Cập nhật hiểu biết một ngành sản xuất quan trọng nước nhà:
Việt Nam có nên thôi đánh bắt ăn và xuất khẩu vi và thịt… cá mập ( cá nhám, cá nhà táng ? …) rồi chăng?
G S Tôn Thất Trình
Cá mập đầu búa mất hút ở biển El Bajo
Từ xa xưa thế giới đã đánh bắt cá mập –sharks
lấy vi cá giá trị, nhưng nay Hoa kỳ đang la hoảng vì khảo sát thấy đa số lòai cá mập biển Nam Ca Li và Thái Bình Dương Bắc Mễ Tây
Cơ, lòai săn bắt mồi khẩn thiết, đang
tan biến dần ở biển sâu. Tháng 10 mỗi năm
thường là tháng có nhiều cá mập
ở biển Vịnh Nam Ca Li- Baja California
gần thị trấn La Paz, bán đảo Baja - Mễ
Tây Cơ . Khi nước biển lạnh thêm, các cá
mập đầu búa – hammerhead sharks, lọai cá mập cở trung bình đến đây, tụ tập thành từng đòan đông đúc. Vào
cuối thập niên 1970, các nhà sinh học
biển khám phá những đàn cá khổng lồ này
xoắn lượn gần một núi dưới biển tên gọi
là El Bajo, nhiều đến nổi họ ngộp thở, lặn
xuống sâu vài mét, ngẩu nhiên bắt
một con, cột vào nó một thẻ điện tử với một que . Thời đó làm như vậy, vì họ nghĩ rằng cá đầu búa
dị tướng kiểu thần tượng ăn thịt người này
rất đáng sợ. Sau đó núi dưới biển trở thành một nam châm cho các nhà khoa học cũng như các nhà nhiếp
ảnh. Hình ảnh hàng trăm đàn cá đầu búa,
vớí đầu bầu dục nhận diện được liền,
biến thành một biểu tượng về phong phú đại dương và là một
trong những kỳ quan lớn nhất thế
giới thiên nhiên.
Cá mập đầu búa |
Tháng 11 năm 2011, Taylor Chapple, một chuyên
viên về cá mập thời danh thế giới đến
nơi, cố công chứng minh một lý thuyết đã lâu ngày là cá đầu búa và có lẽ
các cá mập khác di chuyễn xuyên qua
một cảm giác từ tính mạnh – powerful
magnetic sense. Hầu chứng minh cảm
giác thực thể này, ông làm một thí nghiệm mới. Ông bắt một con cá mập đầu búa, cột một máy phát truyền vào đẩu cá
và thả cá ra biển lại. Rồi khi cá lang
thang trên biển, Chapple sửa đổi dòng điện từ bằng linh kiện điều khiển từ xa.
Nếu cá cảm giác được từ tính -
magnetism , linh kiện Chapple dùng
sẽ hướng dẫn cá mập không khác gì một vật trò chơi
điều khiển xe hơi từ xa. Chỉ có một vấn đề : không có cá mập nào cả. Ông
xử dụng mọi cách đánh bắt, cả ngày lẫn đêm không ngừng trong hai tháng trời, nhưng không bắt được
con nào. Vào thập niên 1980, ở Biển
Cortez Sea
, một vịnh giữa bán đảo Baja và lục địa,
có hàng trăm cá đầu búa. Hàng năm chúng
tụ tập quanh núi biển và nhảy múa lượn chậm chậm quay tròn vũ khúc yêu
đương ban ngày và phân tán ban đêm. Ngày nay không còn cá nhảy múa
nữa. Nếu may mắn, các nhà tổ chức du lịch có cơ nhìn thấy vài cá mập con chưa
trưởng thành mỗi mùa.
Khắp
hành tinh Trái Đất cũng như tại đây, cá
mập được xúc lên khỏi nước vì cá giá
trị mau lẹ như lưới chăng – gill nets
( cá lọt đầu nhưng mắc lại ) và các dây câu dài- long liners có thể kéo chúng lên
mau. Dù rằng con số cá mập đánh bắt được rất khó chính xác. Ở nhiều vùng, sỉ số cá mập đã mất đi 90% hay
hơn nữa, đặc biệt là cá mập đầu búa. Chính vì vậy mà Chapple cùng hai nhà khoa
học trẻ tuổi đã đến vùng biển La Paz, hy vọng
tái sinh sỉ số cá mập, nơi chúng rất là nhiều trước đó. Họ đặt những linh kiện theo dõi chúng với những cảm giác
chưa bao giờ có cách đây 10 năm, mục đích tìm ra các câu trả lời cho vài vần đề liên quan đến cá mập lẫn
tránh: hiện chúng còn bao nhiêu con ?
Vây chúng đi đâu ? và chúng ta có
thể nào tạo ra những khu bảo tồn cứu
sống chúng ? Nhưng câu hỏi lớn nhất có lẽ là :
Khi chúng ta có các giải đáp, có còn con cá mập nào sống sót không ? Còn
tiến sĩ cá Đầu búa- Dr Hammerhead Peter
Kimley, nhà sinh học biển viện đại học UC Davis đã đến
vùng này từ năm 1978, khi ông mới
31 tuổi. Năm 1979, ông bắt gặp một đòan
hơn 500 cá đầu búa, giữa một đàn khổng
lồ cá ngừ -skipjack ở sườn núi
phía Bắc dưới biển, tụ tập ở một diện tích chỉ bằng một sân đá banh túc cầu.
Ổng đã mất hơn 10 năm kế tiếp cố tìm
hiểu tại sao lại có một số tụ hợp cá mập nhiều như vậy, cách nào chúng di chuyễn mỗi ngày tìm ăn. Ông
tránh dùng các thùng lặn ép khí – scuba tank hay lồng bắt cá mập, đơn giản đánh dấu những động vật dữ tợn này với lưỡi
mác – spear và một ống thông hơi
– snorkel xuống sâu khỏang 30 m
nước. Kimley bắt đầu bằng những cờ hiệu
plastic lưỡi mác buộc trên lưng chúng, màu sắc theo mã số khác nhau, hầu đếm nhìn
cá mập từng con, mà không mất dấu tích chúng.
Sau đó ông dùng một kỷ thuật tên gọi là kính
trắc viễn truyền đạt sinh học - biotelemetry,
những phương tiện theo dấu phức tạp phát đi những nhịp âm thanh – acoustic
pulses theo dõi được từ bên trên,
nhờ một xuồng nhẹ nhỏ- small skiff hay qua những trạm nghe ngóng dưới biển theo dõi cá mập nhiều
ngày. Kính trắc viễn đòi hỏi 2 bộ phận:
một thẻ dính vào cá mập và một trạm nghe ngóng nhận tín hiệu. Kimley trở thành một nhà tiền phong cho cả
hai kỷ thuật, thiết lập những trạm nghe ngóng dò tìm những thẻ siêu âm phát ra
những tín hiệu theo những tần số mà tai người không cảm giác nổi.
Năm 1982, Klimley
làm tiết lộ bí mật đầu tiên về cá
mập đầu búa của vùng El Bajo. Các cá mập quay tròn thảy đều là
cái – female , con lớn nhất
trưởng thành nhất gần giữa đàn hay ở đáy, ngạo nghễ duy trì vị trí. Ông nhìn thấy các con đực bơi lội quanh ở ngọai vi, tiến vào khối lượng quay
tít để giao cấu, càng gần trung tâm càng hay , như thế bảo đảm
là con đực mạnh khỏe nhất tìm được những con cái cũng mạnh khỏe nhất. Có lẽ đây là một xếp đặt xã hội phức tạp nhất
cho những động vật được xem ( một cách
sai lầm ) là có óc nảo quá nhỏ. Klimley tìm thấy là núi dưới biển giống như
một trục bánh xe đạp, nơi cá mập
theo các nan hoa ( gậy chèn xe ) – spokes
rộng gần 20 km để kiếm thực phẩm.
Rồi chúng trở lại dọc theo lối cũ đến trục quay cuồng cho một ngày mới. Cách nào chúng
tìm ra lối cũ về El Bajo mỗi sáng sớm ? Sau khi băn khoăn và hầu như trải
giấy hầu hết địa hình sàn đáy biển và thiết lập bản đồ từ tính , năm 1993
Klimley giả thiết là cách nào đó, các đầu cá bầu dục có thể cảm giác được những thay đổi bé tí xíu trên các đường từ tính các dòng dung nham hỏa
diệm sơn tạo thành. Lý thuyết này gây
nhiều tranh cải: nhưng Klimley tin rằng các
cá mập đã theo các đường đi này để di chuyễn ở biển. Đây là lần đầu tiên có kẻ gợi ý là một động vật có thể sử dụng những mô hình
từ tính địa phương đễ đi ngang qua sàn đáy biển. Nhiều nhà khoa học đã dùng lý
thuyết Klimley, tỉ như Ketchum ở Palagios
Kakunjá và Galapagos , hầu nghiên cứu cá mập đầu búa và cac mập óng ánh như tơ
và tựa cá voi- whale; Hoyos ở Guadalupe Island, cách Baja 200 km để theo dấu cá mập trắng – white sharks. Từ năm 2005 đến 2010, Chapple cộng tác với Klimley đã ước luợng tổng số cá mập trắng ở Trung Ca Li : chỉ còn 219 cá mập trắng, không kể các con
còn qúa trẻ. Một nghiên cứu khác đếm thêm 130 con, đưa tổng số cá mập trắng của
biển Mexico va California lên con số
chưa đến 400 con . Gợi ý rằng các đại
dương đang sụp đổ từ bên trên. Từ tháng 10 năm 2011, Chapman sử dụng kỷ thuật cải tiến gắn thêm thẻ lõi
Helmhotz Viện Điểu học Max Planck
Institute for Ornithology và Công
ty Desert Star Systems của California bổ sung thêm, để theo dõi cá mập chuyễn
động cá ở vùng El Bajo. Nhưng cả ba
Chapple, Hoyos và Ketchum không còn bắt
gặp một con cá mập đầu búa nào nữa cả.
Những vi - fins cá cao giá
Vậy chớ cá mập đi đâu hết rồi ? Chúng đến Á Châu theo một cách tệ hại nhất .
Ở Trung Quốc , xúp vi cá cũng quan trọng cho lễ cưới như thể vòng nhẩn kim cương và rượu sâm banh ở Hoa
Kỳ. Thời xa xưa đó
là một dấu hiệu giàu sang, ngày nay vi cá phổ biến khắp nơi, đúng theo một sự cố quan
trọng: Nhật dùng ở sushi ( cơm xắc lát
cuốn rong khô đen sậm ) bánh kẹo và luôn cả thực phẩm nuôi mèo. Nhu cầu đòi hỏi
vi cá tăng thêm, khi Á Châu giàu có hơn. Từ năm 1985 đến năm 1998, Hồng Kông
nhập cảng vi cá bừng dậy và thương mãi vi cá thế giới nhảy vọt, tăng hơn 214 %. Trong thời gian này, La Paz trở nên một vùng đánh cá mập lấy vi làm xúp, đặc biệt
là cá mập đầu búa mà các ngư phủ cho
là đặc biệt có vi to lớn. Giá vi cá ở
thị trường Hồng Kông là trên hàng trăm đô la một cân Anh; vi cá là một thành
phần thực phẩm đắt nhất thế giới. Một nghiên cứu ước lượng thương mãi thế giới là nữa tỉ đô la Mỹ và 73
triệu cá mập mỗi năm, một đánh bắt gây sốc mạnh. Vi cá mập cũng được các tổ chức tội lỗi, đạo
tặc-mafia nhập lậu nữa. Theo Boris Worm, một nhà sinh học bảo tồn
biển và chuyên viên thượng đẳng về các sĩ số
cá mập ở Viện Đại học Dalhuosie Canada: ai đó đã trải 20 hay 30 năm nay
về đại dương đều cho biết là họ nhìn thấy trước đây rất nhiều cá mập, nay
thì không còn nhìn thấy con nào nữa cả. Những khỏang rộng lớn biển Caribbean và Địa Trung Hải nay hần như sạch- không còn cá mập. Ỏ St Paul Rocks, cách ngòai khơi bờ biển
Brasil chừng 600 dặm Anh - gần 1000 km, Charles Darwin mô tả những
khối đầy ắp cá mập rặng dài san hô, khi ông ngừng chân giây lát nơi này, trong chuyến viễn du danh vang. Nhưng đến năm
2011, các nhà khoa học tuyên bố là các cá mập rặng san hô Galapagos nay đã tuyệt tích. Nếu muốn bảo vệ
một lòai cà mập nào, theo lời Mike Carr, nhà sinh học Viện đại học UC Santa
Cruz Bắc bang Ca Li và là một chuyên
viên Vùng Biển được Bảo vệ -Marine Protected Areas ( MPA ), không cần phải bảo vệ tòan đại dương , chỉ
cần bảo vệ các vị trí đặc biệt nơi chúng ta biết là chúng tụ hợp để đẻ. Năm ngóai 2012, Chánh phủ Mexico đã làm cộng đồng ngư phủ nổi giận vì một cố gắng bất ngờ thực thi một đạo luật bảo vệ cá mập ở Baja vào mùa hè, trên lý thuyết là thời gian lý tưởng cá đẻ trứng. Đây cũng là lần đầu tiên nghiêm chỉnh sau
nhiều năm qua, Mexico bảo vệ cá mập đầu búa. Qui ước Thương mãi Quốc tế về các lòai có nguy cơ tuyệt tích – Convention
on International Trade in Endangered Species ( CITES ) đã bỏ phiếu cấm bán nhiều lòai cá mập đầu búa không có hồ sơ, đe dọa trừng phạt những quốc
gia không tuân thủ.
Phơi khô vi cá mập trên mái nhà ở Hồng Kông |
Các lòai cá mập trên thế giới
Có rất
nhiều lòai cá
mập trên các đại dương thế giới. Vài lòai khổng lồ, nhưng cũng có vài
lòai bé nhỏ, vài lòai dữ tợn, vài lòai chỉ lo công việc mình và rất là bình
tĩnh. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết
là vài lòai cá mập to lớn trên đại dương
thế giới lại là những lòai hiền hậu nhất đời. Trên
thế giới có cả thảy 440 lòai cá mập, xếp
thành 8 tông chi khác nhau.
Đặc tính lý học của mỗi tông – nhóm như sau đây:
-
A-
Nhóm có vi hậu môn- anal fin, chia ra làm 5 tông :
1- Nhóm
6-7 mang cá xẽ rảnh – gill slits
, và một vi lưng – dorsal fin: dạng Hexanchiforms,
phát sinh từ thời đại Permian
2- Nhóm
5 mang xẽ rảnh, hai vi lưng, vi có xương
lưng- dorsal fin spines ; dạng Heterodontiformes,
phát sinh từ thời Triassic
3-
Nhóm không xương lưng, nhưng miệng trước hẳn các mắt là dạng Orectolobiformes, có từ thời Jurassic
4- Nhóm
không xương lưng, miệng sau mắt, không có mí mắt nháy – nictitating eyelids,
có van vòng ruột non, là dạng Lamniforms, có từ thời Jurassic
5- Nhóm
không xương lưng, miệng sau mắt, có mí mắt nháy, van
ruột non xoắn ốc hay cuộn lại là nhóm Carcharhiniforms,
cũng có từ thời Jurassic
-
B- Nhóm
không có vi hậu môn chia ra làm 3 tông ;
6-
Thân
không giống như ráy cá( cá đuối ) - raylike, miệng giữa bụng, mỏ ngắn
không như răng cưa là dạng Squaliforms,
có từ thời Jurassic
7-
Thân
không giống như ráy cá, mỏ dài răng cưa là dạng Pristiophoriforms, có từ thời Jurassic
8-
Thân
dẹp hẳn đi, giống như ráy cá ( cá đuối ) miệng ở cuối thân là dạng Squatiniforms
10 lòai cá mập to lớn nhất thế giới :
1- Cá Mập Voi, lọai cá ông – cá voi Whale
Shark. Tên
loài Rhincodon typus là lọai không ăn thịt sống – predators
mà chỉ là một lọai chuyễn động chậm lọc
ăn -filter feeder như lọai cá mập phơi nắng trên mặt nước – basking
sharks. Cá mập voi này có thể dài đến 41 bộ Anh ( 12. 3 m ) và nặng
đến 15 tấn. Có thể tìm ra chúng ở các
đại dương nhiệt đới, nước ấm áp. Được biết là nó sống đến 70 năm và
đã hiện diện cách đây 60 triệu năm rồi.
Cá mập voi |
2- Cá
Mập Phơi Nắng – Basking Sharks. Tên
lòai là Cetorhinus maximus là cá mập
to lớn đứng hàng nhì thế giới. Cá Mập
Phơi nắng có thể dài đến 12m và có con nặng tới 19 tấn
Cá mập khổng lồ này cũng không ăn
thịt sống và chỉ là lòai lọc nước kiếm
ăn .
3-
Cá Mập Trắng Lớn – Great White Sharks. Tên
la tinh là Carcharodon carcharias là một lòai cá mập nổi tiếng là đồi bại, tệ hại.
Được biết là chúng có thể dài đến 7.9 m
và nặng 2.5 tấn. Cá Mập Trắng Lớn là
lòai duy nhất còn sống sót của tông Carcharodon. Đáng tiếc là lòai này lại
tìm thấy khắp gần bờ biển mọi đại dương.
Cho nên phải coi chừng xem biển bạn muốn
tắm mùa nghĩ hè có là nơi sinh thái chúng sống không.
4- Cá
Mập Cọp ( Hổ ) Tiger Sharks. Là lòai Galeocerdo
cuvier đứng hàng thứ tư trên thế
giới. Nó có thể dài đến 7.3 m, nặng đến gần 1 tấn. Cũng được biết là rất đồi
bại , tệ hại. Không những chúng ăn rất
nhiều lòai đời sống biển mà cũng hay tấn
công người đi tắm biển. Cá mập Cọp
phần lớn sinh sống ở nước biển nhiệt đới, nhưng tìm thấy rất nhiều quanh
các đảo miền Trung Thái Bình Dương.
Cá mập hổ |
5- Cá Mập Ngủ Thái bình Dương – Pacific Sleeper
Sharks. Tên loài Somniosus
pacificus là cá to ,có thể dài đến 6.9 m và nặng gần 400 kí. Đặc điểm là tìm thấy chúng ở các biển cực
Bắc hay cực Nam
– polar waters suốt năm. Chúng phần lớn
sống ở nước biển sâu, có khi dưới sâu cách mặt nước đến 1850m.
6-
Cá Mập (Đảo ) Greenland. .Tên loài Somniosus microcephalus.
Cũng là một cá mập to lớn có thể
tìm thấy ở Bắc Đại Tây Dương, đa số ở gần đảo Greenland và Iceland. Chúng có
thể dài trên 8m và sống đến hơn 200 năm.
Chúng được xem là động vật có xương sống
- vertebrate sống lâu nhất. Tuy ở
Greenland chúng thường sống cách mặt nước gần 2000m, chúng thường thấy bắt được
trong phim xi nê cách mặt nước chỉ 6- 7 m mà
thôi .
7- Cá
Mập Lớn Đầu búa Hammerhead Shark .
Tên loài Sphyrna mokarran là lòai cá mập đầu búa to lớn nhất lòai, có thể
dài đến gần 7m. Lòai cá đầu búa lớn này có
mặt khắp nơi trên thế giới như các cá mập nước
biển ấm áp nhiệt đới. Tuy Cá Mập Lớn Đầu búa cũng nguy hiểm cho người, chúng thường có khuynh hướng
nhút nhát, cố tránh người. Cá Mập Lớn
Đầu búa nặng nhất đến hôm nay là một con
cái cân nặng hơn 580 kí , bắt được ở biển Boca Grande ở bang Florida - Hoa Kỳ.
8- Cá
Mập Đập Lúa Thresher Shark có phần
lớn hơn lòai bà con tương tự là Cá Mập Đập Lúa Mắt Bự - Bigeye Thresher
Shark là một lọai cá mập to lớn, có khi dài đến 5.4 m. Tìm thấy ở các đại dương
nhiệt đới quanh thế giới. Cá mập đập lúa tuy là một lòai tương đối mảnh khảnh,
nhưng bạn đừng khinh thường, vì các con cá xấu nết này có thể nặng đến gần 500
kí !
Cá mập đập lúa |
9- Cá
Mập Sáu Mang , Mũi Cùn Bluntnose Sixgill
Shark thường được gọi là Cá Mập
Bò cái Cow Shark . Tên la tinh là Hexanchus
griseus, thuộc họ Hexanchidae. Đa số bà con nó đều đã tuyệt tích. Da cá mập
này có thể nâu đậm hay nâu đà, đôi khi
gần như đen hẳn. Có thể dài đến 6-7
m và những con lớn có da đốm lấm chấm
nữa.
10- Cá Mập Đập lúa Mắt Bự Bigeye Thresher Shark.
Tên la tinh là Alopia superciliosus,
cũng có thể tìm thấy ở các đại dương
nhiệt đới khắp thế giới ở độ sâu gần 500m. Cá Mâp Đập Lúa Mắt Bự màu tím xám, có thể dài đến trên 5m và nặng
đến gần 400 kí.
Ngành đánh bắt cá mập ở Việt Nam
(Phần lớn chiếu theo Trần Văn
Cương và Nguyễn Hòai Nam
– Hà Nội tháng 4, 2012)
Các lọai cá mập ở Việt Nam
Viện khảo cứu hải sản và các cục
thủy sản Việt Nam
thống kê chung các lọai cá đuối và cá
mập- sharks. Nhóm cá đuối chia ra
làm hai dạng : dạng cá đuối, ráy cá -
rays thủy lôi- torpediniformes và dạng cá đuối- rajiformes , nhận
diện ở nước nhà, phân chia ra 40 lòai- species, thuộc 19 tông chi –
genus, 9 họ- families của 2 bộ - orders .
Nhóm cá mập Việt Nam tổng kê được 38 lòai, thuộc 23 tông chi, ở 12 họ của 6 bộ.
- Nhóm
( bộ) cá mập Squaliforms chỉ
có 1 lòai là Centrophorus granulosus
- Nhóm Squatiniforms
cũng chỉ có một lòai là Squatina japonica.
- Nhóm Carcharhiniforms có 12 lòai thuộc
họ Carcharhinidae: Carcharhinus
albimarginatus, C. amblyrhynchoides, C.
dussumieri, C. falsiformis, C. melanopterus, C. plubeus, C. sealei, C.
sorrah, Carchahinus sp., C. tillstoni, Prionace glauca, Scolodion laticauidu ; hai lòai thuộc
họ Hemigaleidae là Hemigaleus microtosma và Paragaleus
sp.; 5 lòai thuộc họ Scyliorhinidae là Cephaloscyllium
isabellum, Cephaloscyllium sp., Cephaloscyllium umbratile, Halaelurus buergeri và
Scyliorhinus torazam ; 2 lòai họ
Sphyrnidae là Sphyrna lewini và S. mokarran; các họ chỉ có một lòai như
Proscylliidae ( Proscyllium sp. ), Squalidae ( Squalus sp . ), Triakidae (Mustelus griseus )
- Nhóm Orectolobiforms gồm 3 họ :
Hemiscylliidae có 6 lòai Chiloscyllium griseum, C. indicum, C.
plagiosum, C. puctatum, C. sp. và Hemiscyllium
ocellatum; họ Rhincodontiae chỉ có một lòai là Rhincodon typus, họ
Stegostomatidae cũng chỉ có một lòai là Stegostoma
fasciatum .
- Nhóm Heterodontiforms có một họ
Heterontidae và một lòai là Heterodontus zebra
- Nhóm
Lamniforms có
3 họ : Alopiidae chỉ một lòai là Aliopas pelagicus, Lamnidae một lòai là Carcharodon carcharias và họ
Pseudocarchatiidae cũng chỉ có một lòai là Pseudocarcharias
kamoharai
Sách đỏ Việt Nam ghi là 7 lòai cá mập có nguy cơ tuyệt tích -
endangered là Alopias pelagicus, Stegostoma fasciatum, Rhincodon typus,
Cephaloscyllium umbratile, Carcharhinus albimarginatus, Cacharhinus
melanopterus, Etmopterus lucifer ( ? ) .3 lòai rất dễ bị tổn thương-
vulnerable là Pseudocarcharias
kamoharai, Carcharodon carcharias và
Carcharhinus amblyrhynchoides .
Năm 2010 , bá cáo quốc tế cho
biết ở biển Bắc Mỹ có 32 vụ cá mập tấn công mà không có bị khiêu khích, 14 vụ ở
Úc Châu, 8 vụ ở Nam Phi, 6 vụ ở
Việt Nam và Ai Cập … nhưng viện Hải học Nha Trang tháng 7 năm 2012
lại cho biết trong thời gian 2009 –
2010 có đến ít nhất là 10 lần cá mập tấn công người tắm ở
biễn gần thành phố Qui Nhơn , tỉnh Bình Định.
Ngày 18 tháng 7 năm 2009, cá
mập mắt heo – pigeye shark Carcharhinus
amboinensis tấn công cắn bị thương
chân nặng anh Nguyễn Quang Huynh đang
bơi lội cách bờ 150m. Ngày 9 tháng giêng
năm 2010, cá mập nhóm mỏ đen blacktip shark Carcharhinus limaltus tấn công
làm tay anh Mang Đức Hạnh bị thương nặng, khi anh bơi lội chỉ cách bờ 10 m. Trong
lúc đó có lẽ cá mập yểu điệu graceful
sharks Carcharhinus amblyrhynchoides có thể đã tấn công 8 lần khác. Theo Võ Sĩ Tuấn, phó giám đốc Hải
Học Viện Nha Trang, vùng biển ngòai khơi
thành phố Qui Nhơn là sinh
thái sinh sống thiên nhiên của nhiều lọai cá mập nhiệt đới, nơi cá
mập thường đến gần bờ tìm thức ăn. Tuấn cũng cho biết là các trại nuôi lồng tôm hùm gần đó cũng hút dẫn các cá mập đói lòng và hiện tượng El Nino tăng nhiệt độ và chất đặc trong nước biển này làm nhiều cá mập lầm tưởng con nguời là mồi
ăn của chúng. Tuấn đề nghị là đem lồng nuôi tôm hùm ra xa hơn nữa và che chở
vùng tắm bằng một lưới lớn đánh bắt cá
mập.
Đánh bắt cá mập ở Quy Nhơn |
Cá mập ở biển Phú Yên |
Cách đánh bắt cá mập ở Việt Nam
Lọai dụng cụ đánh bắt cá mập
chánh ở Việt Nam là dây câu dài – long line. Ngành đánh bắt cá mập phát triễn mạnh mẽ ở
Việt Nam từ cuối thập niên 1980 đến thập niên 1990, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung
, nổi tiếng nhất là ở đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận – Phan Thiết . Tàu
đánh cá mập phổ biến có thân tàu dài 14- 17m , trang bị động cơ 45- 60 mã lực.
Mùa đánh cá mập là từ tháng giêng đến tháng chín . Bắt được cá nhiều nhất là từ
tháng ba đến tháng sáu. Vì tàu này thuộc cở nhỏ , nên chỉ ra khơi được và mùa
biển yên lặng từ tháng ba đến tháng
sáu. Bề dài của dây câu là từ 15km đến
30km móc từ 300 đến 600 luỡi câu. Mỗi
lưỡi dùng mồi bẩy là cá ở độ sâu trung bình – pelagic, chừng 200 gr cá
ngừ - tuna hay cá heo – dolphin.
Cá mập mắc lưỡi dây câu rất
cao 45- 100 % móc được cá . Cứ mỗi chuyến đi, mỗi tàu bắt
được 400 – 4000 kg cá mập. Cá mập đánh bắt được nhờ dây câu khỏang chừng 21%
tổng số đánh bắt được.
Nhiều thiết bị khác cũng đánh
bắt được cá mập, tuy rằng không phải là dụng cụ chánh đánh bắt cá mập: đa số
dụng cụ này là lưới giả cào – trawling net và lưới chăng – gillnet
.Các dụng cụ này bắt luôn cả cá mạp lẫn cá đuối
–rays. Tỉ lệ cá mập mỗi lần
bắt được không cao ( 0.7- 1% ) Nhưng nhờ số lượng tàu trang bị này
rất cao cho nên tổng số sản phẩm
cá của hai lọai lưới này cũng rất cao . Cho nên tổng số cá mập và cá đuối đánh bắt cũng thật
là quan trọng. Lưới giả cào đánh bắt
được 0.72 % tổng số cá mập và lưới chăng chừng 1% tổng số.
Sử dụng cá mập ở Việt Nam sau khi đánh bắt
Biến chế và thuơng mãi cá mập ở
nước nhà như sau:
Cá mập tươi : cá mập
đánh bắt được để nguyên con, còn tươi trong tàu lưới giả cào và tàu lưới chăng cho đến khi cập bến. Cá mập nặng
hơn 6-7 kg được cắt vi cá, nhưng cá nhẹ
hơn 6 kg sẽ bán nguyên con, còn cả vi.
Cá mập khô : đã thấy ngay trên tàu giăng dây câu dài. Tàu đánh cá ngòai khơi cho nên cá mập phải để khô : làm thịt cá khô , da khô và xương khô.
cá mập sữa |
Cá mập khô : đã thấy ngay trên tàu giăng dây câu dài. Tàu đánh cá ngòai khơi cho nên cá mập phải để khô : làm thịt cá khô , da khô và xương khô.
Dạ dày- stomach cá
mập: được duùng làm thực phẩm
Gan cá mập : được cắt ra làm nhiều miếng nhỏ rồi biến chế
thành dầu và đựng trong lon, hộp plastic .
Dầu gan cá mập |
Vi cá : là sản phẩm xuất khẩu
Các sản phẩm cá mập bán ra theo nhiều thể thức thị trường : thịt tươi bán cho thị trường trong nước ; thịt khô bán ở chợ Sài Gòn hay biến chế thành từng miếng nhỏ ngâm trong gia vị ; da , xương và gan dùng xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo dữ liệu nghiên cứu, có 3 trùm đại gia mua cá mập. Năm 2003 có một trùm mua đến 14 tấn da cá mập. Chỉ trong đầu quý thứ nhất 2004, một trùm mua 5 tấn da và 50 kí xương. 6 tháng đầu năm 2003, Phú Quý bán ra 137 tấn thịt cá và 3.9 tấn vi.
Vi (hay vây) cá mập là món ăn ưa chuộng của người Trung Hoa |
Các sản phẩm cá mập bán ra theo nhiều thể thức thị trường : thịt tươi bán cho thị trường trong nước ; thịt khô bán ở chợ Sài Gòn hay biến chế thành từng miếng nhỏ ngâm trong gia vị ; da , xương và gan dùng xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo dữ liệu nghiên cứu, có 3 trùm đại gia mua cá mập. Năm 2003 có một trùm mua đến 14 tấn da cá mập. Chỉ trong đầu quý thứ nhất 2004, một trùm mua 5 tấn da và 50 kí xương. 6 tháng đầu năm 2003, Phú Quý bán ra 137 tấn thịt cá và 3.9 tấn vi.
Khuynh hướng đánh bắt cá mập bằng lưới chăng
có phần giảm dần trong các năm 2000- 2004.
Bắt được nhiều nhất là năm 2001 ( chừng 0.41 kg /km ) và bắt ít
nhất là năm 2002 ( chừng 0.18 kg/km).
Đánh bắt nhiều ít, lẽ dĩ nhiên tùy thuộc mùa cá. Thông thường đánh bắt mùa gíó Đông Bắc cao
hơn mùa gió Tây Nam. Điển hình mùa
gió Đông Bắc năm 2001 đánh bắt được đến
0.6 kg/km. Trái lại bắt được ít
nhất là mùa gió Tây Nam năm 2003,
chừng18 kg/km, đặc biệt mùa gió này đánh bắt giảm rỏ rệt từ năm 2000 đến 2003.
Rồi thì khuynh hướng tăng trở lại từ năm 2003 đến 2004. Ứớc lượng sinh khối cá mập cho thấy khuynh hướng suy giảm. Sinh khối cá mập ở Vịnh Bắc Việt giảm quan trọng từ 2001 đến 2004. Mùa gió mùa 2002, sinh khối cá mập ước lượng là 1068 tấn, năm 2003 giảm xuống
648 tấn và năm 2004 chỉ còn 626 tấn. Ở
vùng Đông Nam Á Châu sinh khối cá mập được ước lượng là 2 473- 5 629 tấn các
năm 2000- 2004 . Sinh khối cao nhất là
vào mùa gió Tây Nam năm 2003 và thấp
nhất và mùa gió Tây Nam năm 2004. Ở vùng Tây Nam, sinh khối mùa
đánh cá mập là 518 tấn mùa gió Tây Nam 2000 và
1 534 tấn mùa gió Đông Bắc 2002. Sinh khối mùa gió Tây nam tăng từ 1531 tấn năm
2002 đến 1 061 tấn năm 2003 và 1002 tấn
năm 2004. Tóm lại, sinh khối cá mập vùng
Đông Nam Á Châu ước lượng cao nhất so với các vùng khác ở Việt Nam. Sinh khối cá mập thấp nhất là ở Vịnh Bắc Việt.
Hai cảng cá quan trọng cho ngành cá mập ở Việt Nam là : Thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Sài Gòn 200 km phía Nam Vịnh Cam Ranh và là
tỉnh vị trí cuối của nguyên duyên
hải miền Trung Việt Nam. Phan Thiết là
nơi nổi tiếng về đánh bắt cá mập theo phương
pháp thả dây câu dài. Có hai bến phụ chánh là Đảo
Phú Qúy và Côn Trà ( ? ).
Phú Quý nhận được số luợng đánh bắt lớn hơn, nhưng Côn Trà lại dễ cập bến hơn và đa số chế biến xảy ra
nơi đây. Đánh bắt cá mập vùng này la đặc điểm cho hệ
thống sinh thái biển « sâu – deep » ( ? ). Vũng
Tàu là một cảng cá xưa cũ ( Phước Tỉnh ? ) diện tích 110 km2 ,
cách Thành phố Sài Gòn 125 km về phía
Đông Nam. Thị xã Vũng Tàu có vài biến chế sản phẩm cá mập. Vũng Tàu có nhiều
bến, nhưng Bến Đá mới là nơi sản phẩm cá
mập chánh cập bến so với các bến khác. Mặt khác, Vũng Tàu là tiêu biểu cho sinh
thái miền Nam và rất dễ dàng cho tàu
đến nơi. Vũng Tàu nổi tiếng về buôn bán
vi cá và các sản phẩm cá mập khác, tuy
rằng năm 1975 ngư dân Vũng Tàu – Phước Tỉnh đã bỏ đi sang Mỹ rất nhiều , sau
khi đến đây lập nghiệp làm ra «
một thị trấn cá » phồn thịnh, sau năm di cư 1954- 55.
(
Irvine , Nam Ca
Li, ngày 22 tháng 5 năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét