Biết rõ hơn đôi chút về:
Nước Thái Lan ngày nay
G
S Tôn Thất Trình
Mãi
cho đến giữa cuối thế kỷ thứ 20, Thái Lan ( tiếng Anh là Thailand)
cơ bản là một nước nông nghiệp, sinh sống ở nông thôn , nhưng kể từ thập niên
1960 nhiều dân cư di chuyễn đến thủ đô Bangkok ( có
lúc dịch là Vọng Các ) và nhiều thị trấn- thành phố
khác. Dù rằng vùng thủ đô Đại Bangkok - Greater Bangkok metropolitan
area vẫn là trung tâm đô thị lớn nhất, Thái
Lan đã có những thành phố kích thước đáng kể tỉ như
Chiêng- Chiang Mai ở miền Bắc, Nakhon Ratchasima hay Khorat
, Khon Kaen và Udon Thani ở Đông Bắc, Pattaya
ở Đông Nam và Hatya ở cực Nam .
Nước
Xiêm ( Siam , Xiêm La ) là tên gọi của Thái Lan mãi cho đến năm 1939 ,
chưa bao giờ bị thực dân Âu Châu đô hộ cả. Xiêm độc lập
do môt nền quân chủ chuyên chế ngự trị mãi cho đến một
cuộc cách mạng xảy ra năm 1932 . Kể từ lúc đó, Thái Lan là môt nền quân chủ lập
hiến , và những hiếp pháp tiếp theo nhau cung cấp một quốc hội
dân bầu .Tuy nhiên, quyền hạn chánh trị thường do quân
sự nắm giữ , xuyên qua các cuộc đảo chánh . Trong hai thập niên cuối
cùng thế kỷ thứ 20 và thập niên thứ nhất thế kỷ thứ 21, nền dân chủ nghị
viện càng ngày càng được dân gian ủng hộ rộng lớn hơn. Dù có một khủng
hỏang trổi dậy năm 2006 , khi giới quân sự đứng cùng nền quân
chủ, lật đổ chánh phủ dân bầu, những cuộc bầu cử quốc hội mới, do
chánh phủ lâm thời hứa hẹn, được tổ chức năm 2007 .
Địa lý
Đất đai
Diện tích Thái Lan
là 513 120 km2 , khỏang bằng Tây Ban Nha ( I Pha Nho)
hay Pháp, lớn hơn Việt Nam diện tich chỉ là 331 114 km2 , gồm hai vùng địa lý rộng lớn :
môt khu vực chánh yếu lớn hơn ở phía Bắc và một nới rộng bán
đảo nhỏ hơn ở phía Nam . Phần thân thể chánh xứ sở do Myanmar
- Miến Điện, Burma bao bọc phía Tây , Lào phía Bắc
và phía Đông , Căm Bốt phía Đông Nam và Vịnh Thái Lan phía Nam. Bán đảo
Thái Lan trải dài hướng về Nam từ góc Tây Nam nước nhà
; Myanmar dọc theo mép bìa Đông bán đảo Mã Lai- Malay
Peninsular, nới rộng dọc theo phần Tây bán đảo xuống xa mãi
đến gần Eo biển - Isthmus Kra ; sau đó Thái Lan
chiếm tòan thể bán đảo cho đến khi gặp biên giới phía Nam với
Mã lai Á ở 6 0 vĩ tuyến Bắc .
Đia hình
Cảnh
quan Thái Lan biến đổi từ các núi thấp đến các đồng bằng phù sa phì
nhiêu các đồng ruộng lúa nước điểm chấm đến các bải biển cát
nằm chính giữa các vĩ tuyến xích đạo hệ thống các gió mùa Châu Á .
Thái Lan chia ra làm 5 vùng địa văn học -
physiographic regions khác biệt nhau : các núi nằm ngang
các phía Bắc và Tây , Cao nguyên Khorat phía Đông Bắc, lưu vực
sông Chao Phraya ở trung tâm, góc biển vùng trung tâm phía
Đông Nam , và một phần bán đảo dàì, mảnh dẽ phía Tây Nam.
Các
núi miền Bắc là một tiếp tục Đông Nam của tiến trình nâng
cao làm ra Hy Mã Lạp Sơn - Himalayas, trải dài thêm về hướng Nam
dọc theo biên giới Thái - Myanmar , và đến tận Bắc Mã Lai Á .
Những dãy thạch cương dài này thành hình, khi khối lượng
đá tảng nung chảy buộc chúng phải lên cao
xuyên qua tầng trầm tích xưa cỗ hơn . Các đỉnh núi trung bình
cao khoảng 1600m ( 5200 bộ Anh ) trên mặt biển . Núi Inthanon,
cao 2585m ( 8481 bộ Anh ), là núi cao nhất nước, nằm vào phía Đông
Bắc Thái Lan, gần thành phố lịch sử Chiêng Mai . Thành phố bị Núi (
Đồi) Suthep che khuất bóng . Suthep là nơi có
chùa - đền thờ Phật giáo nổi danh và là hoàng cung mùa hạ
của vua Thái . Vài ngọn đồi đá vôi gồ ghề chứa các hang động
tàn tích con người thái cỗ - tiền lịch sử đã được khai quật .
Đồng
bằng tiếp cận Cao nguyên Khorat là một cao nguyên rộng
lớn Sông Mê Kông bao giáp phía Bắc và phía Đông . Cao nguyên hình
thành, khi nâng lên dọc theo hai phay - fault , faille
vỏ trái đất - crustal thẳng góc nhau : một phay hướng
Bắc Nam về phía Tây và phay phía Nam theo hướng Đông
Tây. Thành quả là những đá tảng trầm tích nằm dưới thảy đều nghiêng,
thay vì được nâng lên đồng đều . Thế nghiêng này tạo dựng những
rạng đồi núi thấp dọc theo bìa mép phía Đông và phía Nam Cao
nguyên : đó là các núi Phetchabun và Đông Rak , tên Thái
của Dangrek. Dốc đứng của các đất cao này giám sát
lưu vực đồng bằng Chao Phraya về phía Tây và đồng bằng
Căm Bốt về phía Nam. Độ cao trên mặt Cao nguyên Khorat là
chừng 200 m ( 650 bộ ) phía Tây Bắc hạ xuống chỉ còn 90m (
300 bộ ) phía Đông Nam. Đất đai uốn lăn và các chóp đồi
thường nghiêng về phía Đông Nam đúng theo độ nghiêng.
Lưu
vực sông Chao Phraya rộng rải nằm giữa các dãy núi phía
Bắc và phía Tây và Cao nguyên Khorat là trung tâm văn hóa và
kinh tế Thái Lan . Vùng này có khi còn có tên là Đồng Bằng
miền Trung- Central Plain gồm hai phần : các đồng bằng
uốn lăn chia cắt nặng nề phía Bắc là đồng bằng nước ngập -
flood plains bằng phẳng đất thấp châu thổ sông Chao Phraya phía Nam . Đồng
bằng do các tích tụ đồ sộ đất xói mòn trôi xuống từ các
chi lưu Chao Phraya, làm ra những trầm tích phù sa hình quạt
.
Phần
Đông Nam Thái Lan thường cũng uốn lăn, chứa nhiều đồi cao
ở giữa và dọc theo biên giới Đông với Căm Bốt . Các đỉnh đáng kể là Núi Khieo.
cao 797 m ( 2614 bộ ) và Núi Soi Đao, cao đến 1 668m ( 5471 bộ ).
Các đồi chạy dài đến gần biển, tạo ra bờ biển răng cưa có
nhiều đảo tô điểm . Nhờ có bải biển trải dài, những thị trấn bờ biển như Chon
Buri và Rayong và vài đảo đã trở thành những nơi nghỉ dưỡng phổ cập,
dân gian ưa chuộng .
Phần
Tây Nam Thái Lan
gồm bán đảo với xương sống núi non và một bờ biển cát nghiêng
nghiêng . Các núi cao hơn đạt khỏang 1500m ( 4900 bộ ) nằm
dài bán đảo về phía Tây và có những đèo hẹp , nối Thái Lan và
Myanmar . Các dãy này phân chia các biển Andaman và Nam Hải ,
khi bán đảo hẹp đi gần biên giới Mã Lai Á . Ngòai khơi bờ
biển Tây gồ ghề và răng cưa nặng nề là rất nhiều đảo lớn kể luôn
cả Đảo Phuket giàu thiếc , cùng các đảo khác tỉ như Phiphi
và Samui , đã trở thành nhữnng nơi du khách thăm viếng, còn phổ
thông hơn cả Hua Hin , nơi nghỉ dưỡng xưa cũ phía Bắc bán đảo.
Sông ngòi
Thái
Lan thóat nước nhờ hai hệ thống sông: sông Chao Phraya ở phía Tây
và sông Mê Kông ở phía Đông . Ba sông chánh ở vùng núi non phía
Bắc , chảy từ Tây qua Đông là sông Ping ( nhánh lớn là
sông Wang ), sông Yom và sông Nan , thường chảy về
Nam qua những thung lũng nhỏ hẹp đến các đồng bằng rồi nhập
chung lại thành sông Chao Phraya là sông lớn nhất Thái Lan . Châu
thổ đồng bằng ngập nước Chao Phraya , thắt nơ thành vô số kênh
mương, rồi lại được các sông khác nhập thêm vào, đặc biệt là sông Pa
Sak , khi Chao Phraya chảy ra cửa biển Vịnh Thái Lan.
Châu thổ bằng phẳng ngập nước mùa mưa, là một tích sản cho
trồng lúa nước , dù phần đất cao hơn ở các bìa cực Đông và
của Tây đòi hỏi phải tưới tiêu. Tòan thể châu thổ trước đây
là thành phần Vịnh Thái Lan, nhưng theo thời gian trầm tích từ
miền Bắc đã đổ đầy vùng . Đóng bùn này là một cản trở liên tục cho
giao thông đường sông, nhưng nhờ vậy mà cửa sông kéo dài ở biển Vịnh
nhiều bộ Anh mỗi năm. Các sông Cao nguyên Khorat thường chảy về
hướng Đông Nam và đổ vào sông Mê Kông. Nước ngập lũ các sông này là
nguồn nước quan trọng cho sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, lũ lụt hay
bất ngờ tính theo số lượng và tần số; và các vấn đề ngập lụt càng thêm tệ hại ,
khi đất đai bị phá rừng và trồng trọt. Vùng cũng có thủy cấp cao,
chứa phần lớn nước lợ không uống được, phần lớn sông Mê Kông, nằm giữa
Thái Lan và Lào hoặc điểm chấm nhiều đảo hay bị thác không
giao thông được cắt quảng đi .
Phần
Đông Nam và bán đảo thóat thủy nhờ các dòng sông-suối
ngắn. Về phía Đông Nam , các sông miền Bắc chảy vào châu thổ Chao
Phraya , trong khi các sông miền Tây và miền Nam chảy
ngay ra biển, nơi chúng xây đắp những lưu vực và châu thổ dọc theo bờ
biển .Các cửa sông dọc theo bờ biển phía Nam là những đất
bằng phẳng thủy triều - tidal flats và đầm lầy rừng sác -mangroves
swamps. Hầu hết tất cả sông của bán đảo đều thoát thủy vào Vịnh
Thái Lan ( Biển Tây Việt Nam ).
Giữa
các thập niên 1950 và 1960, một số đập được xây cất,
phần lớn ở miền Bắc và Đông Bắc Thái Lan , để cải thiện ngập lụt và
sản xuất thủy điện và nới rộng nông nghiệp tưới tiêu đựợc. Những trầm tích
lớn phù sa các thung lũng sông, chứa đất đai phì nhiêu nhất Thái Lan , được
trầm tích các sông nước dâng cao mùa mưa trôi về mỗi năm.
Nhất là ở châu thổ đồng bằng ngập lụt Chao Phraya, nhưng
các lưu vực tương đối bằng phẳng và các núi non miền Bắc, đất đai rải rác
dọc sông Mun và sông Chi ở Cao nguyên Khorat và phần lớn bờ biển
cũng là những đất phù sa phì nhiêu. Đất đai các nơi khác
tương đối nghèo nàn, là các latêrít chiết mòn cao độ . Gần sông Mê Kông,
vài lọai đất chứa khá nhiều muối mặn, giới hạn mùa màng . Môt số
trầm tích muối đã được khai thác thương mãi.
Khí hậu
Các
ảnh hưởng chánh trên khí hậu Thái Lan là vị trí xứ sở thuộc về vùng gió
mùa nhiệt đới của lục địa Đông Nam Á và vài đặc điểm
địa hình ảnh hưởng đến phân phối mưa . Bắt đầu từ tháng 5 , những
khối lượng không khí ấm áp và ẩm ướt của gió mùa Tây Nam thổi về
hướng Đông Bắc qua Vùng từ Ấn Độ Dương, rơi xuống nhiều
lượng mưa lớn , mưa nhiều nhất là vào tháng 9. Giữa tháng 11
và tháng 2 gió đổi chiều và gió mùa Đông Bắc đem tới
mát mẽ , không khí tương đối khô theo chiều Tây Nam, tạo ra nhiệt
độ mát lạnh hơn cho gần khắp xứ sở. Không khí im lìm tháng 3 và
tháng 4, làm ra một thời gian nóng nực và khô hạn rỏ rệt, giữa các
mùa gíó mùa.
Cao
độ gây ra các biến đổi địa phương về mô hình thời tiết tổng
quát, đặc biệt ở bán đảo Ranong phía bờ biển miền Tây
nhận chừng 4000 mm (160 ngón Anh ) mưa mỗi năm ( như Bạch Mã Nam
Đông, Huế- Thừa Thiên ) . Trong khi Hua Hin phía bờ biển Đông
chỉ nhận ít hơn 1000 mm ( 40 ngón Anh ). Thời tiết dọc
theo bìa phía Tây Đồng bằng Trung Tâm ( ương ) và ở Cao nguyên Khorat
không theo đúng các ảnh hưởng mưa - che mờ xảy ra . Songkhla
ở cuối Nam bán đảo Thái Lan, có một thời gian mưa vào mùa
mát lạnh, thành quả của ẩm độ các gió mùa Đông Bắc thu thập, khi
gió thổi trên Vịnh Thái Lan.
Tính
theo cả nước , nhiệt độ tương đối bền vững suốt năm, trung bình từ 25 đến
290 C ( 77- 840 F ). Biến thiên lớn nhất là ở
miền Bắc, nơi đông giá thỉnh thỏang xảy ra tháng chạp ở
các độ cao hơn . Ngược lại, ảnh hưởng biển điều hòa khí hậu miền Nam.
Không khí lạnh mát hơn, khô hơn của gió mùa Đông Bắc thường
làm ra sương mù buổi sáng, tan vào buổi trưa ở các vùng Bắc và Đông
Bắc. Ẩm độ rất cao vào mùa mưa.
Tài nguyên thiên nhiên
Thái
Lan là một xứ rừng rú, đồng cỏ hòa bản lùm bụi, và đất ẩm ướt
đầm lầy hoa sen và hoa súng điểm chấm. Kể từ
giữa thế kỷ thứ 20, rừng bao phủ chỉ còn ít hơn một
phần ba tổng diện tích đât đai so với hơn phân nữa những năm
trước đó . Phá rừng trồng trọt ( kể cả đồn điền cây mộc ,
thân gỗ), đốn gỗ qúa đáng và xử lý rừng tồi tệ là những nguyên do
chánh cho suy tàn này. Rừng Thái Lan phần lớn là cây
gỗ cứng - hardwoods như giá tị- teck và cây mộc gỗ
kiến trúc hay sản xuất nhựa của họ Dầu - Dipterocarpaceae .
Cũng như những nơi khác Đông Nam Á : tre, cọ kè, mây
và nhiều lòai dương sĩ... thật là thông thường. Nơi nào
rừng đã đốn gỗ và không trồng lại , một tăng trưởng thứ cấp và lùm bụi
mọc lại, thường giới hạn trồng trọt . Sen và súng mọc
đầy ở đa số các ao hồ và đầm lầy khắp nước.
Dân Thái Lan
truyền thống dùng trâu, bò, ngựa và voi cày bừa ruộng vườn,
chuyên chở hàng hóa, dân gian và di chuyễn chất tải nặng. Đến
thập niên 1980, súc vật dùng để kéo đã bị máy móc thay thế và ngọai trừ
những vùng xa xôi hẻo lánh, súc vật dùng để chuyên chở đã bị xe mô tô, xe
vận tải, xe hơi và búyt thay thế . Yêu cầu voi làm việc cũng hầu như
biến mất hòan tòan, khi lệnh cấm đốn gỗ ban hành năm 1989
và các voi thuần hóa bị sáp nhập vào ngành du lịch.
Mất
rừng mau lẹ kềm theo một dâng cao đáng kể yêu cầu các động vật xa lạ,
đã rất tai hại cho đời sống hoang dã . Tây ngu và heo vòi -
tapirs , trước đây tìm thấy ở nhiều nơi Thái Lan, đã biến hẳn ,
cũng như những đàn voi rừng . Vượn - gibbons, vài loài khỉ,
lòai chim cũng cùng chung số phận. Dù nhiều cố gắng đưa ra để ngăn
ngừa mua bán bất hợp pháp các lòai bị hiểm nguy tuyệt tích,
thành công chỉ rất hãn hửu. Tương tự các luật lệ bảo tồn khác, tuy
đã có một lịch sử lâu dài ở Thái Lan, luật lệ rất khó thực thi và
cũng cố .
Năm
1985, vùng rừng bảo vệ và để tiêu khiển chiếm 25 % tổng diện tích
và vùng khai thác gỗ chiếm 15 %. Từ năm 1992 đến năm 2001, xuất
khẩu gỗ súc (đẳn ) - log và gỗ cưa - saw timber tăng từ
50 000 lên 2 000 000 m3 một năm.
Trước
đây cá nước ngọt và cá biển rất dồi dào ở Thái Lan, nay
đã mau lẹ biến hết vì lạm thác và cắt đọan các
sinh thái thiên nhiên chúng sinh sống, cũng như tôm - shrimp ,
tôm he -prawn và cua biển. Tôm, tôm he bán ở thị trường nội địa
hay xuất khẩu, nay nuôi ở các trại tôm. Rắn, kể cả rắn hổ mang chúa
- king cobra, và nhiều lọai rắn nước độc hại, tuy vẫn còn tìm thấy
thường xuyên ở hoang dã, ngày nay lại thấy nhiều hơn ở các trại
nuôi rắn. Cá sấu cũng tương tự như vậy, tuy vẫn hiện diện hoang dã ở miền Nam
Thái Lan. Thái Lan đứng hàng thứ ba thế giới về xuất cảng hải sản. Theo
Hiệp Hội Thực phẩm Đông Lạnh Thái, tổng số tôm cá xuất khẩu trị giá
3 tỉ $ US năm 2014 và sử dụng hơn 300 000 người .
Muổi,
kiến, bọ cánh cứng và sâu bọ khác, cũng như rắn mối - lizards
ăn chúng, luôn luôn có mặt, ngay cả ở những môi trường đô thị - thị trấn. Nhộng
tằm đã góp phần lớn cho ngành tơ lụa Thái Lan nổi tiếng.
Lúa
gạo là nông phẩm quan trọng nhất. Thái Lan lâu ngày ( thời
Việt Nam Pháp thuộc Thái Lan đứng hạng ba, sau Miến Điện và Việt
Nam) là nước xuất khẩu đứng đầu thế giới , nhưng những năm gần đây
đã thua kém Ấn Độ và Việt Nam . Các nông phẩm đáng kể khác là dừa , bắp-
ngô, cao su , đậu nành , mía và bột sắn, khoai mì-tapioca.
Bùng
nổ cúm chim - avian flu, đã theo thắt lại lảnh vực
nông nghiệp Thái Lan năm 2004 và sóng thần- tsunami
ngày 26 tháng chạp năm 2004 đã làm ngành ngư nghiệp
Thái vùng biển Andaman thiệt hại nhiều. Các năm 2005 và 2006
GDP nông nghiệp Thái đã giảm khỏang 10 %.
Về
khóang sản, năm 2003, Thái Lan sản xuất hơn 40 lọai khác nhau, trị
giá chừng 740 triệu $ US. Đặc biệt Thái xuất khẩu thạch cao - gypsum
đứng hàng nhì thế giới, sau Canada. Tháng 9 năm 2003, chánh phủ hầu
khuyến khích đầu tư ngọai quốc ở ngành khai thác mỏ quặng, đã giải tỏa bớt
các giới hạn khai thác cho các hảng ngọai quốc và giảm bớt thuế họ phải
nạp.
Năm
2005, Thái Lan sản xuất 306 000 thùng ( 48 700 m3 ) dầu
lữa (dầu thô ) một ngày, ít hơn Việt Nam ước lượng là 450 - 500 000 thùng một
ngày. Nhưng năm 2005, Thái Lan lại tiêu thụ đến 839 000 thùng ( 133 200 m3
) một ngày. Thái Lan có 4 nhà máy lọc dầu, khả năng tổng cọng là
703 100 thùng ( 111 780 m3) / ngày. Năm 2004, mức tiêu thụ khí
dầu thiên nhiên là 1 055 ngàn tỉ bộ khối ( 2.99 x 1010
m3) cao hơn mức sản xuất chỉ đạt 790 ngàn tỉ
bộ khối ( 2.2 x 1010 m3). Tính đến tháng giêng năm
2007, Thái Lan có khỏang 290 triệu tấn (? ) dầu thô dự
trữ đã chứng minh ( 46 triệu m3) và 14.8 ngàn tỉ bộ khối
khí dầu thiên nhiên. Nhắc lại là ở bài tỉnh Kiên Giang tập san Theo
dõi Bóng dáng Quê hương Việt Nam - 2015 ), năm 2012 , trử lượng
dầu lữa Việt Nam là 643 triệu tấn (mức sản xuất là 15.2 triệu
tấn) và khí dầu thiên nhiên là 644 tỉ m3 ( một bộ
khối cubic foot = 0, 028 m3) hay 17.8
ngàn tỉ bộ khối khí dầu thiên nhiên( mức tiêu thụ là 8.7 tỉ m3
).
Năm
2004, Thái Lan tiêu thụ 30 .4 triệu tấn than đá, cao hơn mức sản xuất là
22.1 triệu tấn. Theo Vinacoal, ở bài tỉnh Quảng Ninh miền
Đông Bắc , năm 2005 Việt Nam đã sản xuất 28 triệu tấn than đá và năm 2006
trên 36 triệu tấn , nhưng lại xuất khẩu 21 triệu tấn.
Mức tiêu thụ dự trù sẽ tăng đến 29.3 triệu tấn
năm 2010 và 47-50 triệu tấn năm 2015 ( ? ) . Dự trữ là
2556 tỉ tấn ở mỏ ,chỉ sâu ít hơn 300m dưới mặt đất ( ?
)
Mức độ tiêu thụ năng lượng của Thái năm 2010 |
Dân gian
Dân số từng vùng phân chia hành chánh Thái Lan
Tổng
dân số Thái Lan ước lượng vào năm 2014 là 67 956 000 người. Năm
1990, theo điều tra dân số - census là 54 548
530, năm 2000 là 60 916 441 và năm 2010 là 65 981 659 người.
Thái Lan chia ra 7 vùng, dùng làm điều tra dân số và qui họach hóa :
1-
Đại Vùng thủ đô Bangkok Greater Metropolitan: tổng
diện tích là 7 762 km2, tổng dân năm 2010 là 14 626 225 người , dự
trù đạt 15 579 100 người vào tháng 7 năm 2015.
2-
Miền Trung - Central : diện tích 165 594 km2, dân
số năm 2010 là 3 117 5511, dự trù đạt 3 136 700 người tháng 7
năm 2015.
3-
Miền Đông - Eastern: diện tích 36 503 km2,
dân số năm 2010 là 5 175 345, dự trù đạt 5 5558 700 người
tháng 7 năm 2015.
4-
Miền Đông Bắc( hay Isan ) - North Eastern : diện tích là 168 855 km2,
dân số năm 2010 là 18 966 091, dự trù giảm bớt chỉ còn
18 727 400 tháng 7 năm 2015, nhưng vẫn là tỉnh đông dân nhất .
5-
Miền Bắc - Northern : diện tích 169
644 km2 là tỉnh rộng lớn nhất, dân số năm 2010
là 11 656 043 cũng sẽ giảm bớt dân chỉ còn 11 483 000
tháng 7 năm 2015
6
- Miền Nam - Southern : diện tích 70 715 km2,
dân số năm 2010 là 8 871 003, dự trù tăng lên 9 156 700 vào tháng 7
năm 2015.
7
- Miền Tây - Western : diện tích 43 047 km2, dân
số năm 2010 là 3 569 447, dự trù lên 3 594 3000 người tháng 7 năm 2015
Các thành phố, thị trấn, xã - phường... Thái Lan
Số
dân 8 thành phố đông nhất Thái Lan, cuối năm 2014 :
*1-
vùng thủ đô - KrungThep (Bangkok ) sẽ có 5 692 284 vào
cuối năm 2014 ;
*2-
Ngọai ô Nonthaburi 256 190 ;
*3-
Ngọai ô Pak kret 184 501.
*4-
Hat Yai miền Nam 159 130
*5- Nakhon Ratchasima, miền Đông Bắc 134 440
*6
- Udon Thani , cũng ở Đông Bắc 133 429
*7
- Chiang ( Chiêng) Mai miền Bắc 132 634
*8
- Surat Thani miền Nam 128 622
Cuối
năm 2014 , Thái Lan có 37 đô thị, thành phố , thị trấn xã- phuờng ( ?)
trên 50 000 ngườ . Sau đây là các đô thị , thành phố , thị trấn, xã phường
Thái Lan trên 60 000 dân xếp theo thứ tự chữ cái ( tên có
gạch là các xã- phường…. có trên 100 0000 người ):
Bang
Si Mueang ( Xã ) 102 291; Băng Pu ( Xã )
120 058, Ban Suan ( thị trấn - town )
66 092 ; Chaophraya Surasak ( thành phố- city
) 119 007 ; Chiêng Mai ( thành phố ) 132 634;
Chiang Rai ( thành phố ) 70 610 ; Hat Yai ( thành
phố ) 159 130 ; Khao Sam Yot ( thị trấn ) 60 412; Khon
Kaen ( thành phố ) 115 928 ; Ko Samui ( thành
phố ) 63 592 ; Krung Thep - Bangkok ( thành phố)
5 692 284 ; Laem Chabang ( thành phố ) 77 798
; Lam Sam Kaeo ( thị trấn ) 63 271 ; Lat Luang (
thị trấn ) 73 898: Map Ta Phut ( thị trấn ) 60 928 ; Nakhon Pathom ( thành phố ) 78 780;
Nakhon Ratchasima ( thành phố ) 134 440 ;
Nakhon Sawan ( thành phố ) 86 439 ; Nakhon Si Thammarat (
thành phố ) 106 322 ; Nong Prue ( thị trấn ) 70 594 ; Nonthaburi
( thành phố ) 256 190 ; Pak Kret ( thành phố ) 184 501 ;
Pattaya ( ( thành phố ?) 113 667 ;
Phitsanulok ( thànhphố ) 70 871; Phuket ( thành
phố ) 77 610; Rangsit ( thành phố ) 79 319 ;
Rayong ( thành phố ) 61 902 ; Samut Sakhon
( thành phố ) 60 103 ; Saraburi ( thị trấn ) 61
750 ; Songkhla ( thành phố ) 67 154 ; Surat
Thani ( thành phố ) 128 622 ; Tha Khlong
( thị trấn - 72 774 ; Trang ( thành phố )
60 591 ; Ubon Ratchathani ( thành phố ) 79 023 ; Udon
Thani ( thành phố ) 133 429 ; Yala
( thành phố) 61 250
Các nhóm tộc dân Thái Lan
Khi các biên cương
chánh trị cận đại đã được xác định vào cuối thế kỷ thứ 19 và
đầu thế kỷ thứ 20, Thái Lan là gồm nhiều tộc dân nền tảng văn
hóa , ngôn ngữ, tôn giáo đa dạng . Đa dạng này là đặc điểm của
phần lớn các quốc gia Đông Nam Á , nơi biên cương chánh trị
đổi thay đã không ngăn cản gì đuợc những di dời, di cư dân
chúng dài hàng thế kỷ. Vị trí trung tâm của Thái Lan
trên lục địa đã khiến Thái Lan trở nên một ngã tư cho những
di cư này.
Dù
cho phần lớn dân cư Thái Lan là con cháu của những kẻ nói tiếng
Thái - Tai languages, đã chủ trì vùng này từ cuối thế kỷ thứ13
, dân số cũng gồm nhiều tộc dân không phải là Thái. Môt thiểu
số lớn nhất dân địa phương nói một thứ tiếng
Mã Lai - Malay . Những thiểu số địa phương đáng kể
khác nói tiếng Môn , tiếng Khmer và những ngôn ngữ Môn- Khmer
khác thuộc họ Úc Á - Austroasiatic family. Tại
vùng cao Tây và Bắc Thái Lan có dân gian nói
những ngôn ngữ thuộc họ khác . Thái Lan là nơi định cư
nhiều nhóm di cư lớn và con cháu họ, đa số từ Trung
Quốc, nhưng cũng có các nhóm Nam Á . Đa số thành viên địa phương hay cộng
đồng di cư đến Thái Lan, đều gắn liền mạnh mẽ với văn hóa quốc gia Thái
và nói tiếng Thái .
Thái
Tổ
tiên Thái đến đầu tiên từ miền trung tâm Thái luc địa
Đông Nam Á khỏang năm 1000 và bắt đầu thiết lập
những lảnh địa - tiểu vương độc lập vào thế kỷ thứ 13 .
Có một lúc, ai cũng tưởng rằng tổ tiên dân Thái đến từ
miền Tây Nam Trung Quốc , nhưng nay chứng cớ
ngôn ngữ đã trổi dậy đặt nơi cư ngụ nguyên thủy các tộc dân nói
tiếng Thái là miền Tây Bắc Việt Nam ngày nay . Tộc dân Thái nay đinh cư ở Thái Lan đem theo cùng họ
những đặc điểm văn hóa do tiếp xúc với dân Tàu làm ra hình
dạng . Ở nơi cư trú mới, họ bị các tộc dân Khmer và Môn ảnh
hưởng , truyền thống phần lớn lại nguồn gốc Ấn Độ, Vào thế kỷ thứ 13 ,
tộc dân Thái chiếm ưu thế, chủ trì , cuối cùng phối hợp với
di sản -gia tài ngôn ngữ , văn hóa và chánh trị xã hội
tổ tiên Thái với Phật Giáo dân Môn và nghệ thuật lảnh đạo nhà
nuớc của dân Khmer Án độ hóa, làm
thành một văn hóa Thái khác biệt hẳn . Tại Thái Lan hiện
thời, những ai đã chấp nhận một đồng nhất quốc gia là
Thái , gồm không những dân gian nói tiếng Thái
miền Trung Thái Lan mà còn nhiều nhóm nói
tiếng Thái khác, lớn nhất là dân nói tiếng Lào miền Đông Bắc Thái
Lan và dân nói tiếng Khăm Muộn( ? ) - Kammùang miền
Bắc Thái Lan nữa...
Môn - Khmer
Những
cộng đồng bản địa- autochtonous còn sót lại của Thái Lan
ngày nay sinh sống ở Đông Bắc quốc gia và liên hệ rất gần
gủi dân Khmer xứ Căm Bốt . Họ họp thành tỉ lệ dân
nói tiếng Môn - Khmer lớn nhất ở Thái Lan . Tộc dân Kuy (
đa số dân Thái gọi là Suai ) của vùng Đông Bắc, có khi
được biết là những tay săn bắt voi . Ngay nay họ được công nhận là
những kẻ huấn luyện voi lành nghề để dùng voi làm việc.
Cũng có một số nhỏ dân sống vùng cao như Lawa hay Lua
ở phía Bắc và một phần nào sỉ số dân Môn đông hơn ở phía Tây . Đa số tộc dân Môn
là con cháu của các kẻ di cư từ Miến Điện - Burma vào
thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ thứ 19 nhưng vài người lại là dân tị nạn mới
đây, cũng từ Myanmar đến. Các dân cư nói tiếng Môn -Khmer, từ lâu
đã nói hai thứ tiếng , nói tiếng Thái và những ngôn ngữ chủ trì địa
phương . Vì họ theo cùng các truyền thống Phật giáo hay tôn giáo
khác của Thái Ln, họ hội nhập tốt đẹp vào cấu trúc xã hội xứ sở này .
Dân Hoa - Tàu
Thái
Lan hút dẫn một số lớn dân di cư từ các nước láng giềng, kể từ giữa
thế kỷ thứ 19, vì Thái Lan mở mang kinh tế và chuyễn biến chánh trị nhiều nơi
Á Châu. Số di cư đến nay, nhiều nhất là từ Trung Quốc
và họ trở thành một thiểu số đáng kể ở Thái Lan. Ở các
trung tâm buôn bán tại Bangkok và nhiều đô thị khác, các con cháu Tàu
họat động ở cả các doanh nghiệp thương mãi lớn lẫn nhỏ như thể là
trung gian và chủ tiệm .
Vào
đầu thế kỷ 1900 , khỏang 1/7 tổng dân số Thái Lan là
Hoa - Tàu , nhưng vào đầu thế kỷ thứ 21 chỉ còn 1/ 10 tổng số nhận
mình nguồn gốc Tàu. Đa số dân nguồn gốc Tàu ( dân Thái gọi là luk
cin ) ở Thái Lan hiện tại, đã đồng hóa văn hóa Thái, phần lớn
chấp nhận Thái Tiêu Chuẩn - Standard Thái như thể là ngôn
ngữ căn bản của họ và ngay cả là ngôn ngữ đặc hửu nữa đó . Họ
trở thành các Phật giáo Tiểu thừa Theravada Buddhist. Nhưng
dân Tàu đồng hóa này theo tiếng Anh gọi là Tàu Thái - Sino Thai.
Tuy nhiên, còn một số vẫn nhận diện được là Tàu chính cống vì
ngôn ngữ họ nói và những nghề nghiệp họ theo dõi . Dù có đôi chút
kỳ thị chống Tàu vào đầu giữa thế kỷ thứ
20, tộc dân Tàu -Thái đã đóng một vai trò kiệt xuất, không những
cho nền kinh tế mà cả ở chánh trị Thái Lan. Kể từ thập niên 1990 ,
nhiều thủ tướng và đa số nghị viên Quốc Hội đều có tổ tiên
là Tàu .
Mã Lai , dân cư vùng cao và các di cư mới
Không
phải mọi dân sống trong lảnh thổ Thái Lan, thảy đều hòan toàn hội nhập vào cộng đồng quốc
gia, dân nói tiếng Mã Lai làm thành đa số rộng rải của 4
tỉnh cực Nam xứ sở . Vì lẽ vùng này là một quốc vương hồi
giáo - islamic sultanate mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19, và vì
cư dân có một xác định ngôn ngữ khác biệt và di sản tôn giáo ( họ
thực hành hồi giáo islam ), vài cư dân vùng này hổ trợ các phong
trào đòi tự trị lớn hơn và ngay cả độc lập khỏi các tộc dân
theo Phật gíáo chánh yếu , nói tiếng Thái.
Cư
dân vùng cao ( còn có tên là các bộ lạc đồi núi - hill tribes )
tỉ như dân Karens , Hmong ( Miêu , Mèo ), Yao (
Dao , Mán) , Lahu , Lisu và Akha cũng có những
truyền thống khác hẳn, xếp họ ra ngòai đa số nói tiếng Thái . Trong
quá khứ, họ được dân Thái xem là dân rừng rú và liên kết này vẫn
tiếp tục tạo dáng cho hình ảnh phổ thông các cộng đồng miền
cao vào thế kỷ thứ 21. Đa số cư dân vùng cao có lúc theo những
truyền thống tôn giáo địa phương. Trong
khi vài người đã trở thành Phật giáo, một số lớn hơn vào Thiên chúa
giáo , một đặc điểm làm họ khác biệt thêm đa số dân Thái Lan.
Một
vài nhục nhã đã quấy nhiễu dân cư vùng cao , kể luôn lịch sử trồng thuốc
phiện và đốt rừng làm rẫy - slash and burn agriculture, cả
hai đều bị cấm đóan vào thập niên 1950, cũng như lan tràn không đủ khả
năng hay thất bại có được những thẻ căn cước -
identification cards. Một vai trò tích cực hơn cho dân vùng cao
Thái Lan, đã được vua Bhumibol và hoàng tộc Thái khuyến khích . Vua
và hòang hậu không những đã thăm viếng nhiều lần vùng cao
và đã thiết lập những dự án thay đổi trồng thuốc phiện với
các sản phẩm khác, cải thiện đời sống dân cư vùng cao . Du lịch văn
hóa cũng đã tiếp tục cải thiện hình ảnh các cộng đồng vùng cao.
Thêm vào đó, nhiều tổ chức không chánh phủ đã giúp các
tộc dân vùng cao có được quyền công dân và bảo vệ quyền lợi
đất đai họ khỏi phải di dời.
Mãi
đến giữa thế kỷ thứ 20, đa số dân di cư vĩnh viễn được phép,
khuyến khích trở thành công dân Thái Lan. Tuy nhiên, tình thế thay
đổi cho những di cư mới , nhiều người vào Thái Lan như
thể tị nạn chánh trị từ các nước láng giềng. Nhóm tị nạn đáng kể đến
từ Việt Nam ngay sau Thế Chiến Thứ Hai và đa số được cấp quyền công dân
Thái. Thái Lan bị tràn ngập một làn sóng tị nạn lớn hơn nữa vào
thập niên 1970, theo sau việc thành lập các chánh phủ cọng sản ở Việt
Nam, Lào và Căm Bốt. Dù rằng phần lớn các dân tị nạn này
cuối cùng đi định cư ở các xứ khác, vài dân Hmong Lào vẫn ở
lại các trung tâm tị nạn Thái Lan và cuối thập niên 1980, một số
lớn hơn nữa dân tị nạn đến từ Myanmar, tìm kiếm công ăn việc làm
và ẩn náu chánh trị. Dòng tị nạn này vẫn còn tiếp diễn ở Thế
kỷ Thứ 21, dù vài dân di cư đã được chấp thuận dưới tư cách là
công nhân làm việc tạm thời - guest worker, hàng chục ngàn
dân tị nạn từ Myanmar cũng như từ Căm Bốt , Lào và Trung Quốc
tiếp tục sống và họat động bất hợp pháp khắp Thái Lan .
Ngôn ngữ
Đa
số ngôn ngữ nói ở Thái Lan thuộc một trong số 4 họ ngôn ngữ
chánh : Tai ( một họ phụ của các ngôn ngữ Tai -Kadai ),
Mon - Khmer ( một họ phụ của ngôn ngữ Úc - Á ) , Úc Á ,
và Tàu - Tây Tạng ( Sino - Tibetan ) . Thêm vào đó, Anh Văn-
English rất phổ thông ở Thái Lan cho thương mãi và nhiều mục đích chánh
thức, chánh quyền. Từ các lớp sơ đẳng trở lên, dân Thái Lan phải học Anh
văn, dù rằng chỉ con em trên các lớp này, đặc biệt cho những con em
theo học những trường thượng lưu, mới thông thạo đáng kể Anh
văn.
Phần II : Tổng quát về phát triển kinh tế Thái Lan ngày nay
Đại cương
Thái
Lan là một nước mới công nghệ hóa. Nền kinh tế Thái Lan tùy thuộc
nặng nề về xuất khẩu ( xuất cảng ) chiếm hơn ⅔ lợi
tức ròng nội địa quốc gia - gross domestic product , GDP . Năm 2012,
GDP Thái Lan là 366 tỉ $ - đô la US hay 11
375 tỉ bath ( đơn vị tiền tệ Thái Lan ). Nền kinh tế Thái Lan
tăng trưởng 6.5 % , với tỉ xuất lạm phát là 3.02 % và một
trương mục thặng dư là 0.7 % cho GDP xứ sở . Năm 2013, kinh
tế Thái Lan tăng 3.8- 4.3%. Thật tế giữa năm 2013, kinh
tế Thái Lan đã tăng 4.1% . Tuy nhiên, sau điều chỉnh , GDP Thái Lan
giảm bớt 1.7% quý đầu năm 2013 và 0.3 qúy hai 2013. Giảm bớt
như vậy trong hai qúy liên tiếp , có thể xem là kinh tế Thái Lan đã thóai
trào - recession phần nào . Tăng trưởng GDP ,năm 2015, có thể là 0.3
% . Ước lượng, năm 2015 GDP là 397. 475 tỉ $ , đứng hàng thứ 32
trên thế giới theo cách xếp hạng của Quỷ Tiền tệ Quốc tế -IMF
và sức mua tương đương PPP là 1 054 ngàn tỉ - trillion
$. GDP mỗi đầu người- per capita năm 2015 lên đến 5 771 $ ( còn
theo PPP là 15 319 $ ) .Để so sánh , Thái Công Tụng (
Vietnamologica - số 6 , 2005 ) trích dẫn các con số năm 2005 (? ) :
GDP (theo PPP ) mỗi đầu người đã là 6 132 cho Thái Lan ,
Trung Quốc mới là 3617 $ , Inđônêxia 2857 $ , Singapore
20 767 $, Nhật 24 898 $ và Việt Nam rất thấp kém ( sau gần
20 năm thống nhất đất nước ) là 1860 $ .
Lĩnh
vực công nghệ và dịch là chánh yếu cho GDP Thái Lan ngày nay. Năm 2012 đã
chiếm 39.2 % GDP , còn khá xa dịch vụ đã chiếm 52.4 % và nông nghiệp chỉ
còn 8.4 % . Nông nghiệp còn nhỏ hơn cả các lãnh vực
thương mãi , hậu cần - logistics chiếm 13.4% và truyền
thông, thông tin - communications chiếm 9.8%. Xây cất và khai thác
hầm mỏ chiếm 4.3 % GDP . Các lảnh vực dịch vụ khác gồm tài chánh ,
giáo dục , khách sạn - hotels và tiệm ăn restaurants chiếm
24.9 %.
Thái
Lan là nền kinh tế đứng hàng nhì Đông Nam Á, sau Inđônêxia. Năm 2012, GDP
mỗi đầu người là 5 390 $ US, chỉ nằm vào giữa các nước Đông Nam Á ,
sau Singapore , Brunei và Mã Lai Á . Ngày 19 tháng 7 năm 2013,
Thái Lan nắm giữ 171 .2 tỉ $US dự trữ quốc tế, thứ nhì Đông
Nam Á , sau Singapore . Thái Lan cũng đứng hàng nhì về
thể tích thương mãi ngòai nước , sau Singapore. Ngân Hàng Thế Giới cũng
đã đặt Thái Lan, xem nước này là “một trong những chuyện kể
thành công phát triễn lớn”, ở các chỉ dẫn xã hội và phát triễn.
Dù lợi tức ròng quốc gia mỗi đầu người - gross
national income per capita, GNI chỉ mới đạt 5 210 $ US , và
Thái Lan đứng hàng thứ 89 trong chỉ số Phát
triễn con người - human Development Index HDI, tỉ xuất dân gian Thái
sống dưới mức nghèo khổ đã giảm từ 65.26% năm 1988 , xuống
chỉ còn 13. 15 % năm 2011 .
Tỉ
xuất thất nghiệp Thái Lan báo cáo thấp, là 0.9 % cho quý đầu
2014 . Sở dĩ như vậy là vì một phần đông dân gian còn họat
động trong ngành nông ngiệp tự cung tự cấp, đủ để sống còn- subsistence
agriculture hay trong các công việc dễ bị tổn thương (
làm việc cho mình hay cho gia đình không
có lương).
Lịch sử Phát triển kinh tế Thái Lan
Trước 1945
Thái
Lan tên lúc đó là Xiêm - Siam mở rộng cửa tiếp xúc ngọai
quốc vào thời đại tiền công nghệ . Dù tài nguyên Xiêm hiếm hoi , các hải cảng
và các đô thị , đặc biệt ở các cửa sông là những trung tâm kinh tế
sớm đón mời thương buôn từ Ba Tư - Persia. các nước Ả
Rập, Án Độ , Trung Quốc . Ayutthaya bừng dậy vào thế kỷ thứ 14, được
nối kết cùng các họat động thương mãi tái xuất Tàu
và vương quốc Xiêm trở thành một trong những trung tâm buôn bán
phồn thịnh nhất Á Châu.
Khi
thủ đô Xiêm dời về Bangkok vào thế kỷ thứ 19, buôn bán ngọai quốc
( đặc biệt với Trung Quốc ) trở thành tụ diểm của Chánh
phủ . Thương gia Tàu đến buôn bán ; vài người định cư
trong xứ và nhận chức vị chánh thức quan trọng. Một số thương gia
Tàu và di cư trở thành quan chức cao cấp vương triều . Từ
giữa thế kỷ thứ 19 trở đi, các thương gia Âu Châu mỗi ngày mỗi họat động
tích cực thêm. Hiệp Ước Bowring Treaty ký năm 1885, bảo đảm các đặc ân
của thương gia Anh. Hiệp Ước Harris Treaty năm 1886
nâng cấp Hiệp Ước Roberts năm 1833, nới rộng các bảo đảm này cho thương
gia Hoa Kỳ .
Thị
trường nội địa phát triển chậm rì, và chế độ nông nô - serfdom có
thể là một nguyên nhân gây ra trì trệ nội địa . Đa số dân Nam ở Xiêm phải
phục vụ cho chức quyền hòang cung, trong khi vợ và con gái họ có thể bị mua bán
ở các chợ trong nước. Ai mắc nợ nhiều cũng có thể tự bán minh như nô
lệ . Vua- King Rama V bải bỏ nông nô năm1901 và nô lệ năm 1905.
Kể
từ đầu thế kỷ thứ 20 đến khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, nền
kinh tế Xiêm dần dần tòan cầu hóa . Các doanh gia chánh là tộc dân Tàu đã
trở thành công dân Xiêm. Xuất khẩu nông sản ( đặc biệt là lúa gạo )
trở nên rất quan trọng và Thái Lan là một trong những quốc gia xuất cảng
hàng đầu thế giới . Kinh tế Xiêm bị khổ sở lớn vào Đại Khủng Hỏang -Great
Depression và là một nguyên nhân cho Cuộc Cách Mạng Xiêm năm
1932.
Sau 1945
Thời kỳ 1945 - 1955
Thống chế Phibun Songkhram
Phibun Songkhram
Phibun Songkhram
|
Từ
năm 1945 đến 1947 , kinh tế Thái Lan đau khổ vì Thế Chiến Thứ
Hai. Lúc này Chánh phủ Thái Lan do thống chế Luang Phibulsongkram lảnh
đạo liên minh với Nhật và tuyên chiến với Đồng Minh . Sau chiến
tranh, Thái Lan phải cung cấp 1.5 triệu tấn gạo cho các nước Tây Phương
không tiền, một gánh nặng cho phục hồi kinh tế xứ sở. Chánh
phủ cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách thiết lập một sở lúa gạo quản lý
buôn bán lúa gạo . Trong thời gian này, một hệ thống đa tỉ
xuất hối đóai được đưa vào giữa các vấn đề thuế khóa và vương quốc thiếu
hẳn các hàng hóa tiêu thụ. Tháng 11 năm 12947 , một thờI gian ngắn dân
chủ bị một đảo chánh quân sự chấm dứt và nền kinh tế Thái Lan
vươn lên. Dân Thái xem thời gian 1947 - 1951 là một thời kỳ thịnh
vượng . Tháng tư 1948 , nhóm đảo chánh đưa thống chế Luang Phibul songkram
về lại giữ chức thủ tướng. Hầu giữ vững quyền hành khi tranh chấp với các đàn
em, Phibul songkram khởi sự một chiến dịch chống cọng và tìm
kiếm sự hổ trợ của Hoa Kỳ. Thành quả là
từ 1950 trở đi, Thái Lan nhận viện trợ quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ
. Chánh phủ Phibulsongkram thiết lập nhiều xí
nghiệp quốc doanh và được xem là áp dụng một chủ nghĩa
quốc gia kinh tế - economic nationalism. Nhà nước và thư lại nước, ngự
trị trên mọi phân phát tư bản tại vương quốc. Ammar
Siamwalla, một trong những nhà kinh tế học nổi bật gọi thời kỳ này là “
tư bản thư lại” .
Thời kỳ 1955 -1985
Năm
1955, Thái Lan bắt đầu thấy nền kinh tế mình thay đổi,
do các chánh trị quốc tế và nội địa đổ nhiên liệu vào. Tranh
dành quyền hạn giữa hai nhóm chánh chế độ Phibul, do tướng Cảnh sát
Sriyanonda và tướng ( sau đó là thống chế ) Srisdi Dhanajarat
lảnh đạo tăng gia thêm , làm cho Sriyanoda tìm kiếm, không kết quả,
Hoa Kỳ hổ trợ đảo chánh chống lại chế độ Phibul. Luang
Phibulsongkram cố tâm dân chủ hóa chế độ mình, tìm kiếm dân gian ủng hộ
phát triễn kinh tế. Một lần nữa, ông quay về phía Hoa Kỳ, yêu cầu viện
trợ kinh tế thay vì quân sự. Hoa Kỳ trả
lời bằng cách giúp đở viện trợ kinh tế lớn lao chưa từng thấy cho
vương quốc, từ năm 1955 đến năm 1959. Chánh phủ Phibulsongkram
cũng làm nhiều thay đổi các chánh sách thuế khóa đất nước, gồm có
việc xóa bỏ hệ thống hối đóai đa tỉ xuất thay bằng một hệ thống cố
định thống nhất, vẫn xài đến năm 1984. Chánh phủ cũng
trung lập hóa thương mãi và điều đình ngọai giao bí mật với Cộng Hòa Nhân dân
Trung Quốc , khiến Hoa Kỳ bất mãn.
Dù
những cố gắng duy trì quyền lực, Luang Phibulsongkram bị hạ bệ cùng
với Thống chế Phin Choonhavan và tướng cảnh sát Phao
Sriyanonda ngày 16 tháng 9 năm 1957, do một cuôc đảo chánh thống chế
Srisdi Dhanarajata lảnh đạo . Từ năm 1957 đến 1973 , chế độ Srisdi duy
trì đường hướng chế độ Phibul lập ra, với sự ủng hộ của Hoa
Kỳ, sau khi cắt đứt mọi liên hệ với Trung Quốc và ủng hộ các
hoạt động Hoa Kỳ ở Đông Dương. Chế độ Srisdi phát triễn hạ tầng
cơ sở Thái Lan và tư hửu hóa các xí nghiệp quốc doanh
không liên quan đến hạ tầng cơ sở . Thời gian này, một số cơ
quan kinh tế được thiết lập gồm Cục ngân sách, Cơ Quan Ủy
ban Phát triễn Quốc Gia Kinh tế và Xã hội - NESDB và Ủy
ban Đầu tư Thái Lan- BOI . Theo một bá cáo năm
1967 ở tập san Ngọai giao - Foreign Affairs của cựu tổng thống
Richard Nixon, Thái Lan đi vào một thời kỳ tăng trưởng mau lẹ
, tỉ xuất tăng trưởng trung bình là 7% một năm.
Từ
thập niên 1970 đến 1984 , Thái Lan đau khổ nhiều về các vấn đề kinh tế :
đầu tư Hoa kỳ gia giảm, thâm thủng ngân sách , giá dầu tăng cao và
lạm phát . Chính trị nội địa cũng bấp bênh. Khi Việt Nam chiếm đóng
Căm Bốt ngày 25 tháng chạp năm 1978, Thái Lan trở thành tiền
đồn của chiến đấu chống Cọng. 3 quốc gia Cọng Sản vây quanh ,
cùng một Miến Điện theo chủ nghĩa xã hội của tướng Ne Win. Các chánh phủ
kế tiếp nhau ở Thái Lan cố gắng giải quyết các vần đề kinh tế bằng cách
đề xướng xuất khẩu và du lịch, vẫn còn quan trọng ở
nền kinh tế xứ sở. Một trong những biện pháp biết nhiều nhất là
từ năm 1981 đến năm 1984, chánh phủ tướng Prem Tinsulanonda hạ giá
đồng bath 3 lần. Chánh phủ cũng thay thế hối
xuất cố định ( đóng chốt theo đồng đô la Mỹ ) với “ hệ thống
giỏ đóng chốt đa tiền tệ- multiple currrency basket peg system”
.Trong thời gian 1980- 1984, tỉ xuất GDP Thái Lan tăng khỏang
5.4 % một năm.
Năm
1988 , Chatichai Choonhavan làm thủ tướng dân chủ dân bầu lên lần
đầu tiên từ 1976 , thay thế Prem Tinsulanonda từ chức. Chiến
tranh Căm Bốt - Việt Nam chấm dứt, và từ năm 1989 , Việt Nam dần dần rút
lui, làm phát triễn kinh tế Thái Lan mạnh thêm. Từ năm 1987
đến năm 1996, phồn thịnh quốc gia càng lớn hơn nữa,
nhờ cải thiện thương mãi ngọai quốc và đầu tư trực tiếp ngọai quốc
,chánh yếu là Nhật . Cũng theo IMF, mức tăng trưởng bình GDP Thái là
9.5% một năm trong thập niên này, đỉnh cao nhất là13.3 % năm 1988.
Cũng vào thời gian này, thể tích xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Thái
trung bình tăng theo tỉ xuất 14,8 % , đỉnh cao nhất là 26.1 % năm 1988 .
Năm
1997 , thủ tướng Yongchaiyudh dựa trên Ngân Hàng Quốc gia Thái Lan
, chi tiêu 24 ngàn tỉ đô là US , ⅔ dự trữ quốc tế của Thái
để bảo vệ đồng baht , thay vì hạ gíá đồng baht. Ngày
2 tháng 7 năm 1997 , thống đốc ngân hàng quốc gia Thái quyết định thả
nổi - float đồng baht, khởi động cuộc Khủng hỏang Tài chánh
Á châu 1997- Asian Financial Crisis .
Thời gian 1997- 2006
Vì ảnh hưởng khủng hoảng Tài Chánh Á Châu
1997 , chỉ trong vòng vài tháng giá trị đồng baht trôi
nổi từ điểm thấp nhất ( 25 bath một $US ) xuống chỉ còn
56 bath một đô la Mỹ . GDP trụt từ 3. 115 ngàn tỉ bath
cuối năm 1996 xuống 2.749 ngàn tỉ bath cuối năm 1998 .
Tính theo đô la, Thái Lan cần 10 năm mới trở lại mức GDP 1996 . Thất
nghiệp tăng lên gần gấp ba : từ 1.5 % lực lượng lao động năm 1996 lên đến 4.4%
năm 1998 . Ảnh hưởng chánh trị trực tiếp là thủ
tướng Chavalit Yongchaiyudh bị áp lực phải từ chức ngày
6 tháng 11 năm 1997 và Chuan Leekpai lảnh đảo đối lập thay
thế . Chánh phủ Leekpai thứ hai giữ chức vụ từ tháng 11
năm 1997 đến tháng hai năm 2001, cố gắng thực thi
các cải cách kinh tế căn cứ trên chủ nghĩa tư bản tân tự do
IMF hướng dẫn. Thủ tướng theo dõi những chánh sách
thuế khóa -fiscal policies nghiêm khắc ( giữ lãi xuất cao và
cắt bớt chi tiêu chánh phủ ) , thực thi 11 đạo luật gọi là “ thuốc
đắng” các nhà chỉ trích lại gọi là “ 11 đạo luật bán nước” .
Chánh phủ và các người ủng hộ duy trì các biện pháp này, nhờ vậy mà nền
kinh tế Thái cải thiện.
Năm
1999, Thái có một tăng trưởng GDP dương tính lần đầu tiên kể
từ khủng hỏang. nhưng nhiều nhà chỉ trích lại cho các biện pháp IMF
là không thích nghi Thái Lan như ở Châu Mỹ La tinh và Phi Châu . Tỉ
xuất tăng trưởng dương tính là vì GDP đã trụt xuống
hai năm liên tiếp , riêng năm 1998 là - 10.5 % . Một
ảnh hưởng gián tiếp cho khủng hỏang tài chánh ở chánh trị Thái Lan là sự
vươn dậy của Thaksin Shinawatra. Phản ứng lại các
chánh sách kinh tế chánh phủ , đảng Rak Tai Party của Shinawatra
thấng lợi to lớn trên đảng Dân Chủ của Leekpai ở tổng
tuyễn cử 2001 và lên nắm quyền tháng 2 năm 2001. Ở
chánh quyền Thaksin Shinawatra kỳ nhất , nền kinh tế Thái Lan
lấy lại khí thế mệnh danh là Thaksinomics , tỉ xuất tăng trưởng
là 5.3 % năm 2002, 7.1 % năm 2003 và 6.3 % năm
2004. Tháng 7 năm 2003, Thái Lan hoàn trả nợ IMF, hai năm
trước thời gian qui định. Dù Thaksinomics bị chỉ trích, đảng
Thaksin lại thắng to lớn một cuộc tổng tuyễn cử năm
2005 . Từ năm 2001 đến năm 2011 , GDP mỗi đầu người Isan –Miền
Đông Bắc Thái tăng hơn gấp đôi lên đến 1 475 $%US
; và trong cùng thời gian , GDP mỗi đầu người Bangkok tăng từ 7900
$ US đến 13 000 $US . Nhắc lại là năm 2000 , GDP mỗi đầu người Sài
Gòn - TP HCM 2184 $US, năm 2010 là 2800 $US và cuối năm 2013 là 4500 $US,
gấp đôi năm 2007 . ( Xem bài Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông, tập I
Theo dõi Bóng Dáng Quê Hương VN - 2015 ).
Nhiệm
kỳ hai của Thaksin ít thành công hơn. Ngày 26t háng 12 năm 2004,
soóng thần Ấn Độ Dương xảy ra . Thêm vào tổn thất nhân sự, nó
ảnh hưởng đến quý đầu GDP năm 2005 . Đảng Áo Sơ
mi Vàng- Yellow Shirts. một tập hợp phản đối chống Thaksin
cũng trổi dậy năm 2005 . Năm 2006 , Thaksin giải tán Quốc Hội
và kêu gọi tổng tuyễn cử . Tháng 4 năm 2006 , tổng tuyễn củ
bị các đảng đối lập tẩy chay . Đảng Thaksin lại thắng cử lần
nữa, nhưng Tòa Án Hiến Pháp tuyên bố không hiệu lực . Một tổng tuyễn cử khác
dự trù tháng 10 bị hủy
bỏ . Ngày 19 tháng 9 năm 2006 , một nhóm quân nhân tự gọi là
Ủy Ban Cải Cách Dân Chủ dưới quyền Vương Quốc Hợp Hiến
và do Sonthi Boonyaratglin lảnh đạo tổ chức một cuộc
đảo chánh đuổi Thaksin khi ông ta còn ở New York , sửa
sọan đọc diễn văn ở Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc . Vào năm
cuối của chánh phủ Thaksin thứ hai, GDP Thái Lan tăng 5.1%.
Thời gian 2006 - 2011
Sau
cuộc đảo chánh, nền kinh tế TháiLan bị thiệt hại . Từ qúy
chót năm 2006 đến 2007 , Thủ tướng là tướng Surayud Chulanont
do một hội đồng tướng lãnh ông lảnh đạo bổ nhiệm tháng 10 năm 2006 . Tỉ
xuất GDP 2006 tăng chậm dần đi, từ 6.1%, 5.1% rồi 4.8% trong
ba quý đầu mỗi năm rồi chỉ còn 4. 4% vào qúy thứ tư. Dự án
Thaksin đầu tư đồ sộ vào hạ tầng cơ sở không được nhắc tới ,
mãi cho đến năm 2011, khi em gái ông là Yingluck Shinawatra nhậm chức
vụ này. Năm 2007, nền kinh tế Thái tăng 5 % . Ngày 23 tháng
chạp 2007 chánh quyền quân sự tổ chức tổng tuyễn cử. Đảng
Quyền hạn Nhân dân- People’ s Power Party thân Thaksin do Samak
Sundaravej lảnh đạo thắng lớn trên đảng Dân Chủ của Abhisit
Vejjajiva .
Chánh
quyền đảng Quyền hạn Nhân dân sa ngay vào xáo trộn
chánh trị . Tình trạng, này phối hợp với Khủng hỏang thể chế tài chánh
Hoa Kỳ hai quý cuối cùng năm 2008, cắt giảm tỉ xuất tăng GDP Thái
xuống 2.5 %. Trước khi Đảng Liên minh Nhân Dân cho Dân Chủ-PAD và
đảng Sơ Mi Vàng-Yellow Shirts triệu tập lại tháng ba năm 2008 , GDP tăng
6.5% vào quý đầu năm. Sơ Mi Vàng chiếm cứ
Dinh thự Chánh phủ Thái Lan tháng 8 năm 2008 và ngày 9 tháng
9 , Tòan Án Hiến Pháp Thái ra quyết định giải tán đảng Quyền Hạn
Nhân Dân , đẩy Samak Sundaravej ra khỏi chức Thủ tướng.
Somchai
Wongsawat , em rễ Thaksin thay thế Samak Sundaravel ở chức vị
Thủ tướng ngày 18 tháng 9 . Ở Hoa Kỳ khủng hỏang tài chánh
đạt đỉnh, trong khi Sơ Mi Vàng vẫn chiếm Dinh thự Chánh Phủ,
khiến họat động chánh phủ ngưng trệ. Tăng trưởng GDP
trụt từ 5.2 % ở quý 2 năm 2008 , xuống 3.1 % ở quý 3 và
- 4.1 % ở quý 4. Từ 25 tháng 11 đến 3 tháng chạp 2008, Sơ mi Vàng phản đối thủ tướng Somchai Wongsawat ,
chiếm cứ hai không cảng Bangkok ( là Suvarnabhumi và Don Mueang ) làm tai
hại cho hình ảnh và kinh tế Thái Lan. Ngày 2 tháng 12,
Tòan Án Hiến Pháp ra quyết định giải tán đảng Quyền
Hạn Nhân Dân , đuổi Somchai Wongsawat khỏi chức thủ tướng.
Vào
cuối năm 2008, một chánh phủ liên hiệp do đảng Dân Chủ
Abhisit Vejjajiva lảnh đạo được thành lập. Chánh phủ này
bị áp lực từ khủng hoảng tài chánh Hoa Kỳ và đảng Sơ
Mi Đỏ - Red Shirts không chịu công nhận Abhisit Vejjajiva làm thủ
tướng và kêu gọi phải tổng tuyễn cử càng sớm càng tốt.
Tuy nhiên, Abhisit t ừ chối kêu gọi, mãi cho đến khi ông giải
tán Quốc Hội, để làm một tổng tuyễn cử mới, tháng 5 năm 2011.
Năm 2009, năm đầu Abhisit nắm chánh quyền, lần đầu
tiên từ năm 1997 , GDP Thái Lan tăng trưởng âm tính -2.3 % .
Năm
2010 , tỉ xuất tăng trưởng xứ sở lên đến 7.8 %. Tuy nhiên, bất ổn định
quanh các vụ phản đối chánh yếu năm 2010, tăng trưởng GDP Thái Lan
là từ 5-5 %, so với 5-7 % dưới các trào dân sự,
nguyên do can bản cho suy giảm lòng tin cậy của các nhà đầu tư và
người tiêu thụ . IMF tiên đóan là nền kinh tế Thái Lan
sẽ quật khởi từ mức thấp 0.1 % tăng trưởng GDP năm 2011 , lên
5.5 % năm 2012 rồi 7.5% năm 2013 nhờ chánh sách điều hòa
tiền tệ của Ngân Hàng ( Quốc Gia ) Thái Lan cũng như
một gói hàng biện pháp kích thích thuế khóa - fiscal stimulus package của chánh quyền tại vị Yingluck Shinawatra.
Vào
hai quý đầu năm 2011, khi tình trạng chánh trị tương đối yên tĩnh,
GDP Thái tăng 3.2 % và 2.7 % . Ở tổng tuyễn cử 2011,
đảng thân Thaksin Pheu Thai Party lần nữa thắng quyết định
trên Đảng Dân Chủ và em gái nhỏ tuổi của Thaksin là Yingluck Shinawatra
kế vị Abhisit làm thủ tướng. Bầu lên tháng 7, đảng Pheu Thai
khởi sự nắm chính quyền cuối tháng 8 và khi Yingluck
nắm chức vị, năm 2001 lũ lụt đe dọa Thái Lan, từ 25 tháng 7 năm 2011 đến
16 tháng giêng 2012, nước lụt tràn đầy 65 trong số 76 tỉnh xứ sở.
Ngân Hàng Thế giới ước tính tháng12 năm 2011 thiệt hại đến
45. 7tỉ $US ( 1 425 ngàn tị baht ) .Tăng trưởng GDP
2011 rơi xuống mức 0.1% , riêng quý thứ tư co lại mất 8.9 %.
Yingluck chào Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Nusa Dua, Bali, Indonesia, 18 tháng 11 năm 2011 |
Từ 2012 trở đi
Năm
2012 Thái Lan phục hồi, sau trận lụt nặng nề 2011. Chánh phủ
Yingluck qui họach phát triễn hạ tầng cơ sở , từ hệ thống xử lý
nước dài hạn đến hậu cần. Khủng hỏang Vùng Âu Châu - Eurozone
tai hại cho tăng trưởng kinh tế Thái Lan năm 2012 gián tiếp hay
trực tiếp cho ngành xuất khẩu . GDP Thái tăng 6.5 %. Ngày 23 tháng chạp
năm 2013 ,đồng baht xuống thấp nhất trong 3 năm qua , vì bất ổn
chánh trị các tháng trước . Theo tuần san Bloomberg , đồng tiền Thái mất
giá 4.6 % trong các tháng 11 và tháng12 .
Tiếp
theo cuộc đảo chánh quân sự giữa đầu năm 2014, cơ quan báo chí AFP
tuyên bố là Thái Lan sắp sửa lọt vào “ Vòng Giảm sút, Trì trệ -
Recession”. Đăng tải 17 tháng 6 năm 2014, đề tài chánh bài báo
là sự ra đi của 180 000 dân Căm Bốt khỏi Thái Lan , lo sợ một “ tăng
cường kiểm tra - clamp down “ ,nhưng lại kết thúc là kinh
tế Thái Lan co rút lại 2.1 % từ tháng giêng đến cuối tháng 3 năm
2014. Kể từ khi chấm dứt thiết quân luật, giới quân sự thục thi vào
tháng 5 năm 2014, Supant Mongkolsuthree, Chủ tịch Hiệp Hội
Công nghệ Thái nói rằng ông tiên liệu nền kinh tế Thái
tăng 2.5 - 3% năm 2014 , cũng như tái sinh cường ngành du
lịch Thái giữa năm 2014 ...
Ý niệm về công nghệ chế tạo Thái Lan .
Chúng
ta đã biết sơ qua ở các trang kể trên về công nghệ dầu lữa và khí dầu
Thái Lan cũng như sản xuất tiêu thụ than đá, khai thác quặng mỏ ...
Lảnh vực phụ quan trọng nhất là chế tạo- manufacturing
, chiếm đến 34.5 % GDP năm 2004
Điện tử
Điện
tử - Electronics là ngành xuất khẩu lớn nhất Thái Lan, chiếm15% tổng
số xuất khẩu. Năm 2009 , xuất khẩu điện tử tổng cọng là 33 tỉ $US.
Thái Lan là nước đứng hàng thứ hai chế tạo ổ đĩa cứng-
hard disk drives, HDD , sau Trung Quốc với các công ty lớn
Western Digital và Seagate Technology.
Nhưng có
nhiều vấn đề thấp thóang mập mờ trong con gà ( ngỗng ) đẻ trứng vàng
- golden goose cao kỷ này . Tháng giêng năm 2015, chỉ số
chế tạo Thái Lan trụt xuống sau 12 tháng liên tiếp, với các
sản phẩm như ti vi và rađiô mất đi 38 % một năm. Các
hảng chế tạo chuyễn sang các quốc gia khác có gía nhân công lao động rẽ
hơn Thái Lan . Tháng tư năm 2015,
sản xuất ngưng hẳn ở xưởng LG Electronics tại tỉnh Ranong.
Sản xuất dời qua Việt Nam, nơi giá nhân công mỗi giờ là 6.35 $US so
với 9.14 $US ở Thái Lan . Hãng Samsung Electronics Co.Ltd
cũng đưa về Việt Nam hai xưởng máy lớn điện
thọai thông minh - smart phones . Hảng này cam kết đầu tư 11 tỉ
$US cho nền kinh tế Viêt Nam năm 2014. Khi kỷ thuật tiến
trào, tỉ như khi HDD vì các ổ cứng thể đặc solid state drives, SSD
thay thế, các nhà chế tạo đều xét lại nơi nào sản xuất tốt nhất những kỷ
thuật mới nhất.
Xe hơi
Năm
Đơn vị Cho nội địa Cho
xuất khẩu Trị giá ( tỉ baht ) tỉ xuất( GDP
2005
1 125 316 690 409 434
907 203 025
2.86 %
2006
1 188 044 646 838 541
206 240 764
3. 07%
2007
1 287 379 598 287 589
092 306 595
3.88%
2008
1 394 029 610 317 783
712 351 326
3.
87%
2009
999 378 447 318
552 060
251 342
2.79
%
2010
1 645 304 750 614 894
690 404 659
4.00%
2011
1 457 795 723 845
733 950 343
383
3.26%
2012
2 453 717 1 432 052 1021 665
490 134
4.
31 %
2
013 2 457 086 1 335 783 1121 303
512 186
4,30%
2014
1 880 007 757 853
1 122 154 527 423
không biết
(
Theo Hiệp Hội Công Nghệ Thái )
Thái
Lan đã trở thành một trung tâm chế tạo xe ô tô cho
Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á - ASEAN. Năm 2004 , sản
xuất xe hơi đã lên đến 930 000 đơn vị (chiếc ), gấp đôi
năm 2001. Toyota và Ford rất tích cực ở Thái Lan và việc mở rộng
ngành công nghệ xe hơi đã làm tăng gia mức sản xuất thép trong
nước.
Ý niệm về Du lịch
Du lịch góp phần đáng kể
vào nền kinh tế Thái Lan và ngành này phát triễn nhờ đồng baht hạ
giá va tình thế chánh trị nội đia Thái Lan tương đối ổn định. Năm 2002 đã có 10.9 trIệu du khách đến Thái
Lan, tăng 7.3% so với năm 2001, có 10.1 triệu . Năm
2007 có khỏang 14 triệu du khách viếng Thái Lan . Con số
14 triệu vẫn giữ vững trong các năm 2008 , 2009 .Lảnh vực du lịch
Thái gồm luôn cả công nghệ dục tình - sex industry , dù làm đĩ
- điếm- prostitution là bất hợp pháp ở Thái Lan. Phần du
lịch góp vào kinh tế Thái Lan là 8.5 % GDP , lớn hơn
bất cứ một quốc gia Á Châu nào khác . Du khách đến viếng Thái Lan theo
nhiều lý do, nhưng cơ bản là tiêu khiển, nghĩ mát ... ở các bải biển Thái.
Vì tình trạng mất an ninh ở miền cực Nam , những năm gần đây, du
khách tăng thêm nhiều ở Bangkok. Nhắc lại là năm 2000 , chỉ mới
có 2 140 100 du khách ngọai quốc đến Việt Nam và năm 2013
đạt 7 572 352 du khách . ( xem bài thủ đô Hà Nội ở
tập I , tập san Theo dõi Bóng Dáng … - 2015 ) nghĩa là chỉ phân nữa du
khách đến Thái Lan từ năm 2007, như kể trên ….
( Irvine , Nam Ca Li, ngày 31 tháng 7 năm 2015 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét