ Vịt ). Trên độ cao 700m, phải kể
ra các giống hồng trái – kaki – persimmon , thuộc lòai Diospyros kaki. Giống ka ki phổ cập nhất
ở Hà Giang là hồng Quản Bạ nhưng
cũng tìm thấy ở nhiều nơi khác là hồng
Thạch Thất, hồng Lí Nhân, hồng Sơn Dương, hồng
Lục Yên, hồng Bảo Lâm… Không rỏ là
chương trình phát triễn 100 000 ha vào
năm 2010 các giống cây trái ôn đới nước nhà nay diện tích thực hiện bao nhiêu
và phần diện tích Hà Giang trong số này
là bao nhiêu ?
Chăn nuôi Hà Giang còn nhỏ bé trong cơ cấu nông nghiệp tỉnh, gía
trị sản xuất không đổi mấy từ năm 1995 đến nay ( ?). Chủ yếu chăn nuôi tỉnh là
nuôi trong các hộ gia đình theo hướng kiêm dụng lấy thịt, sữa , sức kéo. Thế
mạnh nhất là chăn nuôi gia súc, còn lại là chăn nuôi gia cầm, nuôi ong với gần
9 000 tổ ong gia đình. Diện tích đồng cỏ tỉnh nhà trên 1200 ha và ao hồ, sông suối nuôi cá gần
1000 ha. Tộc dân H’mông sống trên cao độ, trồng bắp làm thực phẩm chánh như đã
kể trên. Để lấy sức kéo, dân H’ mông
nuôi một giống bò đặc thù Hà Giang gọi là giống bò Mèo. Phân tích di truyền của nhóm Thú Y Pháp – Việt BIODIVA, năm 2008, cho biết thật ra giống bò này đa dạng hơn là
độc dạng và có nhiều sự nội phối – inbreeding . Trộn lẫn di truyền các giống bò vàng – yellow cattle ở tỉnh
Cao Bằng lân cận cũng xảy ra ở các huyện
miền Đông Hà Giang. Số bò ở Hà Giang khỏang 52 000 con năm 1999, trong đó ba huyện phía
Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh chiếm
đến gần 40 000 con, nhiều nhất là ở Mèo Vạc
13400 con. Các tộc dân khác ở các vùng thấp chuyên trồng lúa nước thì
nuôi trâu lấy sức kéo và làm phân
chuồng. Trái lại với bò, dòng gen trâu
không bị gián đọan chảy liên tục và
không phân chia di truyền. Đàn trâu
Hà Giang lớn gần gấp ba đàn bò. Nuôi
trâu nhiều nhất là ở các huyện Bắc Quang(
31 000 con ), Vị Xuyên ( 23300 con, Hòang Su Phì và Yên Minh . Hà Giang nuôi
được gần 240 000 heo ( lợn ) và cải
thiện tăng năng xuất bắp và nhất là sắn – khoai mì và đậu
nành – đổ tương ( năm 1999 Hà Giang đã có 6 000 ha đậu nành ) chắc chắn sẽ gia
tăng đàn lợn thêm nhiều nữa. Nghiên cứu thú y
vừa kể cũng cho thấy giống gà
ô thịt đa đen H’ mong- Black chicken H’mong breed rất đa dạng di truyền và chứa nhiều alleles riêng
tư - private và trong phạm vi tỉnh
Hà Giang không có di truyền khác nhau
giữa giống gà ô đen H’mông với các giống
gà khác trong tỉnh nhà . Nhưng các giống gà Hà Giang kể cả gà ô H’ Mông là những cụm lai gà nuôi thương mãi với các
gà hoang dã .
Lâm
nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng Hà Giang, gắn bó mật thiết với đời sống của
các cộng đồng các tộc dân tỉnh nhà. Năm
1999, đất lâm nghiệp chiếm 75 % diện tích tự nhiên, trong đó đang sử
dụng 279 451 ha, 35.4 % diện tích tự nhiên. Tỉ lệ che phủ rừng là 36 % . Diện
tích rừng có xu hướng giảm nhiều mỗi năm mất đi hàng
trăm ha vì nạn chặt phá rừng, cháy rừng diễn ra nghiêm trọng do tập quán du canh - du cư của đồng bào miền cao và do trình độ dân trí
thấp. Vấn đề quản lý, bảo vệ rừng, trồng
nuôi và chăm sóc rừng là những vấn đề khẩn thiết, cấp bách. Chánh quyềnViệt nam muốn đưa độ che phủ rừng
lên 46- 50% . Như vậy phải tăng mau diện
tích rừng trồng. Hiện nay Hà Giang chỉ trồng được bình quân 4000 ha / năm rừng
tập trung và 2000 ha rừng phân tán ,
nghĩa là còn rất chậm. Trước năm 2000, chương trình trồng rừng của Hà Giang chủ
yếu là trồng diện tích lớn , độc lòai là
thông ba lá Pinus khaysia.
Chương trình
trồng rừng độc lòai không thích nghi với
bảo vệ lưu vực nước cũng như bảo tồn các lòai đặc hửu. Dù rằng ngay những năm đó ai cũng biết là rừng
đa tầng, đa tán – multi storey canopy bảo vệ tốt hơn cả ánh nắng mặt
trời, mưa rơi, và lá rụng chống lại xói mòn tốt hơn.
Tốt hơn nữa, rừng đa lòai
không bị sụp đổ bất thần về cân bằng sinh thái khi đốn cây lấy gỗ. Trên phương
diện an ninh thực phẩm gia đình, rừng trồng đa lòai có thể cung cấp một nơi cư trú tốt hơn cho nhiều lòai động vật, chim chóc. Những động
vật hoang dã này thỉnh thỏang được săn bắt, những lúc khan hiếm thực phẩm là
nguồn cung cấp protêin bổ sung tạm thời .
Thông 3 lá Hà Giang |
Nguồn lợi rừng cho các tộc dân vùng cao miền Bắc Việt Nam không lớn như các vùng cao Đông Nam Á. Tuy nhiên rừng vẫn tiếp tục cung cấp gỗ cho
xây cất, củi đốt, nấm ăn, cỏ cho súc vật, cây cỏ làm thuốc và vài lọai thịt thú
rừng. Nhiều lâm sản không phải là gỗ đặc biệt là song mây – rattan đã bị lạm thác vì phát triễn công nghệ đan mây
xuất khẩu. Những lọai giá trị như song
mật Calamus
platya hầu như tuyệt tích. Lan-
Orchids khai thác bất hợp pháp, để bán sang Trung Quốc, trở nên hiếm hoi.
Dân xã Lũng Thiền huyện Vị
Xuyên cho biết gừng da hoang dã, phơi
khô bán sang Tàu làm thuốc Bắc, khai
thác càng ngày càng khó khăn. Cũng như
hột thảo quả ở các tầng dưới rừng, dọc theo các bải sông và cũ mài hoang dã. Hai lọai Dừa- palm các tộc dân ưa dùng là cây móc
(đủng đỉnh ngứa ) Caryota urens thân cho bột ăn khi đói kém, cây đủng dỉnh Bắc
Sơn Caryota
bacsonnensis ( ? ) thân dùng làm sợi dây thừng … cũng
gần tuyệt tích ( Novellino – 1998 ) .
Cách lựa chọn lòai cây trồng lại không để tâm đến các quyền lợi đặc biệt trong rừng của dân
gian địa phương khi trồng lại rừng, khiến
nhiều nơi dân địa phương xem đó là những không gian ngọai lai, không dính dáng
gì tới họ cả. Một giả thiết chung của những người làm chánh sách là các tỉnh miền cao có
thể phát triễn thay thế các hoa màu trị
giá thấp bằng các cây mộc lâu năm giá
trị cao hay các hoa màu thương mãi. Tỉ dụ hoa màu quan trọng cho tộc dân Mèo là bắp không phải là cà phê ( lọai chịu
lạnh arabica chưa có giống tuyễn chọn cao năng ) ở các vùng cao miền Bắc, thập niên 1990 quốc
tế muốn thay cây thuốc phiện. Dân Mèo trồng luân canh cây thuốc phiện với
bắp và thay thế cây thuốc phiện bằng cây rừng lâu năm, có nghĩa là lọai bỏ luôn
cả các nương rẫy bắp. Sau thất bại cà phê arabica, chánh quyền
khuyến khích thay thế bằng cây dầu
lanh – flax , cây dầu hột cải – rapeseed , canola oil và khoai
tây, nhưng không mấy thành công. Một tỉ
dụ khác là các năm 1970- 74, chánh phủ
hổ trợ chuyễn hóa các nương rẫy lúa cạn
bằng các đồn điền trà ở xã Ngam La , huyện Yên Minh. Trong thập niên
1980, 1kg lá trà khô, các nông dân tộc dân Dao
bán cho hợp tác xã họ mua được
5kg bắp; nhưng khi giá trà quốc tế hạ, chánh quyền ngưng mua lá trà khô, dân
Dao phải đối đầu một tiến thóai lưỡng nan:
thay các đồn điền trà bằng các nương sắn hay bỏ hoang mọi vườn trà, di
cư đến một vùng khác.
…
( Irvine , Ca Li ngày 3 tháng 11 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét