- Tản mạn , tiến bộ hiểu biết khoa học kỹ thuật
- G S Tôn thất Trình
- Lảnh vực sinh học
1-Biết qua công trình nhà tiền phong di truyền học đọat giải Nobel Joshua Lederberg
Joshua Lederberg đọat giải Nobel nhờ khám phá ra là vi khuẩn- bacteria có phái tính- sex, thiết lập được nền tảng của di truyền học cận đại và công nghệ sinh học, từ giả cuộc đời vì sưng phổi ngày 3 tháng hai 2008 ở thành phố New York City . Thọ 82 tuổi .
Ông làm ra công trình tiền phong phi phàm này , lúc ông vẫn còn học Cao học, giúp ông trở thành một trong những nhà khảo cứu đầu tiên thao tác gen( es ) trên sinh vật . Công trình mở đường cho hiểu biết cách nào vi khuẩn tiến trào và những cơ chế chúng phát triễn và chuyễn giao mức đề kháng các thuốc kháng ( trụ ) sinh. Nó cũng giúp khởi sự một sự nghiệp lâu dài và mỹ mãn ở ngành sinh học không gian và thông minh nhân tạo, cùng 40 năm ở các ủy ban cố vấn chánh phủ Hoa Kỳ về chách sách y tế , an ninh quốc gia và kiểm sóat vũ khí .
- Với tư cách là chủ tịch Cơ Quan Rockefeller , New York City , từ năm 1978 đến năm 1990, ộng là thiết yếu trong việc Cơ quan tái tạo nhiều cơ sở khảo cứu khoa học và xây cất mới . Theo nhà sinh học phân tử Stanley N. Cohen ,đại học Stanford , Bắc Ca Li: nói : Josh là một trong những nhà khoa học Hoa Kỳ đầy sáng tạo nhất thời đại chúng ta:. Joshua suy tư rộng lớn và sâu đậm hơn, trên nhiều điều hơn bất cứ ai tôi được biết Ông chết đi là một mất mát lớn cho tất cả chúng ta .
- Khi Lederberg khởi sự khảo cứu của ông , ngay sau Thế chiến Thứ II, các nhà sinh học hiểu biết rất giới hạn về di truyền học và sinh sản vi khuẩn. Oswald Avery , nhà sinh học phân tử tiền phong, đã khám phá ra năm 1944 là acid deoxyribonucleic hay DNA , là vật liệu làm mã số cho thông tin di truyền của đời sống , gồm luôn cả vi khuẩn . Cảm ứng vì những khám phá này, ông xin nghĩ việc tạm thời ở trường y khoa viện đại học Columbia và khởi sự nghiên cứu khẩn cầu phổi – pneumococci và Escherichia coli với Edward L. Tatum , viện đại học Yale. Vào lúc đó, vi khuẩn được xem là những sinh vật đơn giản , sinh sản bằng phân bào – cell division và như vậy sản xuất con cái, trên phương diện di truyền y hệt cha mẹ , nghĩa là các tinh dòng – clones.
- Chỉ trong 1 năm , hai ông đã có khả năng trình bày là Ẹ coli , khi chuyễn qua một thời kỳ có phải tính, chúng có thể giao cấu và trao đổi thông tin di truyền; một tiến trình tên gọi là tái phối hợp – recombination hay tiếp hợp –conjugation . Khi vi khuẩn ở thời kỳ có phái tính , tiếp xúc nhau , chúng có thể trao đổi những vòng – rings DNA , tách rời từ DNA nhân của chúng , mà Lederberg đặt tên là plasmids ( plasmit ). Phép đặt này không được hưởng ứng , mãi cho đến thập niên 1970, khi đã rỏ ràng gen mật mã ở plasmid là cơ chế các vi khuẩn chuyễn giao sức đề kháng thuốc kháng sinh, từ một sinh vật này đến một sinh vật khác.
- Năm 1952 , họat động với sinh viên Norton D. Zinder , Lederberg xác định một cơ chế thứ hai cho sự trao đổi gen, gọi là tải nạp – transductiọn. Ở tải nạp , những virus lây nhiễm vi khuẩn ấy đi một hay nhiều gen của DNA vi khuẩn và nhét chúng vào hệ gen của một vi khuẩn thứ hai . Khám phá này là một chứng minh đầu tiên của sự thao tác vật liệu di truyền , cuối cùng ra được sử dụng như thể là căn bản của những kỷ thuật công nghệ di truyền .
- Năm 1958 , khi mới 33 tuổi , Lederberg được trao một nữa giải thưởng Nobel , về Sinh lý học hay Y khoa . Nữa giải kia, tặng thưởng chung cho Tatum và George Beadle , vì họ đã khám phá ra vào thập niên 1940 là gen hành động bằng cách điều hòa những tiến trình hóa học đặc thù .
- Danh tiếng của giải Nobel giúp Lederberg nới rông những sở thích của mình . Tiếp theo vụ phóng vệ tinh Spunik , năm 1958, ông khởi sự biện cứ là các nhà sinh học phải có chân trong việc thám hiểm không gian , tên gọi là “ sinh học vũ trụ ngọai, – exobiology “ nghĩa là nghiên cứu đời sống ngòai Địa Cầu. Chung sức cùng nhà vật lý học Dean B. Cowle, ông biện cứ là các phi hành gia và phi thuyền trở về Trái Đất cần được cách ly kiểm dịch, hầu ngăn ngừa một lây nhiễm tiềm năng thảm khốc các mầm bệnh ngòai địa cầu . Họ cũng biện cứ thêm là các phi thuyền Hoa Kỳ cũng phải khử trùng triệt sản trước khi phóng lên không gian , để ngăn ngừa ô nhiễm có thể xảy ra về đời sống sinh học ở các hành tinh khác . Cả hai gợi ý đều đã được chấp thuận .
- Lederberg giúp họa kiểu và xây cất những dụng cụ tự động dò tìm nhưng dấu hiệu đời sống trên Hỏa Tinh như là một thành phần sứ mệnh Viking 1975 của NASA . Sau đó, ông đề xướng mở rộng nhiệm vụ của computer trong khoa học . Ông và Edward Feigebbaun , viện đại học Stanford , phát triễn một chương trình computer tên là DENDRAL phát họa giúp xác định những hợp chất hóa học chưa từng biết, từ những dữ liệu quang phổ học và la bô . Đó là hệ thống chuyên môn đầu tiên dùng ở khoa hoc.
- Trong nhiều chức vụ cố vấn chánh phủ. ông cũng là chuyên viên cố vấn cho Cơ quan Kiểm Sóat Vỏ Khí và giảm Quân Bị , trong lúc Hoa kỳ đàm phán thỏa hiệp giải trừ vỏ khí sinh học . Những năm cuối đời , ông thường nói đến đe dọa cho nhân lọai về sự bừng khởi tiềm thế những vi sinh vật đa đề kháng thuốc kháng sinh- multi drug resistance microorganisms . Trong số nhiều danh dự tưởng thưởng thành tích của ông , nên kể đến Huy Chương Quốc gia về Khoa học năm 1998 và Huy Chương Tự do của Tổng thống( Hoa Kỳ ) năm 2006 , một tưởng thưởng dân sự cao nhất của Hoa Kỳ .
- Joshua Lederberg sinh ngày 23 tháng 5 , năm 1925, ở thị trấn Montclair , bang New Jersey , con của một dân di cư Do Thái từ Palestinẹ . Một thần đồng , tuổi mới lên 6 lên 7 , ông đã quyết định học Khoa học làm sự nghiệp , tuyên bố tham vọng làm “ Einstein “ . Tuổi 11 , ông đã đọc văn bản đại học y khoa ở cuối lớp , trong khi các bạn đeo đuổi những đề tài thế tục hơn . Ông tốt nghiệp trung học nổi tiếng New York Stuytevant High School năm 1941, khi mới 15 tuổi và theo học Động vật học , đại học Columbia . Năm 17 tuổi , ông nạp đơn vào học chương trình huấn luyện V-12 đại học Hải Quân , đặc điểm là học chương trình cô đặc sửa soan y khoa – pre-med và chương trình huấn luyện sản xuất bác sĩ cho Quân đội Hoa Kỳ . Ông vào trường đại học y khoa ở Columbia, nhưng rời trường sau 2 năm để họat động với Tatum. O6ng có ý định trở về lại đai học y khoa , nhưng trước khi hòan tất cấp bằng bác sĩ , năm 1948 , ông được mời vào chức vị dạy ở ban di truyền học, đại học Wisconsin, một chức vụ có cơ giúp ông tiếp tục khảo cứu vi khuẩn.
- Sau 10 năm ở đó, ông được lên chức chủ tịch ban Tân Di truyền học ,đại học Stanford . Ông ở chức vụ này 20 năm , trước khi trở thành Chủ tịch Viện đại học Rockefeller University . Đa số công trình ở Wisconsin và ở Stanford , ông thực hiện cộng tác với bà vợ thứ nhất, bà Esther Miriam Zimmer , ông gặp gở lúc làm việc cùng Tatum . Hai người ly dị năm 1966 . Bà vợ thứ hai, bác sỉ Marguerite S. Lederberg ở New York , còn sống . Con gái Anned Lederberg cũng ở New York và con trai nuôi David Kirsch ở Chevy Chase , bang Maryland.
- 2-Còn các thiên tài khoa học Nhật, kể cả những vị đọat giải Nobel , phần lớn tránh ánh sáng chói lọi sân khấu.
- Tại Nhật , quốc gia cống hiến cho thế giới những sáng kiến , tỉ như là mì gói ăn liền – instant noodles và Sony Walkman , khoa học luôn luôn được xem là một nghề nghiệp , giả thiết sản xuất ra một cái gì ích lợi. . Dân Nhật vinh danh những “thợ thiếc, thợ hàn “ vụn vặt , những cán bộ chuyên môn, những kẻ thiết thực , nghiêm chỉnh, đã xây dựng “ đinamô “ kinh tế hậu chiến .
- Các nhà khoa học thuần túy, tu kín xa cách ở những la bô thiếu ngân khỏan và đeo đuổi những lý thuyết họ ước mơ, ít khi được trí tưởng tương quốc gia Nhật nghĩ tới . Theo dân Nhật , họ chưa đủ thực tiễn . Thế cho nên thật là ngọt bùi cho những nhà khoa học Nhật , kể từ khi nhà khảo cứu Shinaya Yamanaka tuyên bố tháng 11 năm 2007 là ông đã phá nứt một thách đố kiên cường nhất của lảnh vực khoa học: tạo ra những tương đương tế bào gốc người theo một kỷ thuật không cần phải có phôi .
- Khám phá đã biến Yamanaka , 45 tuổi thành một hiện tượng Nhật chưa thấy: một nhà khoa học danh vang. Nhiều nhóm báo chí náo động la bô ông ở viện đại học Kyoto . Chánh phủ Nhật đã chịu trả hàng triệu đô la Mỹ, giúp ông tiếp tục công cuộc khảo cứu. . Riêng Yamanaka có vẽ chán chường huyên náo này , đôi chút bực tức nữa . Ông phẩn nộ mất thì giờ bỏ công việc , hầu giải thích ngày này qua ngày khác, chi tiết khám phá của ông cho kẻ ngọai cuộc .Ông nói với các nhà phỏng vấn là ông thích trở lại la bô hơn , biến khám phá thành một kỷ thuật y khoa thực tiển, giúp dân chúng chửa trị vô số bệnh đau khổ , từ các thương tích xương sống đển bệnh tim .Yamanaka nói: tôi là một bác sĩ y khoa , trước khi tôi trở thành một nhà khoa học, giải thích tại sao ông không muốn giàu có và danh tiếng . Tôi thích nhất là khám phá có thể làm gì để chửa bệnh nhân .
- Quyết tâm của Yamanaka phải ra mắt trình bày chỉ vì lợi ích công cọng , ngay cả lúc ông đang huy hòang , thật đúng vào tâm trạng dân Nhật muốn các nhà khoa học Nhật cư xử . Nhún nhường . Khinh rẻ giàu có . Dân gian Nhật muốn họ tương tự nhà khoa học thần kinh Ryuta Kawashima . Đã biến những ý kiến của ông ta, cách nào chống trả già nua thành một công nghệ đồ sộ sách vở và trò chơi viđêo huấn luyện bộ nảo . Chắc chắn là Kawashima không thích khóac lác là ông đã không nhận một đồng xu con , hàng triêu đô la tiền bản quyền tác giả ông được quyền hưởng . Ông cũng không muốn nghĩ xã hơi, thích dùng thời giờ có được , gíup đở người già .
- Không phải ai cũng nghĩ rằng nhấn mạnh đế nhún nhường , khiêm tốn là một điều tốt đẹp cả đâu . Họ tự hỏi rằng công nhận giới hạn có là lý do khiến người Nhật trẻ tuổi không chịu theo sư nghiệp khoa học không ? Giới khoa học Nhật đã nhận thức vấn đề và đã làm những bước tiến đầu tiên thay đổi tình trạng này, nâng lên cấp lảnh đạo những tài năng khoa học son trẻ . Ý kiến là làm cho khoa học “ ra mã”, khêu gợi dục tính hơn .
- Shiro Segawa , một giáo sư báo chí khoa học nói : “ chúng ta có những anh hùng về thể thao, và tôi luôn luôn nghĩ rằng các nhà khoa học Nhật có đủ chuyện kể , biến họ thành anh hùng . Sagawa liên quan đến cuốn sách xuất bản năm 2004 đề tựa là “ Bạch Thư Khoa học – Science White Paper “ , cố gắng lưu tâm những công trình Nhật . Thế nhưng công chúng Nhật rất ít chú ý tới .
- Segawa nhấn mạnh nhà khoa học gương mẩu thời hậu chiến là Hideki Yukawa , một nhà vật lý học đầu tiên đọat giải Nobel và rất nổi tiếng vì tính khiêm nhường của ông . Shigeyuki Koide , biên tập viên khoa học nhật báo Yomiuri Shimbun nói : Chúng tôi được dạy dỗ khoa học là một triết lý , giống âm nhạc và nghệ thuật hơn . Đối với người Nhật , khoa học được xem như là một thú vui , không phải làm nên danh vọng . Ai đó tìm kiếm công nhận và tưởng thưởng ( nhờ khoa học ) sẽ có nguy cơ bị tẩy chay .
- Hãy lấy thí dụ ca Shuji Nakamura , nhà sáng chế ra diod phát ánh sáng xanh dương năm 1993 , mở đường cho tiết kiệm to lớn năng lượng sản xuất ánh sáng . Vào thời gian này, Nakamura đang làm việc cho hảng Nichia Corp ., được tăng thêm lương 180 đô la Mỹ . Ông than phiền là ông bị đối xử như một kẻ nô lệ Ông rời Nhật năm 1999, giữ một chức vị tại viện đại học U C Santa Barbara , Ca Li- Hoa Kỳ . Hai năm sau, ông đưa đơn kiện chủ củ , cố tìm cách chia sẽ lợi lộc thành quả công trình ông sáng chế . Dân Nhật chia ra 2 phe ở vụ kiện cáo này, theo lời Koide . Vài người thiện cảm hòan cảnh khó khăn của một nhân viên lương thấp kém dưới tay một chủ hảng. Vài người khác sửng sốt điều ho cho là một chụp giựt giàu có, không thích nghi .
- Yoshiro Nakamatsu, một nhà sáng chế phong phú , có nhiều môn bài tác quyền hơn tất cả mọi người Nhật nào khác trong lịch sử , tỏ vẽ coi khinh , nói :Nakamura đã chọn lề lối Mỹ , không phải lề lối Nhật. Mục đích khoa học và sáng chế là thương yêu , không phải làm giàu . Tôi đã làm ra những sáng chế đầu tiên, vì tôi yêu thương mẹ tôi. Sau đó tôi sáng chế vì dân gian và quốc gia Nhật . Các nhà khoa học Nhật không nên để ý tới việc họ có trở thành danh tiếng hay không .
- Văn hóa này có thể giải thích tại sao công chúng Nhật lại ôm chồm Koichi Tanaka , một kỷ sư điện , chia sẽ giải Nobel năm 2002 về hóa học . Tanaka cũng đang làm công cho một hảng tư , khi ông khám phá một cách ngẩu nhiên, theo lời ông , một phương pháp cải thiện kỷ thuật phân tích protein, một tiến trình sử dụng được dò tìm sớm ung thư . Ông cũng chỉ được tăng thêm chút ít lương . Nhưng Tanaka không bao giờ than phiền cả . Thay vào đó , Tanaka chia sẽ công lao với các đồng nghiệp và khen công ty đã cho phép ông tự do thí nghiệm . Ông nói : tôi bất hạnh là đã có danh tiếng trong dân gian Nhật , khi được phỏng vấn nhận giải Nobel . Tôi mong muốn trở lại đời sống bình thường .
- Yamanaka đóng khuôn đúng y mẩu mực nhún mình. Nhưng điểm chia cách giữa ông và các nhà khoa học Nhật khác là khám phá của ông , lý thuyết mơ ước, xảy ra ở một lảnh vực nóng bỏng nhất thế giới. Khi đủ khả năng biến các tế bào trưởng thành cư xử như là những tế bào gốc phôi – embryonic stem cells, dọn đường mới mẽ chửa trị vô số kể bệnh tật . Công trình có cơ cách mạng hóa y khoa ! Cứu nạn hàng triệu đời sống nhân lọai . Đúng là một cái ngữ ích lợi ! Ông nói thêm : Ngày nào đó tôi hy vọng chửa trị được cả trọc đầu nữa . Đó là mơ tưởng của tôi .
- 3-Nhìn cá trong suốt theo dõi tiến triễn và chửa trị ung thư.
- Theo gót ếch trong suốt – see- through frogs các nhà khảo cứu ở bệnh viện nhi đồng Boston ,Hoa Kỳ , đã lai giống, tuyễn chọn được các cá sọc vằn – zebrafish trong suốt , phô bày rỏ rệt u ung thư và tế bào gốc, khi chúng tăng trưởng. Các động vật la bô này , đã bắt đầu cung cấp cái nhìn bên trong ,cách nào các tế bào ung thư lan tràn và cách nào có thể chửa trị được ung thư ở những con người, không nhìn trong suốt được . Dự án nuôi cá và ứng dụng y khoa này đã đăng tải ngày 06 tháng hai , 2008 ở tạp chí Tế bào – Tế bào Gốc, cũng như ở trình bày giải tỏa của bệnh viện nhi đồng Boston . Cá soc vằn cũng như ếch và chuột , thường được sử dụng làm các mô hình thử nghiệm các bệnh tật và các tiến triễn xảy ra ở trên con người.
- Các nhà khoa học thường để cho các động vật mắc phải những bệnh tật tương tự ở người, rồi giết chúng đi và mổ xẽ chúng ra . Đối với tiến triễn ung thư , các nhà khảo cứu muốn thấy tận mắt, cách nào ung thư tiến triễn ở động vật sống. Các nhà khoa học đã sử dụng phôi cá sọc vằn trong suốt, ,theo dõi mục tiêu này . Nhưng khi trưởng thành, cá đều trở thành mờ tối om , không khảo cứu gì được nữa , sau 4 tuần lễ, theo Richard White, một chuyên viên lâm sàng chương trình tế bào gốc bệnh viện nhi đồng và là giảng sư y khoa tại viện Dana Farber . White và các đồng nghiệp ở la bô Leonard Zon, bệnh viện nhi đồng, đã lai hai lòai , giống các cá sọc vằn . Một lòai tên gọi là “ roy- orbinson “ có hai sắc tố đen và vàng. Lòai kia tên gọi là “ nacre “ không có sắc tố đen , nhưng lại có một sắc tố phản chiếu – reflective pigment và sắc tố vàng . Con lai giữa hai lòai này, nở ra không còn sắc tố đẹn, hay không có sắc tố phản chiếu . Chỉ còn sắc tố vàng nhìn trong suốt được. White gọi những con lai này theo tên mới là “ casper “ , chiếu theo con ma phim họat họa- cartoon ghosts . Các cá trong suốt có thể giúp theo dõi tiến trình ung thư, từ điểm địa phương đến các nơi lan tràn , cuối cùng làm chết người . Đây là bức xúc các nhà ung thư học phải đối diện . Họ không biết tại sao tế bào ung thư lai di chuyễn xa các vị trí chúng phát khởi, đến các nơi khác trong thân thể. Khi tạo ra một u ung thư dahùynh quang – fluorescent ở lổ hổng trong bụng cá , họ nhìn kính hiển vi thấy được cách nào các tế bào ung thư di căn- metatasized ; trong vòng khỏang 5 ngày , dừng lại ở da cá, sau khi rời da lỗ hổng bụng cá . Khám phá này gợi ý trong tương lai , sẽ có cách lừa cho các tế bào đi sai mục tiêụ, làm hỏng hẳn việc di căn . Họ cũng phóng xạ các tế bào gốc làm ra máu cùng tủy xương sống - bone marrow, rồi cấy các tế bào gốc huỳnh quang này đến một cá sọc vằn khác và nhìn thấy được cách nào tế bào gốc lại trở về chốn cũ . White nói rằng nảo , tim , đường ruột tiêu hóa … đều thấy rỏ cả. Giúp nghiên cứu nhìn thấy sâu rộng, tận bên trong, các bệnh di truyền, tỉ như bệnh mất trí nhớ Alzheimer hay hội chứng viêm sưng ruột- inflammarory bowel syndrome .
- 4- Tương lai y khoa : Mầm bệnh này có thể cứu sống bạn hay câu chuyện thần tiên vi khuẩn cầu chuổi Streptococcus mutans sống trong miệng bạn
- Theo nhà vi trùng học David Thaler , viện đại học Rockefeller, New York, thay vì khử sạch trùng – sterility, đã đến lúc nên xem xét đưa sinh vật thiện cảm sự sống – probiotics, nghĩa là các vi khuẩn có ích , vượt ra khỏi đường ruột, dùng chúng trong môi sinh chúng ta . Trong viễn cảnh tương lai, “ thuần khiết - purity “ kjhông còn có nghĩa là 99.9 % sạch mầm bệnh .Mà theo tiên đóan của Thaler , lại có nghĩa là một quân bằng hòan mỹ của những vi trùng lành mạnh. Sau đây là câu chuyện hổ trợ tầm nhìn xa của Thaler, khuẩn cầu chuẩn Steptococcus mutans ( xem hình ) sống bên trong miệng bạn . Jegffrey Hilman , nhà sinh học miệng , viện đại học Florida là cha đẻ lọai phép trị liệu sinh học tương lai theo viễn ảnh Thaler. Hilman đã mất cả chục năm vận động hành lang, hầu được FDA cho phép ông thử nghiệm một vi khuẩn chuyễn gen – transgenic trên các thiện nguyện . Hilman nói : May thay , tôi không biết điều gì sẽ xảy ra về những yêu cầu ông phải điều hòa , phải phấn đấu xử sự , kể từ năm1996. Đó là năm ông thiết lập hảng Oragenics, một hảng kỷ thuật công nghệ sinh học, cổ vỏ thị trường hóa Streptococcus mutans, ông có môn bài sáng chế chống sâu răng- cavity . Khuẩn cầu chuổi này là một sinh vật sửa đổi di truyền – genetically modified organism ( GMO ) , thành phẩm sản xuất của gần 30 năm khảo cứu khoa học .
- Bên trong miệng của hầu hết mọi người trên hành tinh này, những tập đòan vi khuẩn sống phong phú ở những chất đường còn sót lại. Sản phẩm phụ tiêu hóa của chúng là acid ăn mòn hết men răng và gây ra sâu ( lũng ) răng . Nhưng có rất nhiều dòng – strains S. mutans , và nhiều dòng gây rắc rối hơn các dòng khác . Mùa hè năm 1976 , Hilman cố gắng thay thế các dòng làm sâu răng với các dòng sản xuất ít acid làm hư răng hơn . Tiếc thay , tuồng như gần bất cập lọai bỏ hẳn S. mutans của một người “bản xứ “, một khi răng người đó đã bị chúng đến định cư, từ thở còn nhỏ dại . Hilman nhớ lai : chúng tôi đã thử điên cuồng mọi cách . Có một lần , chúng tôi đã phết iodine trên răng các thiện nguyện . Rồi chúng tôi nhét vào lỗ sâu răng thuốc kháng sinh .. Nhưng dù theo cách nào di nữa, khi Hilman mau lẹ đưa vào răng họ những dòng ít làm hư răng , nhanh hay chậm nhưng chắc chắn , dòng bản xứ luôn luôn trở lại.
- Năm 1982, Hilman tìm ta được một dòng năng nổ đủ sức hích cùi chỏ các dòng bản xứ , rồi đá văng những gen của chúng sản xuất ra acid . Ông làm ra những tranh hùng vi khuẩn như những cuộc chọi ( đá ) gà , đưa ra những dòng S. mutans đánh nhau trên những dĩa Petri đầy nhóc vi khuẩn. Khi ông thấy một tập đòan châm kim – pin prick làm một vòng hòan tọan sạch thảm cỏ các dòng vi khuẩn khác quanh đó , thì ông chắc là đã kiếm ra đựợc thí sinh lý tưởng. Khi Hilman và hai cộng sư viên ở la bô, đưa dòng này vào chính miệng họ , dòng mau lẹ chiếm ngụ , đày đi hết những dòng S. mutans bản xứ . Tiếp theo , ông xóa bỏ gen sản xuất acid của dòng vi khuẩn này , nhưng siêu bọ không sống sót được thao tác. Đa số các dòng S. mutans , cũng như dòng siêu bọ dùng acid lactic để xài các phế thải chuyễn hóa . Không bài tiết ra acid , phế thải chồng chất mãi, cho đến mức độc hại giết chết vi trùng .
- . Hilman giải quyết vấn đề bằng cách làm siêu bọ- superbug của ông sản xuất ra alcohol , thay vì acid . Ông vay mượn một gen sản xuất cồn - alcohol củaZymomonas mobilis , đã được sử dùng làm bia Mễ tây Cơ pulque . Con siêu bọ mới này sản xuất đủ alcohol , để làm ký chủ ngà ngà , chuyếnh chóang .Nhưng trên nghiên cứu với chuột la bô, siêu bọ đã thay thế S. mutans bản xứ của chuột , giữ cho chuốt hầu như không còn bị sâu răng , khi cho chuột ăn uống nhiều chất đường , bình thường phá hủy răng chuột . Rắc rối là Hilman nay đã có một chuyễn gen thật sự , một vi sinh vật làm biểu hiện gen của hai lòai khác nhau Cho nên Hilman, nếu muốn thử nghiệm trên người , phải có sự chấp thuận của FDA , FDA chuyễn ca ( trường hợp ) này cho Ủy Ban Cố vấn Tái Phối hợp DNA – Recombinant DNA Advisory Committee của Các Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ , thiết lập năm 1974 , sau phản ứng quần chúng lo ngại về mức an tòan của trao đổi gen giữa các lòai . Năm 2004 , Ủy Ban chấp thuận , bật đèn xanh cho Hilman thử nghiệm . Thường lệ điều này đủ cho FDA chấp thuận ,.
- Nhưng kỳ này, các nhà điều hòa FDA đòi hỏi Hilman phải làm què , tàn tật siêu bọ , hầu bảo đảm là có thể lấy nó đi , nếu có rắc rối xảy ra . . Các nhà điều hòa xem vi khuẩn sửa đổi di truyền , đủ lực lưỡng chiếm ngụ bất cứ miệng ai , nhưng họ lo ngại chúng lan tràn không kiểm sóat . Quyết định này phản ảnh chỉ trích thông thường về phép trị liệu sinh học bằng GMO . Như của nhà khoa học Joe Cummins , phát ngôn viên chánh thức cho viện “Khoa học trong Xã hội “ một nhóm chống đối GMO , căn cứ tại Luân Đôn , Anh Quốc. Cummins nói : “ vấn đề chánh cho GMO … là vì chúng khó giữ, cách chế ngự chúng còn yếu kém . Khi thóat ra ngòai, chúng sẽ ô nhiễm những hệ thống dân gian không đòi hỏi trị liệu “
- Cho nên Hilman đã phải đá văng ra ngòai nhiều gen hơn nữa . Kỳ này làm cho vi trùng của ông không còn sống sót nổi nữa mà không có một amino acid những vật thử nghiệm cần được cung cấp , hai lần một ngày , bằng cách rữa miệng với một thuốc súc miệng chế biến đặc thù . Thêm vào đó, cơ quan điều hòa còn yêu cầu Hilman thử nghiệm trên bệnh nhân có hàm răng giả đầy đủ , có thể rữa tẩy sạch cuối mỗi tuần lễ .Các thiện nguyện không được có trẻ em ở nhà mình và các hôn phối cũng phải mang hàm răng giả đầy đủ. Cả hai , thiện nguyện và hôn phối , phải còn thật mạnh khỏe và dưới 55 tuổi . Hilman nói : chúng tôi đã sàng lọc hơn 1000 thiện nguyên , để tìm ra 2 người đủ điều kiện .
- Thử nghiệm nhỏ nhoi hai người diễn tiến không trục trặc gì cả ;đến cuối năm 2006, không có dị ứng tai hại nào và đào thải hòan tòan vi sinh vật sau mỗi 7 ngày . Tháng 11 năm 2007, , sau 10 năm kỷ niệm ngày ông nạp đơn cho FDA , Hilman nhận được sự chấp thuận cho dùng các vi khuẩn què quặt của ông , để thử nghiệm lâm sàng rộng lớn hơn. Ông hớn hở : thử nghiệm trên người thật sự và trên răng thật sự. Để đủ an toàn , các thiện nguyện phải sống ở tuần lễ thử nghiệm trong một phòng ốc chống được ô nhiễm sinh học.
- Nếu siêu bọ của ông chứng minh là không có tai hại gì cả , như chúng có vẽ như vậy , Hilman hy vọng là FDA sẽ chấp thuận cho ông bỏ qua giai đọan phải làm chúng què quặt dinh dưỡng . Ai dùng sẽ khỏi cần súc miệng thuốc amino acid mỗi ngày. Vậy chớ siêu bọ có khởi sự lan tràn từ miệng người này qua ngươì khác không đây ? . Hình như không , theo lời Hilman . Khi ông và các công sự viên la bô cho tập đòan cư ngụ răng của họ với các tổ tiên GMO, chúng không lan tràn đến vợ hay bạn gái , dù đã chiếm cứ miệng chính của họ, cả mấy chục năm rồi .
- Các người đề xướng như Thaler , đật câu hỏi là liệu “ những giải tỏa không kiểm sóat – uncontrolled release “, nếu giả thử xảy ra , có là một điều xấu xa không ? Sẽ như thế nào , như thể chúng ta có những dịch bản hiền lành Mary Thương hàn – Typhoid Mary bách bộ quanh đó , làm lan tràn những mầm sinh cường sức khỏe ? Tuy nhiên trong vài ca, giải tỏa không kiểm sóat những vi khuẩn sửa đổi di truyền có thể dẫn tới tai họa, dù cho ảnh hưởng ý định chỉ có lợi ích . .
B- Kiến trúc, công nghệ ….
5 – Kiến trúc cận đại : một lưỡi dao, tàu lá mỏng xanh xanh, họa kiểu tháp nhà công quản cận đại màu xanh, ít nhất là trên lý thuyết.
Kiến trúc sư Jean Nouvel muốn thêm mốt kiểu lai căng vào các nha chọc trời thị trấn Century City . Đây là một đề nghị trị giá 400 triệu đô la Mỹ làm một lọai tháp nhà ở công quản – condo tower, 45 tầng xa xĩ tai số 10 000 đại lộ Santa Monica , tiết lộ đầu tháng 2/ 2008 , sinh ra bằng cách phối hợp hai quan niệm kiến trúc từ lâu vẫn chống đối nhau kịch liệt .
Như một vật thể hiện ra mập mờ trên cảnh tượng thành phố , họa kiểu không phải là ủy nhiệm đầu tiên cho Los Angeles mà cũng là dự án đầu tiên phía tây thủ phủ Minneapolis, nơi đó Hí trường Guthrie Theater, ấp trứng đáng ngạc nhiên, đã khai trương cách đây 2 năm là một tụng thi cho các anh hùng cận đại ngành kiến trúc. Một tấm ốp tuồng như mỏng manh không thể có được, cao ngồng, nguyên khối , rất giống tháp 39 tầng của Liên Hiệp Quốc , một xây cất năm 1953 , do một nhóm kiến trúc sư quốc tế họa kiểu ,kể cả bậc thầy Le Corbusier , cũng người Pháp.
Theo nghĩa này , nó nhắc lại một thời kỳ kiến trúc tìm kiếm là một phản đề của Thiên nhiên, một họa kiểu hửu cơ , và sử dụng phong cảnh , nếu đúng như thế , chỉ là một trang trí hình lá đầy bi kịch tính . Năm 1923 , khi phong trào Cận Đại đang lên cao , Le Corbusier định nghĩa , vang lừng , một gia cư , một nhà ở là “ một máy móc hầu sống trong đó “ . Tháp Century City của Nouvel làm ra , cốt để có 177 đơn vị gia cư , là một máy móc cho vài trăm người sống trong đó. Với nhà ở công quản diện tích từ 3400 đến 9500 bộ vuông ( khỏang 330 – 900 mét vuông ) một đơn vị , chúng có vẽ chỉ dành riêng ưu đải vài kẻ giàu có .
Tuy nhiên cùng lúc, hình dáng eo hẹp bất thường kiểu họa của Nouvel ( nên nghĩ tới trái nho , sồi đen hay một cỗ bài chống đở một phía) cũng là dấu hiệu những điều sẽ đến. Chính dạng này nối xây cất với trường phái Cận Đại cổ điển , gạch nối kết với phong trào họa kiểu môi sinh xanh. Giúp nó họat động theo một góc độ đáng chú ý về hiệu quả năng lượng. Đó là lý do tại sao những tháp cao trung bình hay thấp nhỏ ( theo kích thước Hoa Kỳ ) đã ca ngợi thư ủy nhiệm xanh , gồm luôn cả Dinh thự Liên Bang Thom Mayne ở Cựu Kim Sơn – San Francisco , khai trương năm 2007 và Trung Tâm Nghệ Thuật Rộng Rải tại viên đại học UCLA , do hai nhà kiến trúc sư Michael Palladino và Richard Meier vẽ ra , gần như chia sẽ chính xác dạng kiểu này . Cho nên rất nhiều tháp mới đang dự tính cho nhiều đô thị, thị trấn khắp thế giới ( Còn Việt Nam mỗi ngày dân cư càng đông đúc ,đất nông nghiệp giới hạn, phong trào di cư về đô thị mỗi ngày mỗi lớn theo đà tiến triễn công nghệ , dịch vu .... đang cố gắng xây dựng tháp như nhà 45 – 60 tầng dự liệu ở Sài Gòn, nghĩ sao đây ? )
Kích thuớc dinh thự xây cất này sẽ cao 600 bộ ( 200m ) , rộng 142m , nhưng chỉ sâu có gần 17m, sẽ giúp cho ánh nắng mặt trời chiếu sâu vào tận mỗi đơn vị gia cư. Cho nên các gia chủ có thể tắt đèn phần lớn ban ngày . Những chiều này cũng giúp thóang hơi thiên nhiên , giảm bớt điều hòa không khí . Hảng Suncalcos đặt hàng Nouvel nói rằng đang nhắm vào chứng nhận nữa chừng tháp của chương trình LEED ( Lảnh đạo về Họa kiểu Năng lượng và Môi Sinh ) của Ủy Ban Xây cất Xanh. Chiếu theo các nhà phát triễn , dự án sẽ thắng nhiều điểm LEED từ Ủy Ban , vì chưng các người cư ngụ sẽ có khả năng lấy ưu thế của Century City bằng chân , để xe hơi trong ga ra dưới đất ngầm , đi bộ đến tiệm ăn và kịch trường , ngay ở khu cư dân, thủi phủ Los angeles, mỗi ngày mỗi đông đúc thêm .
Thật sự, xa quá hơn cả hy vọng có hiệu năng , đã khiến cho xây cất của Nouvel có được một pha trộn giữa Cận đại lề lối cũ với họa kiểu xanh , môi sinh . Đó cũng là một phương cách Nouvel hình dung ra phong cảnh bò lan chung quanh cao thêm mãi xuyên qua ngay cả xây cất, dinh cơ . Họat động chung với Hảng Rios Clementi Hale Studios, Los Angeles , Nouvel đã vẽ ra một tháp dâng cao lên từ một vườn um tùm rộng trên 4000 mét vuông . Vì lẽ xây cất này phải đẩy dựng cao lên ở mép cuối vị trí , nơi tháp nối với đại lộ Santa Monica , vườn sẽ tuôn trào ra dưới chân xây cất , như thể một tấm thảm vậy đó
Ở những tầng trên , mỗi đơn vị sẽ gồm cả phô trương phía bắc lẫn phía nam, những đơn vị cuối bọc gương ba mặt . Phong cảnh thêm , sử dụng một hệ thống thủy sinh – hydroponics đặc biệt , hầu tránh làm rối lọan dạng hình dòng chánh của tháp với thợ, máy trồng trọt hay bùn dơ; sẽ nhờ các tóan họa kiểu, cọng vào những sân thượng ở mỗi tầng. Mồi đơn vị cũng sẽ có một một vườn hoa riêng biệt. Cú nốc- knock đánh vào những tháp trơ trọi , không trang trí xây cất ở thời cổ truyền Le Corbusier là chúng hòan tòan không có địa điểm nữa, tha hóa cư dân với cảnh vật chung quanh và mọi cảm giác liên kết từng vùng. Nouvel xem phong cảnh và những thể thức khác, lấy khí hậu làm ưu điểm , như là một cách làm êm dịu rạng danh , khâu nối tháp trực tiếp vào vị trí. Ông mệnh danh tháp là ‘lưỡi kiếm hay tàu lá xanh. “ .
Căn bản tương tự lề lối đã hướng dẫn Frank Gehry và cặp kiến trúc sư phong cảnh của Frank , đầu tiên là Laurie Olin, nay là Nancy Goslee Power , ở những họa kiểu của họ cho dự án Đại lộ Lớn trung tâm thành phố. Dự án cũng cố tâm thiết lập một xếp đặt um tùm ở mức ngang đừờng , vươn mình cao thẳng đứng . Như Nouvel tuyên bố : kiến trúc hiện tại của thế kỷ thứ 21 , phải biểu hiện nghệ thuật sinh sống ở một điểm đặc biệt vào một thời gian đặc biệt “.
Lọai logic nguyên văn thật là đáng ghét căm cho các kiến trúc sư tiền phong trường phái Cận Đại . Còn quá sớm để mua ngay hòan tòan lời rao từ chương này , dù cho ca này có vẽ hấp dẫn mấy đi nữa . Nếu cây cối trên sân thượng không mọc dày dặc như dự tính, rất dễ dàng tưởng tượng xây cất chỉ là một hộp gương hâm nóng khác qúa khổ, quá kích thước. , hình dáng đôi chút thanh lịch hơn tất cả . Khởi sự L .A . của Nouvel theo mẩu mực của ông thật là thẳng thừng, ít dị thường và ít lộn xộn hơn là đa số dinh thự cao tầng, cao ốc ông vẽ ra mới đây ở New York và ở Âu Châu .Cạo mọi lông xanh lè đi, chúng sẽ mất hết mọi hấp dẫn kiến trúc . Nhưng nếu phong cảnh sản phẩm cuối cùng sánh được miêu tả nguyên thủy, tháp sẽ được xem là một cú ngọan mục : một máy móc sinh sống cùng một vặn chéo Nam Ca Li xanh um . ( chiếu theo tài liệu của Christopher Hawthorne, biên tập viên L A Times . )
6- Lịch sử của transistor, bé tí xíu nhưng rất uy vũ, có lẽ cũng nên biết rỏ hơn đôi chút ở thời đại điện tử ngày nay ?
Một linh kiện nho nhỏ phát khởi những bùng nổ kỷ thuật đáng kinh ngạc của lịch sử văn minh nhân lọai, lên 60 tuổi trời , tháng 12 năm 2007 . Cái transistor thấp hèn và dòng dõi con cháu nó , chip – vi xử lý bán dẫn, gíup tạo nên cuộc cách mạng kỷ thuật số - digital , ngày nay đụng tới mọi mặt đời sống chúng ta . Quanh chúng ta , hàng tỉ này đến hàng tỉ khác transistors thầm lặng họat động trên máy computer , điện thọai tế bào , rađiô , ti vi , máy in , máy sao chép , máy chạy CD , xe hơi , trên bất cứ vật gì có điện tử bên trong . Transistors giúp thám hiểm không gian và cuộc cách mạng máy computer cá nhân – personal computer PC . Theo lời Bill Gates , không có phát minh transistors, chắc chắn là PC không thể hiện được, như chúng ta biết về PC ngày nay . Không có computer cũng không có iPod hay các điện thọai tế bào cầm tay . Không có Internet . Cũng không có được công nghệ bán dẫn trị giá nhiều tỉ đô la Mỹ ; không có Intel, Nokia , Microsoft hay Google .
Ngày nay , chip silicon phức tạp nhất mang theo hơn một tỉ transistor mỗi chip , và chúng ta đã chế tạo hàng tỉ chip mới mỗi năm . Hầu như không còn hiểu được các con số nêu ra . Mỗi năm ,chúng ta chế tạo khỏang 10 triệu lần transistror hơn là ngôi sao- stars ước lượng ở giải Ngân Hà – Milky Way . Một transistor là một nút bấm điện tử nhỏ có khả năng phóng đại một dòng điện , do John Bardeen , Walter Brattain , và William Shockley sáng chế ra tại la bô Bell ở New Jersey ngày 16 tháng chạp năm 1947. Hội thẩm lừa đảo transistor đầu tiên , sử dụng một miếng giấy xén cắt , vài lá germanium và vàng kim , tìm thấy là nó tăng cường dòng điện một trăm lần hơn . Họ giữ cho họ phát minh này một thời gian , rồi trình bày cho các thủ trưởng trước Giáng Sinh . Bardeen , Brattain và Shockley đọat giải thưởng Nobel về vật lý học năm 1956 .
Điện tử cận đại khỏi sự năm 1906 , khi Lee de Forest khám phá là một mắt lưới điện , đặt giữa hai điện cực ở một chân không có thể phóng đại một dòng điện , xử sự như một nút bấm . Những ống chân không thành quả này mau lẹ trở thành những ngựa thồ của ngành điện tử , dùng trong rađiô và hệ thống điện thọai. Cuối thế chiến thứ nhất, Hảng Western Electric đã chế tạo khoảng 1 triệu ống chân không mỗi năm . Kỷ thuật ống chân không đạt đỉnh với máy computer kỷ thuật số đầu tiên tên gọi là ENIAC, làm ra khỏang 1944- 1946 , tại đại học Pennsylvania . ENIAC là một máy đồ sộ , dài 30 mét , cao 3m và sâu 1m , gồm có chừng 100 000 bộ phận , kể cả 18 000 ống chân không . Nhiều người nói rằng khi mở ENIAC , đèn điện ở phía tây thành phố Philadelphia mờ lịm hẳn đi . Vài ngày sau là ống hư hỏng , phải thay thế . Đó là nhược điểm của các ống chân không . Chúng xài quá nhiều điện và hư hỏng hòai .
Các nhà khảo cứu hảng Bell đã tiên liệu vấn đề này và giữa thập niên 1940, tạo dựng một nhóm tìm cách sửa đổi. Mục đích là làm một linh kiện chất đặc , không cần đến chân không ,không có dây đèn điện và không có bộ phận di chuiyễn . Nhóm này cá cuộc trên các bán dẫn , những vật liệu như silicon và germanium , dẫn điện được trong vài điều kiện . Tháng chạp năm 1947 , họ đào được mỏ vàng kim .Sản phẩm thương mãi đầu tiên sử dụng transistor là một máy nghe phụ giúp tai điếc – hearing aids , làm ra năm 1952. Tuần Báo Fortune , tuyên bố năm 1953 là “ Năm của Transistors “ và năm 1954 , hảng Texas Instruments xây dựng được một mạch vòng hội nhập – integrated circuit đầu tiên , phối hợp một số transistor trên một chip silicon, một cột mốc của lịch sử bán dẫn .
Từ những khởi đầu tương đối khiêm tốn , thay đổi bừng dậy so sánh không kém gì cuộc Cách Mang Công ( Kỹ ) Nghệ . Nhiều người đã nghe tới định luật Moore , trở thành một thần chú cho Thời đại Kỷ thuật số. Trước tiên do đồng sáng lập viên Gordon Moore của Intel vào thập niên 1960 đề xướng , nói rằng số transistor trong một chip ( cũng có nghĩa là lực xử lý – processing power), cứ 2 năm tăng gấp đôi,trong khi giá của chip giảm đi phân nữa. Định luật Moore đã đứng vững hơn 4 chục năm , đưa đến một tăng trưởng kỷ thuật, làm bé nhỏ hóa – mimiaturization và thịnh vượng, không tin nổi.
`Ngày nay, chip điêu nghệ chứa hơn 1 tỉ transistor , nén gói chặc rtong một vùng kích thước chỉ bằng móng tay người . Nói theo ngôn từ kinh tế học , nếu giá xe hơi cũng theo đúng đà tiến giảm giá như transistor, chúng ta sẽ trả tiền mua xe hơi, chỉ bằng một lát bánh hỏi mì pizza Ý .
Vài năm tới , vấn đề là liệu công nghệ bán dẫn có thể nào giữ bền vững tiến bộ không ngưng ? Làm nhỏ bé transistor hơn nữa có vẽ khó khăn một khi các rào cản vật lý học căn bản đã đạt được ; trong lúc đó , những biên cương mới đang mở toang ra thêm . Tìm kiếm tạo những transistors hửu hiệu hơn , sử dụng hay sinh cường ánh sáng thay vì điện , sẽ có cơ gíup đạt những tốc độ xử lý mau lẹ hơn .
Thế cho nên , vào ngày kỷ niệm transistor được 60 năm, khi bạn trả lời máy điện thọai tế bào, tống mạnh máy computer, búng trên iPod, và trong tiến trình xử lý , nướng ấm transistor khó tin nổi, một nút chuyễn điện tử thấp hèn, đã chỉ trong hai thế hệ dân gian , thay đổi hòan tòan cách nào chúng ta sinh sống , làm việc hay vui chơi .
7- Schlumberger mua kỷ thuật của Raythreon :Vi ba giúp trích dầu lữa
Hảng thầu lớn cho Bộ Quốc phòng Mỹ Raytheon đang bán kỷ thuật vi ba- microwave cho một hảng khai thác dầu lữa lớn, hầu trích các dự trử dầu lớn tại các mỏ trầm tích diệp thạch – shale deposits dưới đất miền Tây Hoa Kỳ . Ngày 22 tháng giêng năm 2008 , hảng Schlumberger tuyên bố là đã mua kỷ thuật Raytheon phát triễn với hảng CF Tecnologies căn cứ tại thành phố Boston , cung cấp chuyên môn để trích dầu , sử dụng phương pháp có tên là siêu cực trọng carbon dioxide lỏng – supercritical liquid carbon dioxide .
Phó chủ tịch Raytheon là Lee Sylvestre nói Slumberger đang trả lệ phí không phổ biến song song với tác quyền .kéo dài mấy chục năm cho những lợi tức nào Sclumberger tao ra được, nhờ kỷ thuật này. Vài tiền lời cũng sẽ được chia sẽ cho CF Technologies . Raytheon, căn cứ tại Waltham , bang Massachussetts, và Schlumberger , căn cứ tại Houston - Texas , từ chối không tiết lộ thêm chi tiết . Hảng thầu quốc phòng dứng hàng thứ 5 trên thế giới Raytheon , đã phát triền kỷ thuật vi ba , có thể xem như là một dụng cụ căn bản để khai thác dự trữ dầu đóng khóa khó trích tại miền Tây Hoa Kỳ, đặc biệt ở đất liên lục địa phân tán từ các đất đai liên bang tại các bang Colorado , Utah và Tây Nam Wyoming . Đa số chú tâm tụ điểm trên vùng này , vì ước lượng vùng chứa đến 1.8 ngàn tỉ thùng dầu . bị bẩy ở diệp thạch, nghĩa là 3 lần lớn hơn dự trữ đã được chứng minh ở Ả rập Saudi Arabia . Trong số này khoảng 800 tỉ có thể khai thác được. Cũng như lò vi ba dùng hâm nóng thực phẩm , kỷ thuật Raytheon trông cậy vào vi ba để tạo ra dưới đất nhiệt lượng và làm nung chảy một lọai chất sáp ở diệp thạch tên là Kerogen, cho nên có thể chuyễn hóa thành dầu lữa. Carbon dioxide hâm nóng và áp lực hóa thành một chất lỏng , rồi được sử dụng trích dầu từ khối đá ,đưa tới một giếng dầu .
Raytheon và các hảng dầu lữa khởi sự thám hiểm những phương cách trích dầu tư diệp thạch đã hàng chục năm nay, nhưng phần lớn các cố gắng đã xếp vào ngăn tủ vào thập niên 1980 khi gía và cung cấp dầu lữa cố định . Vài dự án ,.kể cả dự án Raytheon, đã cho tái sinh , những năm gần đây , khi giá cao hơn, và cải thiện kỷ thuật cũng như hy vọng Hoa Kỳ bớt phụ thuộc dầu lữa ngọai quốc . Rayrheon sáng chế thực phẩm vi ba một cách bất ngờ năm 1945 , khi một kỷ sư hảng nhận thấy là các làn sóng tư thiết bị radar làm chảy môt thanh sô cô la trong túi ông ta , không phải là hảng duy nhất sử dụng các làn sóng kỷ thuật vi ba , cố gắng mở khóa kho tàng .
Hảng Global Resource Corp. ở West Berlin, bang New Jersey cũng làm một phương thức tương tự và tháng 11 năm 2007 đã tuyên bố một thỏa hiệp với một giáo sư đại học bang Pennsylvania khảo cứu cách thị trường hóa tiến trình của hảng tổ hợp . Từ năm 1996 , công ty Shell Frontrier Oil & Gas cũng đã thử nghiệm trên đất tư nhân ở miền Tây bang Colorado . Những thử nghiệm này gồm có hầm nướng các khối đá ở dưới đất với các thanh điện , rồi bơm dầu nung chảy lên mặt đất . Shell nói rằng cần nhiều năm nữa kỷ thuật mới thương mãi hóa được .
Kỷ thuật Raytheon cũng liên quan đến hâm nóng dưới đất, nhưng dùng các vi ba chiếu luồng – beam từ các máy phát xuống thấp đến diệp thạch . Không rỏ các vùng diệp thạch đất liền luc địa các trầm tích đồng bằng sông Hồng , đồng bằng sông Cửu Long v.v…Việt Nam có chứa dầu không và có áp dụng tương lai kỷ thuật vi ba trich dầu nay được không ? Khi Trung Quốc đe doa khai thác các trầm tích các thềm lục địa hải phận Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm cứ .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét