Một kỳ công ngành công nghệ nanô của hai nhà vật lý học giải Nobel 1986:
Kính hiển vi rà dò đường hầm STM
G S Tôn thất
Trình
Gerd Binnig và Heinrich Rohrer, hai nhà sáng chế ra STM (Scanning Tunneling Microscope) |
Kính hiển
vi hạt tử âm – electron microscope
trong thập niên 1930 đã cách mạng hóa sinh học , bằng cách cung cấp những phóng đại ngàn lần hơn
là kính hiển vi ánh sáng – light microscope, giúp cho các nhà khoa
học phân biệt họat động bên trong tế bào
lần đầu tiên ( hình như đến thập niên 1960 , viện đại học miền Nam mới trang bị
kinh hiển vi hạt tử âm ? ) . Thế nhưng kính hiển vi electron không giúp gì nhiều cho các nhà khoa
học vật liệu , những nhà khoa học xây dựng
các mạch vòng điện tử - electronic
circuits, ưa thích các bề mặt –
surfaces hơn. Thám hiểm các chi
tiết những mạch vòng này đòi hỏi một kỷ thuật mới , là kính hiển vi rà dò
đường hầm- scanning tunneling microscope (STM) có thể cung cấp
những hình ảnh nguyên tử- atoms cá nhân trên các bề mặt. Không rỏ đến nay mấy viện đại học vật lý và
kỷ thuật nanô nước nhà được trang bị STM ?
Nhiều nhà khoa
học xem đây là một kỳ công không thể làm
đươc. Tuy nhiên năm 1979, hai nhà vật lý
học Heinrich Rohrer và Gerd Binnig của La Bô Khảo cứu IBM tại thành phố Zurich – Thụy Sĩ đã lấy môn bài một linh kiện
như thế và đã làm công nghệ điện tử
đổi thay mãi mãi. Môn bài này có số là US, 343, 993. Nhờ
sáng chế này, họ đã đọat giải Nobel vật
lý học năm 1986 . một phần thưởng họ chia sẽ
với nhà vật lý học Ernst Ruska, nguời đã họa kiểu kinh hiển vi electron
lần đầu tiên . Rohrer chết tại gia ngày
16 tháng 5 năm 2013 ở Wollerau – Thụy Sĩ , theo đại công ty IBM .
Theo
John E . Kelly III , giám đốc khảo cứu ở IBM: “ sáng chế STM là
một thời điệm sinh mầm của lịch sử khoa học và kỷ thuật thông tin-
information technology. Sáng chế này cống hiến cho các nhà khoa học khả năng làm hình ảnh , đo lường và thao tác
lần đầu tiên các nguyên tử
và mở rộng những đại lộ mới
cho kỷ thuật thông tin chúng ta
vẫn đang đeo đuổi hôm nay” . Sáng chế của hai ông dựa vào hiện tượng
cơ học hạt lượng – quantum mechanical phenomenon, tên gọi là theo đường hầm – tunneling , vì lẽ các
electron đi ngang qua một rào cản
giả thiết là không thể qua nổi, tỉ như một chân không – vacuum .
Hiện tượng là căn bản cho ngành công nghệ kính hiển vi
rà dò đường hầm.
Hình chụp tại trung tâm nghiên cứu kỹ thuật Nanô IBM ở Thụy Sĩ Dr. Gerd Binnig (trái) và Dr Heinrich Rohrer (phải); người giữa là Dr. John Kelly III phụ trách điều hành trung tâm, |
Vậy chớ kỹ thuật đường hầm hạt lượng là gì đây ?
Khi một đầu mút – tip một dây đã sạc phát ra những electron theo từng đợt sóng (
gần giống như hình dạng một phông tên nước) được đưa đến gần một bề mặt cần quan sát , một thế
hiệu nghiêng – bias ( khác biệt
điện thế - voltage difference ) đặt
giữa hai vật thể này giúp cho các
electron đi vào đường hầm qua chân không giữa chúng. Thành quả là một dòng điện đường hầm – tunneling
current. Dòng điện đường hầm tùy
thuộc vị trí của đầu mút, điện thế áp dụng và tỉ trọng
địa phương các tính trạng ( LDOS – local density of states ) .
Linh kiện hai nhà Nobel này sử dụng là
một mũi bút nhọn không khác gì mấy một kim của một máy quay đĩa hát. Tuy nhiên lại nhỏ hơn nhiều, quy về một điểm
chỉ chứa đường kính một nguyên tử mà
thôi . Ở chân không cao, kim được đem tới
gần một bề mặt muốn quan sát và một sạc
điện nhỏ sẽ đặt vào làm thành một dòng điện. Sức mạnh của dòng điện tuỳ thuộc vào khỏang cách - cự ly giữa điểm và bề mặt.
Khi kim rà dò lui tới xuyên qua một bề mặt, tuơng tự một luồng electron của một ống tia âm cực – cathode ray máy ti vi – dòng điện biến thiên theo chiều cao của bề mặt. Một máy computer di chuyễn kim lên xuống, đễ giữ cho dòng điện không thay đổi, kiên định. Ghi chép lại nhưng di động này , chuyễn hóa thành hai chiều , cống hiến một hình ảnh của bề mặt . Tòan thể tiến trào dựa trên dòng điện đường hầm tạo ra.
Quantum mechanics tells us that electrons have both wave and particle like properties. Tunneling is an effect of the wavelike nature. |
Khi kim rà dò lui tới xuyên qua một bề mặt, tuơng tự một luồng electron của một ống tia âm cực – cathode ray máy ti vi – dòng điện biến thiên theo chiều cao của bề mặt. Một máy computer di chuyễn kim lên xuống, đễ giữ cho dòng điện không thay đổi, kiên định. Ghi chép lại nhưng di động này , chuyễn hóa thành hai chiều , cống hiến một hình ảnh của bề mặt . Tòan thể tiến trào dựa trên dòng điện đường hầm tạo ra.
The STM is cabable of acquiring remarkable images on the most extreme scale, easily resolving atomic structure in the right environments. |
Thọat tiên hai
nhà vật lý học sử dụng một tinh thể vàng kim – gold crystal sản xuất ra hình ảnh những hàng
nguyên tử khỏang cách chính xác và những bậc thang rộng rải,
các bậc phân chia có chiều cao
của một nguyên tử. Di động của kim
rất nhạy cảm đến bất cứ một rung
động -vibrations nào của một trường
bên ngòai. Trước đó, Rohrer đã phải
đối đầu những khó khăn như vậy.
Trong công trình luận án tiến sĩ, Rohrer thực hiện đa số các thí nghiệm của mình
vào lúc đêm khuya, hầu tối thiểu các rung động con người làm ra ở thành phố. Ở
thí nghiệm đầu tiên , hai nhà vật lý
dùng những nam châm – magnets rất mạnh đặt trên một bàn đá nặng trên
các lốp xe thổi phồng để che chở linh
kiện . Linh kiện tốt đẹp đầu tiên của họ
có một nam châm nặng thường trực
nỏi trên một hồ chì siêu dẫn - pool of superconducting lead. Sau 2
năm, họ có một linh kiện, không có phòng
chân không, có thể nhỏ bằng bàn tay . Đến
năm 1987, họ đã giảm kích thước xuống chỉ còn bằng đầu ngón tay . Kim cũng
có thể dùng để đẩy tới và kéo lui những
nguyên tử cá nhân quanh bề mặt. Năm 1990,
Rohrer và Binnig sản xuất ra những hình ảnh biết rỏ khắp thế giới các chữ cái IBM , từ các nguyên tử xênon của một tinh thể nickel.
Tiến trình đề cử ứng viên giải Nobel |
Rohrer
, sinh ngày 6 tháng 6 năm 1933 tại cộng đồng nông thôn Buchs – Thụy sĩ, suốt đời thích các ngọai ngữ
cổ điễn và khoa học tự nhiên ,nhưng lại theo học vật lý học ở viện
Kỷ thuật Liên bang Thụy Sĩ năm
1951 và đổ tiến sĩ năm 1960. Năm sau ông lấy bà Rose Marie Egger và
nhận một học bổng nghiên cứu ở Viện Đại học Rutgers, bang New Jersey , Hoa
Kỳ. Trong nhiều năm hai ông bà đi cắm trại du hành khắp nước Mỹ cùng hai con gái. Cuối năm 1963 , ông gia nhập La Bô IBM mới vừa thành lập.
Ngọai trừ giữa thập niên 1970 ông làm việc cho UC Santa Barbara, ông luôn
luôn làm cho IBM mãi đến năm 1997. Binnig nay vẫn còn làm khảo cứu cho IBM
ở Zurich
-Thụy Sĩ. Sau 1997, ông nhận các
chức vị khảo cứu ở Nhật Bổn và ở Tây
Ban Nha và các nước này, ông tiếp
tục tụ điểm trên kỷ thuật na nô.
( Irvine,
Nam Ca Li, ngày 30 tháng 5 năm 2013 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét