Bài học phát triển kinh tế vĩ mô cho Việt Nam mau tiến tới các thị trường trổi dậy được chăng ?
Khối kinh tế thị trường đang trổi dậy nứt rạn rồi
G S Tôn Thất Trình
Ngưng không đuổi kịp thế giới phát triển nữa rồi
Như đã biết khối BRIC này gồm Brasil- Ba Tây, Nga –
Russia, Ấn Độ -India và Trung Quốc- China . Trong nhiều năm
vừa qua, khối kinh tế 4 nước này được
mệnh danh trên kinh tế toàn cầu là thế
giới các nước còn lại trổi dậy thóat ra
khỏi vòng chậm tiến, mau lẹ chạy về tập hợp cùng các nước đã mở mang. Động cơ
căn bản sau hiện tượng này là 4 quốc gia
BRIC. Theo biện cứ , thế giới đã mục kích chỉ một lần trong một đời người thay đổi, trên đó những diễn viên chánh của
thế giới đang mở mang đuổi kịp và còn có
thể vượt mặt các quốc gia đối giá thế giới đã mở mang.
Những
tiên đóan này điển hình dùng những tỉ xuất tăng trưởng cao từ giới trung lưu của các nước đang phát
triễn ở thập niên vừa qua và nới rộng chúng thẳng ngay vào tương lai, đặt chúng
cạnh các tăng trưởng rùa bò dự trù cho
Hoa Kỳ và các nước công nghệ tiên tiến khác. Các bài tập này giả thiết chứng
minh chẳng hạn Trung Quốc đang sắp sửa
tiến lên trước Hoa Kỳ như thể là một nền kinh tế lớn nhất thế giới, một
điểm nhập tâm dân Hòa Kỳ, khi mà theo một thăm dò dư luận Gallup thực hiện năm
nay 2012 nói là 50% dân gian Mỹ cho rằng Trung Quốc đã trở thành
nước “dẫn đạo “kinh tế” thế giới, dù
nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn còn lớn gấp đôi Trung Quốc và lợi tức mỗi đầu
người Hoa Kỳ lớn gấp 7 lần lợi tức mỗi đầu người Trung Quốc. Tiên đóan mới của
Pháp tháng 11 năm 2012 cũng nói là tổng
lợi tức quốc gia Trung Quốc sẽ vượt Hoa
Kỳ vào năm 2016 .
Những dự đoán thẳng toạch các khuynh hướng kinh tế như tiên đóan thập
niên 1980 Nhật bản sẽ là nền kinh tế số
một thế giới, nhưng thành quả sau đó đã dội một gáo nước lạnh vào đầu những kẻ
tiên đóan lố lăng này. Lúc kinh tế thế giới đang đâm đầu vào một một năm tệ hại
nhất kể từ 2009, tăng trưởng Trung Quốc chậm hẳn đi, từ hai con số xuống 7 %,
có lẽ còn thấp hơn nữa. Tưởng cũng nên
nhắc lại rằng trong hai năm 2008 và 2009, trong lúc tăng trưởng Hoa Kỳ rơi vào
cơn khủng hỏang, kinh tế Trung Quốc tăng 10%, nhưng các năm 2009- 2010 Trung
Quốc lại sa vào tình trạng xáo động kinh tế không mấy khác tình trạng Bước Nhảy Vọt –
Great Leap Forward của Mao Trạch
Đông, khiến lạm phát tăng thêm 10 lần
hơn sau khi cuối năm 2008, thủ tướng Ôn gia Bảo cuống cuồng
vội vã tung ra một gói khích
lệ – stimulus package khổng lồ trị giá 4 ngàn tỉ đồng yuan - nhân dân tệ ( 570 tỉ đô la,
nghĩa là gần 6 lần hơn Tổng Lợi Tức Quốc gia- GDP Việt Nam ) . Phần còn lại của các quốc gia BRIC cũng sụp
đổ: từ năm 2008 tăng trưởng hàng năm của
Brasil đã từ 4.5 % xuống còn 2 %,
Nga từ 7% xuống 3.5 %
và Ấn Độ từ 9% xuống 6%.
Mọi điều
này không có gì đáng ngạc nhiên cả, vì
chưng rất khó duy trì tăng trưởng mau lẹ kéo dài hơn một thập niên dù tình huống thập niên vừa qua làm cho nó có vẽ
dễ dàng: đi tới từ thập niên 1990 đầy rẫy khủng hỏang và nhờ tiền của dễ dàng của một lũ lụt
tòan cầu, các thị trường đang trổi dậy cất cánh bay từng lọat, khiến cho
tất cả mọi nền kinh tế thảy đều tuồng
như thắng cuộc. Đến năm 2007, khi chỉ có 3 quốc gia trên thế giới là có tăng trưởng âm, suy thóai hầu như biến mất khắp nơi trên sân khấu quốc tế. Nhưng nay, tiền bạc ngọai quốc chảy ít hơn nhiều vào các thị
trường đang trổi dậy. Kinh tế tòan cầu
trở lại tình trạng cồn cào bình thường, với nhiều kẻ tụt hậu và chỉ vài kẻ
thắng cuộc bừng lên ở những nơi bất ngờ.
Ảnh hưởng cuộc thay đổi này đáng
chú ý, vì đà quán tính kinh tế là quyền
lực và như vậy dòng tiền bạc các quốc
gia ngôi sao đang bừng cháy sẽ làm lại hình dáng cán cân thăng bằng quyền lực tòan cầu.
Trổi dậy mãi mãi
Ý niệm quay đầu về cùng
nhau rộng rải giữa các nước chậm tiến và
các nước đã mở mang là một huyền thọai. Trong
số 180 quốc gia trên thế giới Qũy Tiền Tệ Quốc Tế theo dõi, chỉ có
35 quốc gia là đã phát triễn mà
thôi. Thị trường các quốc gia còn lại đang trổi dậy, đa số các nước này đã
trổi dậy từ nhiều thập niên và sẽ tiếp
tục như vậy nhiều thập niên nữa. Dani
Rodrik, nhà kinh tế học Harvard đã chụp
bắt tốt đẹp thực tế này. Ông trình bày
là trước năm 2000, hiệu lực của
các thị trường đang trổi dậy, nói một cách tổng thể, đã không quy về tí nào với
thế giới đã mở mang. Thật sự, lỗ
trống lợi tức mỗi đầu người giữa các nền
kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế
đang phát triễn đã đều đặn nới rộng thêm ra từ năm 1950 đến năm
2000.
Có rất ít
các bọc túi các quốc gia không theo
kịp Tây phương, nhưng chúng giới hạn
ở các quốc gia có dầu lữa ở vùng Vịnh,
các quốc gia Nam Âu Châu sau thế chiến
thứ II và các “ con cọp” vùng Đông Á
Châu. Chỉ sau năm 2000, tổng thể các thị
trường đang trổi dậy mới bắt đầu đuổi
kịp. Tuy nhiên, đến năm 2011, khác biệt
giữa lợi tức giữa các quốc gia giàu có và các quốc gia đang mở mang trở lui lại tình trạng vị trí nó
của thập niên 1950.
Đây không
phải là cách đọc tiêu cực về thị trường
đang trổi dậy mà là một thực tế lịch sử đơn giản. Vào thời gian bất cứ một thập
niên nào kể từ năm 1950, trung bình chỉ
một phần ba các thị trường đang trổi dậy là có khả năng tăng trưởng tỉ xuất 5% hàng năm hay nhiều hơn nữa. Ít hơn một phần tư đã
theo kịp tỉ xuất này trong hai
thập niên , và một phần mười trong ba thập niên. Chỉ Mã Lai Á, Singapore, Hàn Quốc – Nam Hàn,
Đài Loan, Thái Lan và Hồng Kông là duy
trì được tỉ xuất phát triễn này trong
bốn thập niên. Thế cho nên ngay cả trước các dấu hiệu hiện thời về sự
chậm lại của BRIC, sự may mắn chống lại
kinh nghiệm là Brasil có được một thập niên tòan vẹn phát triễn trên 5 % và Nga tái diễn một thập niên thứ hai phát triễn trên 5%.
Trong lúc
đó, hàng lọat các thị trường đang trổi
dậy đã thất bại chiếm sức lực cho tăng
trưởng vững bền và những kẻ khác đã thấy
tiến bộ của mình ngừng lại, sau khi đạt tình trạng lợi tức trung lưu. Mã Lai Á và Thái Lan tuồng như sắp
trổi dậy thành những nước giàu có, mãi cho đến khi tư bản bạn bè chí
thân- crony capitalism, nợ nần quá đáng, và đồng bạc
quốc gia quá giá, gây ra một nung
chảy tài chánh Á Châu các năm 1997- 98. Tăng trưởng các quốc gia này từ đó luôn luôn
làm thất vọng, chán nãn. Cuối thập niên 1960,
Miến Điện nay chánh thức là Myanmar, Phi Luật Tân và Sri Lanka, được xem như là các “ con cọp Á Châu” mới đã trượt ngã
đau đớn, trước khi họ đạt được lợi tức trung lưu trung bình
khỏang chừng 5000$ US hiện hành.
Thất bại duy trì tăng trưởng đã
là luật lệ tổng quát và luật lệ này chắc
sẽ tự khẳng định lại trong thập niên tới.
Trong thập
niên mở đầu thế kỷ thứ 21, khi các thị
trường đang trổi dậy trở thành một cột
trụ danh vang của nền kinh tế tòan cầu, cách nào khái niệm các
nước đang trổi dậy thật là mới mẽ này ở
thế giới tài chánh rất dễ bị quên lãng. Niên đại đầu tiên thị trường đang trổi
dậy là từ giữa thập niên 1980 khi Phố
Uôn - Wall Street bắt đầu theo dấu chúng
như thể một hạng tích sản đặc biệt. Thoạt tiên được dán nhãn hiệu là “xa
lạ - exotric” nhiều quốc gia thị
trường đang nổi dậy mở toang thị trường
chứng khóan mình cho ngọai quốc : Đài Loan vào năm 1991, Ấn Độ năm 1992, Hàn Quốc năm 1993 và Nga năm 1995. Các nhà đầu tư ngọai quốc đổ xô ngay vào, làm ra một thịnh vượng 600% ở
giá cả cổ phần chứng khóan tại các thị trường đang trổi dậy ( tính theo đồng đô
la Mỹ ) giữa các năm 1987 và 1994. Trong thời gian này , số lượng tiền bạc đầu
tư ở các thị trường đang trổi dậy tăng lên, từ ít hơn 1% lên đến gần 8% của
tòan thể thị trường chứng khóan tòan cầu.
Giai đọan
này chấm dứt với khủng hỏang kinh tế đánh vào từ Mễ Tây Cơ - Mexico đến Thổ nhĩ Kỳ - Turkey giữa
các năm 1994 và 2002. Thị trường cỗ phần
các nước đang mở mang mất đi gần phân
nữa giá trị và tụt xuống ở mức 4% tổng số tòan cầu . Từ 1987 đến 2002 ,
phần các
nước đang phát triễn chia sẽ GDP tòan cầu đã rơi xuống từ 23 % còn 20% thôi. Ngọai trừ Trung Quốc, lại thấy phần mình tăng
gấp đôi, lên đến 4.5%. Câu chuyện thị trường các nước đang trổi dậy
nóng bỏng, nói một cách khác chỉ xảy ra
thật sự ở một quốc gia duy nhất .
Giai đọan
thứ hai khởi sự với nền thịnh vượng tòan cầu năm 2003, khi các thị trường đang trổi
dậy thật sự bắt đầu cất cánh như một nhóm. Phần họ chia sẽ GDP toàn cầu
leo cao rất mau, từ 20% tới 34%
ngày nay ( nhờ giá trị đồng tiền quốc gia họ tăng góp thêm phần nào ) và phần họ chia sẽ tổng số thị trường chứng khóan tòan cầu cũng tăng từ 4% lên hơn 10% . Mất mát to lớn họ đau khổ, lúc sụp đổ tài
chánh tòan cầu năm 2008 , đã được phục hồi năm 2009, nhưng từ đó họ tiến bước chậm đi.
Giai đọan
thứ ba, một thời đại định nghĩa bằng tăng trưởng khiêm tốn ở thế giới đang mở
mang, sự trở lại chu kỳ thịnh vượng
,suy thoái- boom,bust và đổ vỡ tư
cách đàn đúm – herd behavior các
quốc gia thị trường đang trổi dậy chỉ mới bắt đầu . Không có tiền bạc dễ dàng
và lạc quan tận trời xanh châm dầu cho
đầu tư của thập niên vừa qua, thị trường
chứng khóan các nước đang mở mang có thể
đem lại tiền lãi thu được không đồng đều
và cân nhắc hơn. Lợi lộc trung bình một năm 37% giữa các năm 2003 và 2007 cũng sẽ bớt đi, xuống tốt lắm là 10% trong thập niên tới, một khi tăng trưởng mức
thu nhập và giá trị hối xuất ở các thị trường đang trổi dậy lớn có tầm vóc giới hạn cho cải thiện bổ túc, sau
hiệu năng mạnh mẽ thập niên vừa qua.
Ngày tháng phải bán đã trôi qua
Không có ý
kiến nào khuấy đục tư duy về thị trường tòan cầu hơn là thị trường các quốc gia
BRIC. Khác hơn là những thị trường to
lớn nhất trong các vùng liên hệ, bốn thị trường đang trổi dậy to lớn chưa bao giờ có nhiều điểm chung. Chúng tạo dựng
tăng trưởng theo những phương cách khác
nhau và cạnh tranh nhau, chẳng hạn Brasil và Nga là những nhà sản xuất năng lượng đã thụ hưởng
những giá cả năng lượng cao, trong khi Ấn Độ
một nhà tiêu thụ năng lượng chánh yếu, khổ sở vì Nga và Brasil. Trừ phi lâm vào các
tình trạng hãn hửu bất thường như đã xảy ra thập niên vừa qua, họ khó lòng họat
động chung sức, đồng tâm. Ngọai trừ
Trung Quốc , họ giao thương giới hạn lẫn nhau và họ cũng không có cùng chung
các quyền lợi chánh trị hay ngọai giao gì cả .
Một vấn đề cho tư duy theo từ cấu tạo bằng các chữ
đầu-acronym là một khi đã bị chụp
bắt, nó có khuynh hướng đóng kín các nhà phân tích vào một cái nhìn thế giới có
thể lỗi thời mau lẹ. Những năm gần đầy,
nền kinh tế và thị trường chứng khóan Nga,
đã trở nên yếu kém nhất trong số các nước thị trường đang trổi dậy, do
một hạng tỉ phú giàu dầu lữa tích sản
lên đến 20% GDP Nga chủ trì, nghĩa là
giữ phần chia sẽ giàu có kếch sù nhất
trong bất cứ một nền kinh tế chánh trên thế giới. Dù mất cân bằng sâu đậm, Nga -Russia vẫn
còn là thành viên của BRIC, chỉ vì từ
BRIC nói ra tốt đẹp với chữ R. Các nhà bình luận học giả có tiếp tục dùng từ
chữ đầu nữa không, các nhà phân tích và đầu tư
nhạy cảm cần tỏ ra mềm dẻo. Chiếu
theo lịch sử, những quốc gia chớp lóang
đã tăng trưởng 5% hay hơn nữa trong một
thập niên, tỉ như Venezuela vào thập niên 1950, Hồi Quốc ở thập niên 1960, Irắc – Iraq ở thập
niên 1970, thường bị lột trần vì một hay nhiều đe dọa ( chiến tranh, khủng
hỏang tài chánh, thái độ tự mãn, lảnh đạo kém cõi ) trước khi họ có lại một thập niên thứ hai
tăng trưởng mạnh mẽ.
Thời
thượng nhất thời hiện tại về tiên đóan kinh tế là dự tính trong tương lai, sẽ
không còn có ai quanh quẩn đó để chịu trách
nhiệm. Phương thức này nhìn lui lại thế kỷ thứ 17, khi Trung Quốc và Ấn Độ
chiếm có lẽ đến phân nữa GDP tòan cầu rồi thì tiến tới “ Thế kỷ Á Châu
-Asian Century” trong đó tính cách
siêu việt như thế được tái khẳng định. Thật
sự, thời gian dài nhất không một ai tìm thấy những mô hình rỏ rệt ở chu kỳ kinh
tế tòan cầu là xoay quanh một thập niên.
Chu kỳ
doanh vụ điển hình kéo dài khỏang năm
năm, từ đáy một suy thóai này đến đáy
một suy thóai khác, và đa số các nhà đầu tư thực tiễn giới hạn tầm nhìn của mình trong một hay hai chu kỳ doanh vụ. Ngòai
xa, tiên đóan thường trở nên lỗi thời vì
sự xuất hiện không biết trước được của những nhà cạnh tranh mới, môi trường chánh trị mới hay kỷ thuật mới. Đa số các tổng giám đốc
điều hành CEO và các nhà đầu tư mới cũng còn giới hạn nhãn quan mình vào ba, năm
hay nhiều lắm là bảy năm, và họ xét kết quả ở khung thời gian này.
Trật tự kinh tế mới và cũ
Hình như ở
thập niên tới, kinh tế Hoa Kỳ, Âu Châu
và Nhật Bổn sẽ tăng trưởng chậm hẳn đi . Tuy nhiên tính cách rùa bò này sẽ có vẽ ít gây ra lo ngại hơn so với câu chuyện to bự hơn của nền kinh tế
tòan cầu, là tỉ xuất Trung Quốc xuống
mức 3 đến 4 % (đang xảy ra ), và có
thể hạ thấp hơn nữa, khi kinh tế Trung
Quốc trưởng thành thêm nữa . Dân số Trung Quốc đơn giản quá lớn rồi và già nua thêm mỗi ngày khó có cơ giúp nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng mau lẹ như trước
Trung Quốc đã có hơn 50% dân số sống ở đô thị và đã đến mức các nhà kinh tế gọi là “ điểm
quay đầu Lewis turning point” , điểm nguồn thặng dư lao động vùng nông thôn đã
tiêu hao gần hết. Đây là thành quả của
cả việc di cư nặng nề đến đô thị trong
hai thập niên vừa qua và sự héo hắt lực lượng lao động do chánh
sách một con cho một gia đình gây ra. Đúng
thời gian hẹn , cảm giác của đa số dân Hoa Kỳ ngày nay là sức mạnh khổng lồ cán
nát tan Á Châu này đang mau lẹ vượt mặt
nền kinh tế Hoa Kỳ, sẽ được nhắc nhở như
thể là một cơn bệnh hoang tưởng của Hoa
Kỳ, y hệt quảng cáo rùm beng về Nhật Bổn
ở thập niên 1980.
Một khi tăng trưởng Trung Quốc và các nước
công nghệ tiên tiến chậm lại, những quốc già này sẽ ít mua hơn những xuất khẩu
các quốc gia đối giá thúc đẩy mạnh, tỉ như Brasil , Mã Lai Á , Mexicô, Nga và
Đài Loan. Suốt thời kỳ thịnh vượng thập
niên qua , cân bằng trung bình cán cân
thương mãi các nước đang trổi dậy gần
như tăng gấp ba lần chia sẽ GDP, lên đến tỉ xuất 6% . Nhưng từ năm 2008, thương
mãi đã trụt lui,chỉ bằng phần chia sẽ cũ, ít hơn 2%.
Các thị trường đang trổi dậy xuất
khẩu thúc đẩy sẽ cần phải tìm những phương cách mới thực hiện tăng trưởng mạnh
mẽ và các nhà đầu tư công nhận là nhiều
nước này sẽ thất bại không làm được như
vậy: trong nữa năm đầu 2012 mức dàn trải giữa giá trị thị trường chứng khóan
giũa các quốc gia thực hiện tốt và những quốc gia thực hiện xấu, tăng lên từ 10% đến 35%. Thế cho nên trong vài năm tới, các thị trường đang nổi dậy mới mẽ bình thường, sẽ giống như
mức bình thường cũ các thập niên 1950 và 1960, khi tăng trưởng trung
bình là khỏang 5% và cuộc chạy đua đã để
lại đằng sau nhiều quốc gia. Điều
này không có nghĩa là Thế giới thứ Ba
thời thập niên 1970 tái xuất hiện gồm
những quốc gia cùng kiểu chậm tiến,
thiếu mở mang. Ngay vào những ngày đó, vài thị trường đang nổi dậy, tỉ như Hàn Quốc và
Đài Loan đã bắt đầu phồn thịnh, nhưng thành công các quốc gia này đã bị nghèo
khổ khốn cùng ở các quốc gia to lớn như
Ấn Độ, che khuất mất. Nhưng điều này lại có nghĩa là hiệu năng kinh tế ở các nước thị trường đang
trổi dậy sẽ khác biệt nhau rất nhiều.
Sự thăng tiến
các thị trường đang trổi dậy sẽ ảnh hưởng tới
chánh trị tòan cầu theo nhiều
cách. Đối với những quốc gia mới bắt đầu
(như Việt Nam
? ), nó sẽ làm sống lại lòng tự tin của Tây Phương và làm lịm đi chói sáng
kinh tế và ngọai giao những quốc
gia ngôi sao như Brasil và Nga ( nếu
không muốn kể thêm các độc tài dầu lữa ở
Phi Châu, Châu Mỹ La Tinh và Trung Đông ). Một nạn nhân sẽ là ý niệm cho rằng thành công Trung Quốc đã chứng
minh ưu thế tư bản của độc đóan, quốc doanh. Trong số 124
nước thị trường đang trổi dậy đã giữ được tỉ xuất tăng trưởng là 5% một
thập niên tròn, kể từ năm 1980, 52 % là
quốc gia dân chủ và 48% là độc đóan. Ít nhất
là trong ngắn và trung hạn, điều đáng
lưu tâm không phải là hệ thống chánh trị quốc gia mà là sự hiện diện các nhà
lảnh đạo thông suốt và có khả năng thực
hiện các cải cách cần thiết cho tăng
trưởng.
Một nạn nhân
khác sẽ là ý niệm cái gọi là tiền lãi cổ phần nhân khẩu. Vì chưng thịnh vượng Trung Quốc,
một phần do một thế hệ dân trai tráng đi
vào lực lượng lao động, các cố vấn nay sục sạo dữ liệu kiểm tra, cố tìm cho ra các chổ phình lên
dân số tương tự như thể là một
chỉ dẫn cho một kỳ diệu kinh tế lớn bự
sắp tới. Nhưng định kiến dân số
giả thiết là các lao động thành quả , sẽ cần thành thạo lành nghề hầu cạnh
tranh thắng lợi ở thị trường tòan cầu và các chánh phủ sẽ thiết lập những chánh sách đứng đắn tạo dựng công ăn việc làm. Trên thế giới thập niên vừa qua , làn sóng
vươn lên đã nâng cao mọi nền kinh tế,
khái niệm một tiền lãi nhân khẩu ( đông
đúc ) một lúc đã có ý nghĩa. Nhưng thế giới này đã qua rồi.
Những mô
hình vai trò kinh tế thời nay sẽ mở đường cho những mô hình mới hay có thể là
không có mô hình nào cả, khi các đường tăng trưởng đi, đã vỡ ra từng mảnh theo nhiều
hướng. Trong quá khứ, các quốc gia Á Châu có khuynh hướng nhìn vào Nhật Bổn như là một khuôn mẩu, các quốc gia từ biển Baltics
đến vùng Balkian nhìn vào Hiệp Hội Âu
Châu và hầu hết mọi quốc gia nhìn phần
nào vào Hoa Kỳ. Nhưng khủng hỏang 2008 đã phá ngầm độ tin cậy vào các mô
hình vai trò này. Những sai lầm mới
đây của Tokyo, làm cho Hàn Quốc – Nam Hàn , vẫn còn là tiếp
tục sức mạnh chế tạo công nghệ, trở thành mô hình Á Châu hấp dẫn hơn Nhật Bổn. Những quốc gia trước đây ầm ỉ muốn gia nhập
vùng Âu Châu, tỉ như Tiệp Khắc ( Czech
Republic ), Ba Lan ( Poland ) và Thổ Nhĩ Kỳ ( Turkey ), nay tự hỏi là có nên
gia nhập nữa không một câu lạc bộ có quá nhiều quốc gia đang phấn đấu để khỏi
bị chìm xuồng. Còn về phía Hoa Kỳ , thời
đại 1990 Hoa Thịnh Đốn nhất trí , kêu
gọi các quốc gia nghèo khổ bỏ bớt chi
tiêu và tự do hóa nền kinh tế mình, nay rất khó lòng bán được cho ai, khi mà Hoa Thịnh Đốn không thể nào thỏa
thuận cắt giảm thâm thủng quá đồ sộ của
Hoa Kỳ .
Vĩ lẽ tăng trưởng dễ dàng từ một khởi điểm thấp, làm
vô ý nghĩa so sánh các quốc gia theo các hạng – các giới lợi tức khác nhau. Những quốc gia thóat khỏi tình huống là các nước
giỏi hơn các đối thủ ở hạng lợi
tức chính mình và vuợt hơn chờ đợi rộng rãi ở hạng này .Hơn nữa , những
chờ đợi như vậy sẽ cần trở lui lại trái đất.
Thập niên qua là bất thường theo
nghĩa phạm vi rộng lớn và bước tiến mau lẹ của tăng trưởng tòan cầu và bất cứ ai
trông vào tình trạnh tốt đẹp này sẽ trở lui nay mai sẽ phải thất vọng.
Trong số các
quốc gia có lợi tức mỗi đầu người từ 20 000$ đến 25000$ US , chỉ có hai quốc
gia là đủ may mắn sánh ngang hay vượt mức 3% tăng trưởng hàng năm vào thập niên tới; đó là Cọng Hòa Tiệp Khắc và Hàn
Quốc – Nam Hàn . Trong nhóm lớn
lợi tức trung bình từ 10 000$ đến
15000 $ , chỉ có một quốc gia – Thổ Nhĩ
Kỳ - có thể đạt hay vượt tỉ xuất từ 4 đến 5 %
tăng trưởng, dù rằng Ba Lan cũng có cơ đạt được. Ở hạng từ 5000$ đến 10 000$ tuồng
như Thái Lan là quốc gia duy nhất có
thể vuợt trên mức này một cách đáng kể. Đến một chủng mực
nào đó, sẽ có một lọat ngôi sao thị trường đang trổi dậy những năm
tới, thế cho nên sẽ kê ra những quốc gia hiện nay lợi
tức mỗi đầu người còn dưới 5000$ như
Inđônêxia, Nigeria , Phi Luật Tân, Sri Lanka và một số quốc gia Đông Phi Châu .
( Việt Nam
hy vọng sẽ đạt lợi tức 4000 $ mỗi đầu
người vào cuối thập niên này ? ).
Dù rằng thế
giới có thể chờ mong nhiều quốc gia trổi
dậy nữa từ nhóm đáy hạng lợi tức, ở phần chóp
và phần giữa, trật tự mới kinh tế tòan cầu, tuồng như có lẽ y hệt trật tự cũ
hơn là các nhà quan sát tiên đóan. Phần còn
lại có thể tiếp tục tiến lên, nhưng họ
sẽ tiến chậm và không đồng đều như nhiều
chuyên viên tiên liệu. Và sẽ có một vài nước hiếm quí sẽ đạt
các mức lợi tức của thế giới đã mở mang!
( chiếu theo Ruchir Sharma chủ tịch ban
Thị trường đang trổi dậy và Vĩ mô Tòan cầu của Quản trị Đầu tư Morgan Stanley Investment Management
, tác giả sách Các quốc gia thóat
vượt mức: Đeo đuổi những Kỳ diệu kinh tế
Kế tiếp- Breakout Nations: In Pursuit of
the Next Economics Miracles)
( Irvine
, Nam Ca Li- Hoa Kỳ ngày 12 tháng 11 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét