Nhật sẽ làm gì khi Trung Quốc
càng mạnh hơn và Bắc Hàn - Bình Nhưỡng (
PyongYang ) tiếp tục xây dựng khả năng võ khí
nguyên tử ( và hỏa tiễn liên lục địa bắn tới Hoa Kỳ : Guam , Alaska ,
Ca Li … ? ) :
Những
Diều Hâu Nhật Cẩn Trọng
G S Tôn
thất Trình
This island is my island: the governor of Tokyo on Okinotori Island, May 2005. |
Chúng tôi đã cố viết
về Nhật bổn từ khai quốc đến năm 2005. Nay cố gắng bổ sung hiểu biết Nhật bổn
đến đầu năm 2013. Sau đây là quan điểm của Gerald L. Curtis, giáo sư Trường Khoa học Chánh trị Burgess, viện đại
học Columbia đăng tải ở số tháng 3- 4
năm 2013 ở tạp chí Ngọai giao – Foreign Affairs .
Tại sao Nhật sẽ không đeo đuổi một chánh sách ngọai giao năng nổ , hiếu chiến.
Nhật bổn đã nghĩ
đến một chánh sách ngọai giao tương tự kể từ cuối nữa thế kỷ thứ 19 . Các nhân
vật nắm chánh quyền sau cuộc Phục
Hưng Minh Trị Thiên Hoàng - Meiji
Restoration năm 1868, thiết lập
một họa kiểu đại chiến lược bảo vệ quốc
gia Nhật chống lại những đe dọa đương thời của đế quốcTây Phương.
Họ bị thúc đẩy không như các dân Hoa Kỳ
cùng thời, để thực hiện những gì họ xem
rỏ ràng là vận mệnh nước Nhật , cũng không phải như Pháp, cố làm lan tràn những đức tính văn minh Pháp.
Thách thức họ đối đầu và đã gặp phải là bảo đảm sống còn cho Nhật, trong một hệ
thống quốc tế các quốc gia mạnh hơn tạo
dựng và ngự trị.
Tìm kiếm thế
sống còn ngày nay vẫn là nét đặc trưng
của chánh sách ngọai giao Nhật, Tokyo đã cố công làm quyền lợi Nhật tiến
tới, không phải bằng cách định nghĩa một
lịch trình quốc tế, truyền bá một ý thức
hệ đặc biệt hay đề xướng một trật tự thế giới
theo nhãn quan Nhật, như Hoa Kỳ và các cường quốc khác đang làm. Phương
thức Nhật thi hành là lấy ngay môi trường ngọai, điều chỉnh nó thành những điều
thực tiễn đúng theo những bước tiến đôi khi Nhật gọi là “ Khuynh hướng thời đại” .
Kể từ Thế
Chiến thứ II, tính cách thực tiễn này đã
giúp Nhật luôn luôn đồng minh với Hoa Kỳ,
khiến Nhật đủ khả năng giới
hạn vai trò quân sự của mình vào tự phòng vệ mà thôi. Tuy nhiên, ngày nay,
khi Trung Quốc mãi mạnh mẽ hơn lên và Bắc Hàn ( Bắc Triều Tiên , Bắc Cao Ly )
tiếp tục xây đắp khả năng vỏ khí hạt nhân của mình và khi những tai họa kinh
tế Hoa Kỳ đặt ra câu hỏi tính chất vững bền quyền tối thượng của Mỹ ở Đông Á , Nhật
Bổn đang xét lại các tính tóan trước đây
của Nhật. Đặc biệt, những tiếng nói đồng thanh tăng mãi ở phe hửu, đề xướng một chánh sách ngọai giao tự trị và võ đóan hơn, đặt thành một thách thức nghiêm
trọng cho các phe đứng giữa - centrists, mãi đến gần đây là phe phái
định dạng chiến lược Nhật.
Ở cuộc bầu quốc
hội tháng 12 năm 2012, đảng Dân Chủ Tự Do - Liberal Democratic Party ( LDP
) và lảnh tụ đảng này Shinzo Abe,
trước đây đã giữ chức thủ tướng giữa các
năm 2006 – 07, trở lại nắm chánh quyền với một đa số thỏai mái. Song song với
đảng đồng minh New Komeito , LPD đã có
2/3 số ghế cần thiết thông qua luật ban hành đã bị các Hội
viên Ủy Ban - House of Councilors,
nghĩa là Thượng Viện Nhật lọai bỏ. Thắng
lợi của Abe là thành quả không phải của
đại chúng yêu chuộng ông hay đảng ông,
mà thật ra là các người đi bỏ phiếu
mất tin cậy đảng đối thủ là đảng Dân Chủ - Democratic Party . Dù
cho công chúng viện cớ nguyên do thế nào đi nữa, bầu cử
đã khiến chánh phủ Nhật nghiêng
về phía hửu và một thủ tướng có mục
đích phá bỏ các kiềm chế hợp hiến
cho giới quân sự Nhật duyệt lại hệ thống giáo dục, hầu châm thêm một
cảm tưởng yêu nước – ái quốc mạnh hơn cho thanh niên Nhật, và bảo đảm cho Tokyo
đóng một vai trò rộng rải hơn về các vấn đề trong vùng và trên thế giới. Dưới mắt nhiều nhà quan sát, tuồng như Nhật đang ở trên đường biểu
diễn nghiêng nặng về phía hửu.
Thật tế, cán cân sẽ không nghiêng như vậy. Công chúng Nhật vẫn
không thích hiểm nguy và các lảnh tụ Nhật cũng tỏ vẽ cẩn trọng. Kể từ khi nắm
quyền, Abe đã tụ điểm chú tâm làm sống
lại nền kinh tế Nhật trì trệ. Ông đã để qua một bên những tầm nhìn diều hâu và xét lại, một phần
vì muốn tránh phải liên hệ đến các khía cạnh
ngoại giao chia rẽ dân gian Nhật, cho đến bầu cử Thượng viện muà hè năm 2013. Nếu đảng ông bảo đảm chiếm đa số ở thượng viện hiện chưa có, Abe
có thể cố tâm tăng áp lực cho những tầm nhìn xét lại của ông. Nhưng những hành động khiêu khích sẽ có hậu
quả quan trọng. Chẳng hạn, nếu ông phải hủy
bỏ những tuyên ngôn các chính phủ tiền
nhiệm xin lỗi những hành động Nhật ở Thế
Chiến Thứ II, như ông đã liên tiếp lập lại là ông sẽ làm như thế, chẳng những ông sẽ đón mời một khủng hỏang
trong liên hệ với Trung Quốc, Nam Hàn ( Hàn Quốc ) mà còn phải đối mặt chỉ trích mạnh mẽ từ phía Hoa Kỳ. Hậu quả chánh trị nội địa
thật tiên đóan quá dễ dàng: Abe sẽ bị truyền thống báo chí lột da, mất hết ủng hộ trong công chúng Nhật và gặp phải chống đối từ những người khác
ngay trong đảng ông.
Tóm lại, cơ may
cho ai đợi chờ một thay đổi chiến lược Nhật sẽ không xảy ra, sẽ được xem là sai lầm. Dù sao, mọi
sự tùy thuộc và Hoa Thịnh Đốn – Washington
sẽ làm gì. Then chốt là Hoa Kỳ có tiếp tục duy trì một vị trí chủ trì ở Đông Á
không ? nếu có, và nếu dân Nhật tin
tưởng là cam kết Hoa Kỳ bảo vệ Nhật vẫn còn đáng tin, thế thì chánh sách ngọai giao Tokyo sẽ không lệch ra
khỏi lằn mòn hiện tại. Tuy nhiên, nếu Tokyo bắt đầu nghi ngại
quyết tâm Hoa Kỳ, Nhật sẽ bị dụ dỗ tấn công riêng mình.
Hoa Kỳ có quyền lợi củng cố khả năng phòng vệ của Nhật trong khuôn khổ một liên minh Hoa Kỳ và Nhật Bổn. Nhưng dân
Hoa Kỳ nào muốn Nhật rời bỏ các kiềm chế lập hiến cho giới quân sự Nhâật và đảm nhận một vai
trò lớn hơn về an ninh trong vùng, cần phải cẩn
thận về những gì họ ao ước. Tái vỏ trang chánh Nhật sẽ thúc đẩy một cuộc
chạy đua vỏ khí và nâng cao những căng thẳng trong vùng ( kể cả giữa Nhật và Nam Hàn, một đồng minh then chốt của
Hoa Kỳ) và đe dọa kéo Hoa Thịnh Đốn vào những tranh chấp không ảnh hưởng gì đến
những quyền lợi khẩn thiết Hoa Kỳ. Hoa
Kỳ cần một chánh sách khích lệ Nhật làm thêm nhiều về phòng vệ
riêng cho Nhật , nhưng không phương hại
ngầm đến những cam kết cần tin
cậy của Hoa Kỳ đối với Nhật và vùng Đông Á.
Càng thay đổi càng …
Trong nhiều năm qua, các học giả đã bình
luận tuyên bố là một lần nữa, Nhật xa lìa khỏi vị thế trở thành một cường quốc quân sự. Năm 1987, chính Henry Kissinger đã nhìn thấy
quyết định Nhật chọc thủng trần- ceiling chi tiêu quốc phòng là 1% GNP là chánh sách Nhật kể từ
năm 1976, khiến Nhật không thể nào “
tránh khỏi trổi dậy thành một cường quốc quân sự chánh trên thế giới vào
một thời gian không mấy xa nữa”, thế nhưng
ngân sách quốc phòng Nhật chí leo
lên đến mức 1.0004 % GNP năm đó”, và năm sau
lại trụt xuống dưới mức1%. Ngày
nay, mức trần này không còn là chánh sách chính thức của chánh phủ Nhật, nhưng Tokyo vẫn còn giữ
mức chi tiêu quốc phòng chỉ ít hơn mức 1% GNP đôi chút. Hơn nữa, ngân sách quốc phòng Nhật đã giảm đi
mỗi năm trong 11 năm qua. Dù Abe cam kết
là sẽ đảo ngược khuynh hướng này, các vấn đề tài chánh – thuế khóa Nhật cũng bảo
đảm là một tăng gia chi tiêu quân sự
sẽ rất khiêm tốn.
Chi tiêu quân sự Nhật duy trì như vậy, lại
nhắm vào một qui mô rộng lớn hơn. Thế
Chiến Thứ II chấm dứt hay Trung Quốc bừng dậy thành một cường quốc, đã khiến Nhật phải đục bỏ những tín điều căn bản chánh sách
ngọai giao thủ tướng Shigeru Yoshida đặt
ra tiếp theo chấm dứt Thế Chiến Thứ II. Chánh sách này nhấn mạnh rằng Nhật phải
dựa vào Hoa Kỳ cho an ninh quốc gia Nhật, giúp
giữ vững chi tiêu quốc phòng thấp và tụ điểm vào tăng trưỡng kinh tế.
Chắc chắn là chánh sách an ninh Nhât đã thay đổi rất
nhiều kể từ khi Yoshida nắm chánh quyền.
Nhật đã trải dài những giới hạn của Điều khỏan – Article 9 hiến pháp,
nói rằng Nhật từ chối quyền làm chiến tranh, khả dĩ giúp Lực Lượng Tự vệ
Self- Defense Forces phát triễn khả năng và thực hiện những nhiệm vụ trước đây bị cấm đoán. Nhật đã dàn trải hệ
thống phòng thủ hỏa tiễn liên lục địa- ballistic missile, hải quân
Nhật tuần tra các đường biển ở Đông Hải
Tàu và gíup chống trả hẳi tặc ở Vịnh – Gulf Aden quân đội Nhật
gia nhập các hành quân giữ hòa
bình- peace keeping operations Liên Hiệp Quốc từ Căm Bốt đến cao nguyên Golan Heights Li Băng - Do Thái. Dù
chỉ là 1% GNP cho quân sự , nhưng vì
kích thước kinh tế Nhật to lớn, chi tiêu quân sự này cũng là ngân sách quốc
phòng đứng hàng thứ 6 thế giới. Và dù có những giới hạn hiến pháp cho các sứ
mệnh, lực luợng quân đội Nhật cũng đã trở nên uy vũ và tiên tiến kỷ thuật .
Tuy nhiên, chiến lược Yoshida họa kiểu ra
trong nhiều năm qua, tiếp tục cưỡng chế
chánh sách Nhật. Nhật vẫn còn thiếu những khả năng cần thiết cho các
hành quân tấn công quân sự và Điều khỏan
9 vẫn còn là luật ngọai giao, quốc phòng cho Nhật. Trong lúc đó, Tokyo giải
thích điều khỏan này là cấm sử dụng lực
lượng quốc phòng ở một nước khác, khiến
Nhật không thể gia nhập nhiều hơn vào các vấn đề an ninh vùng và tòan
cầu. Abe đã cho biết là muốn sửa đổi gỉải
thích này, nhưng ông tiến hành rất cẩn trọng, vì dư biết là hành động như thế,
sẽ khởi động chống đối sinh cường từ các
quốc gia láng giềng và chia rẽ dư luận
quần chúng Nhật.
Tính cách vững
bền của chánh sách ngọai giao Yoshida, không chỉ làm các nhà quan sát quốc tế ngạc
nhiên. Chính kiến trúc sư của chánh sách cũng chán nản vì chánh sách đã ngự trị qúa lâu. Yoshida là một nhà thực tế,
tin rằng những hòan cảnh đen tối Nhật trải qua sau chiến tranh , đã làm cho không còn lựa chọn nào khác, ngòai ưu tiên
dành cho phục hồi kinh tế trên xây đắp
quyền uy quân sự Nhật. Nhưng ông lại chờ
đợi chánh sách thay đổi, một khi Nhật đã
có kinh tế cường thịnh.
Tuy nhiên, công
chúng Nhật đã nhìn tình thế khác hẳn.
Khi Nhật đã nổi bừng dưới dù che Hoa Kỳ , công dân Nhật hứng thú quên bẳng đi các cảnh báo phe tả là liên
minh sẽ
lôi kéo Nhật vào các mạo hiểm
quân sự Hoa Kỳ và lo sợ phe hửu là Nhật
có hiểm nguy buông thả bằng cách ngọai
nguồn – outsourcing quốc phòng mình cho Hoa Kỳ. Chiến lược Yoshida vẽ ra cốt làm tiến triễn các quyền lợi Nhật,
khi Nhật còn quá yếu, càng trở nên thích thú quảng đại hơn vào lúc Nhật thịnh vượng. Tình trạng này
vẫn còn đúng như thế ngày nay: ở một
nghiên cứu năm 2012 của sở nội các Nhật, kỷ lục cao 81.2% các người trả lời tỏ bày ủng hộ một liên minh
với Hoa Kỳ. Chỉ 23.4% nói rằng nền an
ninh Nhât đã bị đe dọa vì Nhật không đủ
quyền lực quân sự.
Đáng kể nhấn mạnh
là Nhật chống đối việc trở thành một cường quốc quân sự, không có nghĩa là vẽ ra
một chủ nghĩa hòa bình –pacifism.
Nói cho cùng, có lẽ đó là một định nghĩa kỳ quặc chủ nghĩa hòa bình, khi
nó gồm luôn cả sự ủng hộ một liên minh
quân sự đòi hỏi Hoa Kỳ dựng lên súng ống
kể cả võ khí hạt nhân, nếu cần , để bảo
vệ Nhật. Đa số da6n Nhật không và không
bao giờ chới từ sử dụng quân lực để bảo vệ xứ sở,điều họ chống cự lại là sử dụng lực lượng quân
sự không kiềm chế ngay cả của Nhật. Dân gian Nhật lo sợ là nếu không có hạn
chế về khả năng và sứ mệnh quân sự, Nhật
sẽ phải đối diện những căng thẳng tăng
cao lên với các nước láng giềng và Nhật
sa vào những chiến tranh ngọai quốc. Một
lo ngại vẫn còn lãng vãng là các
lảnh đạo chánh trị có thể mất kiểm sóat giới quân sự, làm bừng dậy bóng ma quay trở lui lại các chánh sách quân phiệt thập
niên 1930.
Xa hơn nữa, quần chúng Nhật và các nhà lảnh
đạo Nhật đã ý thức rỏ ràng là an ninh xứ
sở vẫn còn khớp nối với địa vị quân sự
Hoa Kỳ chủ trì ở Đông Á.
Vài người phe cực hửu muốn nhìn thấy Nhật phát triễn một dàn trải
đầy đủ võ khí, kể cả võ khí hạt nhân, trong một thúc đẩy chiếm lại tự
trị và đưa Nhật trở lại hàng ngũ đại cường quốc thế giới. Nhưng dòng chánh bảo thủ vẫn tin
tưởng rằng một liên minh mạnh mẽ với Hoa Kỳ vẫn
là một bảo đảm tốt đẹp nhất cho an ninh Nhật.
Các đảo trong mặt trời
Vì chưng phương thức thực tiễn của
Nhật về chánh sách ngọai giao, ai đó sẽ không ngạc nhiên thấy Nhật đã phản ứng
cẩn trọng đến môi trường quốc tế. Trung Quốc bừng dậy đã định nghĩa Nhật tăng gấp đôi
về chiến lược đào sâu liên minh
với Hoa Kỳ, cố tìm cách củng cố liên hệ
với các quốc gia ở ngọai biên Trung Quốc và đeo đuổi một thắt chặc gần hơn về kinh tế,
chánh trị và văn hóa với ngay cả chính
Trung Quốc. Một phát triễn duy nhất có cơ tháo bỏ khớp nối cho chánh
sách này sẽ là sự mất mát tin cậy về Hoa Kỳ cam kết, không
bảo vệ Nhật nữa .
Thật không khó khăn gì tưởng tượng ra
các màn kịch thử nghiệm mối liên minh
Hoa Kỳ - và Nhật bổn . Điều khó tưởng tượng là những màn kịch thực tiễn. Ngọai lệ chính là nguy hiểm rất thật tế tranh chấp giữa Trung
Quốc và Nhật ở các đảo Senkaku tại Biển Đông Tàu – East China Sea ( Trung
Quốc gọi tên là các đảo Điếu Ngư -
Diaoyu Islands ) , có thể lỏng tay buông , dẫn tới những bùng nổ tinh thần quốc gia tại hai nước.
Bắc Bình và Tokyo sẽ cho là khó ngăn cản cuộc căng thẳng này,
và các nhà lảnh đạo chánh trị ở cả hai bên đều cố tìm cách khai thác để tăng thêm uy tín cho mình. Tùy theo sự cố
sẽ mở xấp ra sao, Hoa Kỳ cũng có thể bị mắc lưới
giữa vòng, cấu xé giữa bổn phận phải
bảo vệ Nhật và sự chống đối của Hoa Kỳ để hành động, của cả Trung Quốc lẫn Nhật bổn, có
thể làm gia tăng các hiểm nguy một chạm trán quân sự.
Chánh phủ Nhật,
năm 1895, chiếm quyền kiểm sóat các đảo không người cư trú này, duy trì chủ
quyền Nhật trên các đảo, là không thể ai chối cải được. Thế cho nên đây là một
điểm chánh sách Nhật, khi từ chối không chấp nhận là có một cuộc tranh
chấp về các đảo. Về phần Hoa Kỳ, Hoa Kỳ công nhận là các đảo thuộc quyền kiểm soát hành chánh Nhật, nhưng
lại xem vấn để chủ quyền là một điều phải giải quyết song phương đàm phán giữa Trung Quốc và Nhật bổn . Điều
khỏan 5 của Hiệp Ước an ninh Hoa Kỳ - Nhật , tuy nhiên , cam kết là Hoa Kỳ phải hành động để giải quyết nguy hiểm chung,
khi có sự cố một tấn công võ lực bất cứ
bên nào, về các lảnh thổ dưới quyền quản trị của Nhật”. HoaThịnh Đốn , nói một cách khác, sẽ bị bó
buộc phải hổ trợ Tokyo trên một đụng chạm về các đảo, dù rằng Hoa Kỳ không công
nhận chủ quyền Nhật về các đảo này.
Phân biệt giữa
chủ quyền – sovereignty và kiểm sóat hành chánh ( cai trị ) không có mấy
nghĩa lý, khi tranh chấp về các đảo là thành quả gây hấn từ phía Trung Quốc. Nhưng cuộc bùng cháy mới đây nhất lại là
khinh xuất, không phải từ Trung Quốc mà từ các hành động Nhật. Tháng tư năm
2012, thống đốc dân tộc chủ nghĩa Tokyo . Shintaro Ishihara
( đã từ chức 6 tháng sau hầu thành lập
một đảng chánh trị mới ), tuyên bố các dự án mua 3 đảo Senkaku có sở hửu chủ tư nhân và cho chánh phủ trung ương thuê mướn . Ishihara
hứa hẹn là sẽ làm một hải cảng và đặt nhân viên Nhật trên đảo, một hành
động ông biết là sẽ khiêu khích Trung Quốc. Được biết rỏ những nhãn quan cực
hửu của ông và từ chương chống Tàu, Ishihara hy vọng lay chuyễn
dân Nhật khỏi cái mà ông gọi là
tính thờ ơ, lạnh nhạt nguy hiểm đối với đe dọa từ Trung Quốc và thách thức thái
độ uể ỏai của dân Nhật, về phát triễn
một sức mạnh quân sự cần thiết chận lại Trung Quốc.
Ishihara
không bao giờ có các đảo này, nhưng mánh khóe đã hửu hiệu khởi động một khủng hỏang với Trung Quốc, tai hại nặng nề cho quyền lợi quốc gia
Nhật. Thủ tướng Nhật lúc đó là Yoshihiko Noda , tường tận về những
nguy hiểm gây ra vì Ishihara mua đảo,
quyết định là chánh quyền trung ương mua
các đảo. Vì lẽ chánh quyền trung ương
Nhật đã kiểm sóat hòan tòan các đảo này, chủ quyền không đem lại thay đổi gì cả
về quyền hạn Tokyo
sử dụng các đảo. Mua đảo chỉ là phương cách giữ nguyên trạng hay chính đó là
điều Noda hy vọng thuyết phục Trung Quốc.
Thế nhưng
Trung Quốc đã giận dữ trả lời, tố cáo hành động Nhật như là “ một quốc hửu hóa
đất thiêng liêng Trung Quốc” . Khắp Trung Quốc, dân gian được kêu gọi tẩy chay
hàng hóa Nhật và ra đường biểu tình, thường dữ dội. Liên hệ Tàu - Nhật xuống thấp nhất, kể từ khi bình thường hóa 40
năm trước. Phải khen Noda là đã tìm cách
thoa dịu khủng hoảng và tái lập yên tỉnh giữa hai quốc gia, nhưng Trung Quốc
không muốn như vậy. Thay vào đó, Trung Quốc đã tiêm thêm áp lực với Nhật bổn,
gửi các tàu tuần dương vào địa phận biển
quanh các đảo Senkaku, gần như mỗi ngày kể từ khi khủng hoảng bùng cháy.
Hoa Kỳ phải làm
2 việc ở cuộc tranh cải này .Trước hết, Hoa Kỳ phải ủng hộ cứng chắc đồng minh
Nhật. Bất cứ một dấu hiệu nào Hoa thịnh
Đốn tỏ vẽ do dự hổ trợ Nhật ở đụng độ
này cũng sẽ gây ra sửng sốt lớn lao ở Tokyo .
Phe hửu Nhật sẽ có một ngày vui chơi lớn, lên tiếng ầm ỉ là xứ sở dựa vào Hoa
Kỳ về an ninh, đã khiến Nhật không thể bảo vệ quyền lợi Nhật . Chánh quyền
Obama đã khôn khéo lập lại quan điểm Hoa Thịnh Đốn là các đảo nằm trong lảnh thổ Tokyo cai quản
và đã tái bảo đảm dân Nhật và cảnh cáo dân Tàu
về bổn phận phải hổ trợ Nhật,
chiếu theo hiệp ước an ninh. Thứ hai là
Hoa Thịnh Đốn phải sử dụng tất cả quyền hạn thuyết phục của mình, để gây
ấn tượng trên cả hai Tàu lẫn Nhật về tầm quan trọng phải tháo ngòi nổ vấn đề.
Abe có thể đi bước đầu giúp đở bằng
cách rời bỏ ảo tưởng là không có tranh
chấp ở các đảo này. Tranh cải Senkaku sẽ ghi vào lịch trình song phương của hai nước, dù Nhật muốn ghi
hay không. Abe sẳn sàng thảo luận
sẽ mở cho Trung Quốc một lối
thóat, rút lui lập trường đương
đầu nhau và sẽ sắp hàng thẳng tốt đẹp hơn chánh sách Hoa Kỳ và Nhật.
Những điều khỏan giao ước
Barack Obama đắc
cử năm 2008 thọat tiên gây lo ngại ở Tokyo .
Luôn luôn lo sợ lợi ích Hoa Kỳ ở Nhật
đang tan biến, dân Nhật e ngại chánh
sách Á Châu của tân tổng thống Hoa Kỳ sẽ đặt ưu tiên cộng tác với Trung Quốc
trên hết và chỉ chấp thuận cho Nhật một thời gian thi hành án ngẳn ngủi. Nhưng
lo ngại này tuy nhiên đã giảm bớt, nhờ
những căng thẳng mới đây ở các mối liên hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc, những chức
quyền chánh thức Hoa Kỳ thăm viếng liên
tiếp đến Nhật, Nhật cảm kích về Hoa Kỳ
hổ trợ tiếp theo động đất và sóng thần – tsunami tháng
3 năm 2011 và Hoa Thịnh Đốn quyết định
ký kết Hiệp Ước Thân Thiện và Cộng Tác
Các Quốc Gia Đông Nam Á và gia
nhập Tối Cao Đông Á – East Asia
Summit.
Chánh
quyền Obama nhấn mạnh đến tầm quan trọng
chiến lược của Á Châu, tượng trưng bằng cách sử dụng những từ như “ngõng
trục – pivot”, “ trở lui – return”
và “tái cân bằng – rebalance”, mà một số người cho là chỉ từ
chương. Nhưng đó là từ chương quan trọng , dấu hiệu cam kết của Hoa Thịnh
Đốn không chỉ riêng có tham gia quân sự
Hoa Kỳ trong vùng mà còn luôn cả giao ước rộng lớn hơn vào các sự việc vùng. Dù
là biện pháp nào đi nữa, chánh quyền đã thành công thông tin cho các đồng minh
và kẻ thù Hoa Kỳ là Hoa Kỳ có ý định tăng
cường sự hiện diện của mình, không
phải hạ thấp hiện diện.
Điều làm
Tokyo lo ngại
ngày nay, không phải là một cấu kết bí mật Hoa Kỳ - Trung Quốc, mà là một viễn
cảnh đương đầu chiến lược. Bình yên của Nhật, thịnh vượng của nhiều quốc gia
khác, tùy thuộc vào duy trì liên hệ tốt đẹp với Trung Quốc, kẻ chung sức thương mãi lớn nhất với Hoa Kỳ và các mối
thắt chặc mạnh mẽ về an ninh với Hoa Kỳ . Vì Nhật tùy thuộc Hoa Thịnh Đốn về
quốc phòng, và tính chất sâu đậm cảm tưởng chống Nhật ở Trung Quốc, Nhật có rất
ít lựa chọn ngòai lựa chọn theo Hoa Kỳ, nếu Nhật bị bó buộc phải lựa chọn giữa
hai nước.
Nhưng một đụng độ giũa Hoa Kỳ và Trung
Quốc không đương nhiên cũng cố liên hệ
Hoa Kỳ và Nhật bổn. Thật sự nó sẽ tăng thêm ảnh hưởng những ai cổ võ một chánh sách an ninh Nhật tự trị. Ai biện cứ là Hoa thịnh Đốn thiếu những khả năng và ý chí chánh trị cần thiết để giữ vững địa vị Hoa Kỳ lảnh đạo ở Đông Á, những người
đó sẽ đẩy mạnh Nhât trổi dậy thành một quốc gia võ trang nặng nề, đủ khả năng
tự phòng vệ lấy mình trong một Á Đông đa
cực mới. Hầu tránh thành quả này và giúp
duy trì cân bằng ổn định quyền lực, Hoa Thịnh Đốn cần phải làm dịu bớt cạnh tranh không thể tránh với Trung Quốc, bằng cách giao ước cùng Trung Quốc phát triễn
những thể chế và tiến trình đề cao cộng
tác, cả song phương và giữa các quốc gia khác trong vùng.
Bạn không thể luôn luôn có được những gì
bạn muốn
Khi định
giá màn kịch chánh trị hiện hửu Nhật và
con đường chiến lược Tokyo có thể vẽ ra,
thật là quan trọng nhớ lại là chánh phủ
nghiêng hửu của phe giữa và một bàn cải hướng cực về chánh sách ngọai
giao, không có gì là mới mẽ ở lịch sử
Nhật hậu chiến . Abe là một trong những
thủ tướng nhiều ý thức hệ nhất của Nhật hậu chiến, cũng như ông của Abe,
Nobusuke Kishi, đã là một bộ trưởng
nội các ở Thế Chiến Thứ II và là thủ tướng từ năm 1957 đến năm1960. Kishi
muốn duyệt xét lại hiến pháp Hoa
Kỳ ép buộc Nhật làm và tháo gỡ các cải
cách hậu chiến khác. Đó cũng là các mục đích cháu ông muốn làm, nữa thế kỷ sau.
Nhưng Kishi
là một nhà thực tiễn biết phân biệt
những gì mong muốn và những gì có thể làm được . Ở chức vị thủ tướng, ông tụ điểm năng lực vào những gì có thể làm,
đàm phán với chánh quyền Eisenhower
duyệt xét lại hiệp ước an
ninh ngày nay vẫn còn là khuôn khổ cho liên minh Hoa Kỳ - Nhật bổn. Ý thức
hệ cũng không là con bài chủ trì được thực tiễn đối với Abe. Câu hỏi then chốt cho tương lai Nhật không phải là
lọai thế giới Abe muốn nhìn thấy,
nhưng là nơi Abe và các nhà lảnh đạo Nhật khác
tin rằng xứ sở Nhật
cần làm đễ sống sót trên thế giới như họ đã tìm ra.
Nếu chánh sách ngọai giao Tokyo đổi theo hướng khác, cái gì sẽ thúc
chạy không phải là một ham muốn Nhật
không cuỡng nổi, để Nhật trở thành một cường quốc. Dù cho vài nhà
chánh trị lên tiếng đòi ước vọng này, họ
chỉ đạt sự ủng hộ của công chúng khi nó trở nên
đáng thuyết phục là thay đổi tình trạng quốc tế, đòi hỏi Nhật phải chọn
một phương thức khác từ phương thức đã
đưa Nhật đến hòa bình, thịnh vượng hàng
chục năm trời.
Công chúng Nhật vẫn chúa ghét tìm
hiểm nguy. Gần 70 năm sau Thế Chiến Thứ
II , họ chưa quên các bài học thời đại này, không khác chi mấy
các quốc gia khác. Và dù có thay đổi trong vùng, thực tế của chánh trị Nhật và quyền uy Hoa Kỳ vẫn còn làm chiến
lược Nhật này tiếp diễn : duy trì liên
minh với Hoa Kỳ, dần dần nới rộng đóng góp Nhật vào an ninh vùng, phát triễn đối thọai an ninh
với Úc Châu, Ấn Độ, Nam Hàn và Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á; làm sâu đậm giao ước với Trung Quốc. Ảnh hưởng kinh tế và sức mạnh quân sự tăng thêm ở Trung
Quốc, cũng tạo ra những thách thức mới cho Tokyo và Hoa Thịnh Đốn , nhưng những thách thức này
có thể giải đáp mà không phân chia Á
Châu thành hai phe thù nghịch nhau. Nếu như chánh sách Nhật thay đổi thành điều
gì lớn hơn cách thay từng chặn đều đặn, thì đó là thất bại của Hoa Thinh
Đốn cho tiến trào chánh sách giữ vững lảnh đạo Hoa Kỳ, trong lúc đó vẫn thích nghi dàn xếp được với
quyền uy Trung Quốc.
Thế Abe
có vẽ ra được một con đường mới cho chánh sách ngọai giao Nhật không ? Chỉ có, nếu công chúng tin tưởng là đe dọa từ Trung Quốc quá nghiêm
trọng và lòng tin vào cam kết của Hoa Kỳ để ngăn chặn nó, tỏ ra quá yếu kém làm tai hại cho Nhật sống
còn. Nhưng nếu suy tư
hửu lý vẫn còn thắng lợi ở Bắc Bình,Tokyo
và Hoa Thịnh Đốn, phương cách đã làm Nhật thành một đinh chốt của chiến lược an
ninh Hoa Kỳ tại Á Châu, ổn định vùng, đem lại cho Nhật hòa bình và thịnh vượng,
tuồng như vẫn tiếp diễn.
( Irvine
Nam Ca Li, ngày 08 tháng 4 năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét