Cha đẻ máy chụp hình kỹ thuật số, nhà đọat giải Nobel Willard S.
Boyle ( 1924- 2011 ) qua đời
G S Tôn thất Trình
Willard S Boyle (trái) và Smith (phải) trong phòng thí nghiệm của Bell 1970 với dụng cụ chuyển ánh sáng qua kỹ thuật số |
Willard Boyle chia sẽ giải Nobel 2009 về vật lý học
nhờ phát minh một linh kiện cách mạng làm hình ảnh , trung tâm của các máy chụp hình kỹ thuật số - digital cameras
, đã chết ngày mồng 7 tháng 5 năm 2011 ở bệnh viện thị trấn Wallace, Canada . Ông thọ
86 tuổi và đã đau đớn vì bệnh thận.
Linh kiện làm hình ảnh kỷ
thuật số - digital imaging device tên
gọi là linh kiện mắc nối điện
tính- charge-coupled device hay CCD , giúp cho các kỷ sư lần đầu tiên tồn trữ một hình ảnh nhìn thấy
được theo dạng kỷ thuật số, làm cách mạng hóa chụp hình ( chụp ảnh ) và một lọat
lảnh vực khác . CCD là con tim của
điện thọai thông minh - smartphones , máy quay phim -
camcorder , viễn vọng kính , các máy rà dò gạch mã số siêu thị - supermarket bar code
scanners, máy fax và máy rà dò . (
nhắc lại CCD là một trong những dụng cụ tân tiến trắc quang - photometry
, ráp dàn trãi ở viễn vọng kính đo lường độ sáng rất mờ ánh sáng các vì sao, hành tinh vũ trụ thiên hà trên phi thuyền Kepler của NASA- Cơ Quan
Không Gian Hoa Kỳ , giúp Kepler khám phá ra 1235 thế giới mới hành tinh bay quanh các vì sao không phải là hệ thống
mặt trời ( hệ thống thái dương) mà cha
ông chúng ta chỉ biết có 9 hành tinh, như Trái Đất, Sao Mộc , Sao Thủy , Sao
Hỏa v.v…).
Theo Ủy ban lựa giải
thưởng Nobel tuyên bố khi trao giải, “ chụp hình kỷ thuật số đã trở thành
một dụng cụ không thay thế được ở nhiều
lảnh vực khảo cứu. CCD đã cung cấp những khả năng mới để nhìn thấy những gì trước đây chưa thấy được.
Nó đã cung cấp cho chúng ta những
hình ảnh trong trắng ngần như pha lê (
tinh thể ) từ những nơi xa xăm của vũ
trụ, cũng như bề sâu của những đại dương
… Các phát minh này đã có ảnh hưởng lớn cho nhân lọai hơn là bất cứ một phát minh - sáng chế nào khác
trong nữa thế kỷ vừa qua” .
Mọi chuyện xảy ra ở một phiên họp đòi
hỏi đóng góp mọi người tham dự đơn giản, mục đích thật ra hòan tòan khác hẳn.
Mùa thu năm 1969, Boyle và nhà khảo cứu đồng nhận giải thưởng Nobel này là
George E . Smith, cả hai làm việc tại La Bô Bell, tụ họp ở văn phòng Boyle sau bửa cơm trưa, hầu suy nghĩ đến phương cách phát triễn một linh kiện bộ nhớ - memory
mới cho máy computer . Trong vòng một
tiếng đồng hồ, họ đã tiến tới một bản thô sơ của CCD .
Họ đã sử dụng ảnh hưởng
quang điện - photoelectric effect, đã giúp cho Albert Einstein đoạt giải Nobel vật lý năm 1921. Tóm tắt, khi ánh sáng đụng vào một
miếng silicon nhỏ, nó đẩy các electron ra
khỏi những quỹ đạo chúng . Nếu silicon đã
hình thành ra những tế bào quang học - photocells, mỗi tế
bào hành động như một giếng chụp bắt
và giữ lại các electrons, một thời gian lâu dài hơn .
Đột phá then chốt của
Boyle và Smith là vẽ ra một phương cách đọc ra những số lượng và vị trí
những electron bị chụp bắt ở giếng
trong một dàn trải pixels. Ở một
dàn trải 10 -với(by)-10, chẳng hạn, dữ liệu được chuyễn hóa thành một dây chuyền nồng lượng electron dài
100 pixels . Chúng có thể chuyễn hóa ngược lại thành những thông tin
nhìn thấy được.
Trong vòng một năm, hai ông đã bỏ đi thôi nghĩ đến linh kiện bộ
nhớ và sản xuất ra một máy
chụp hình kỷ thuật số. Hai năm sau , hảng Fairchild Semiconductor-
Bán dẫn sản xuất một máy chụp hình kỷ thuật số đầu
tiên nhỏ
( theo mẩu mực cận đại ) 100 pixels- với - 100 pixel máy dò
quang học - photosensor ( tổng cọng là 10 000 pixels ). Máy sản xuất
đại trà vài năm sau. Đến năm
1975, Boyle và Smith cũng đã sản xuất ra
một máy chụp hình viđeô hoạt động
được cho ngành ti vi.
Ngày nay, các linh kiện làm
hình ảnh CCD có thể vượt qúa 100 mega (một triệu, 106 )
pixels hầu cung cấp những hình ảnh cực kỳ rỏ rệt .
Hình chụp W.S Boyle năm 2005 |
Năm
1943, đang học ở Viện đại học McGill ở Montreal, Canada, ông bỏ học để
vào Hải Quân Hoàng Gia Canada, hầu trở thành một phi công lái máy
bay chiến đấu Spitfire, hạ trên các hàng
không mẩu hạm. Chiến tranh chấm dứt, ông
trở lại McGill và đổ tiến sĩ vật lý học
năm 1950. Sau một năm ở La bô Phóng Xạ
McGill, và 2 năm dạy vật lý học ở trường đại
học Quân sự Hòang gia Canada tại Kingston ,
ông sang Hoa Kỳ gia nhập La Bô Bell suốt
đời sự nghiệp còn lại. Năm 1962, ông và
bạn đồng nghiệp sáng chế ra laser
hồng ngọc - ruby laser , được sử dụng rộng rải. Ông cũng
cùng đồng nghiệp David Thomas
tham gia phát triễn laser
tiêm vào bán dẫn, một bộ phận của nhiều linh kiện điện tử. Từ năm 1964, ông làm việc ở một chi nhánh
Bell
cộng tác với NASA , giúp lựa chọn những
vị trí đổ bộ của chương trình
Apollo. Ông cũng đã nhận 13 môn bài sáng chế then chốt và nhiều giải thưởng, ngoài giải thưởng
Nobel. Bà Betty Joyce , vợ ông, lấy nhau 65 năm rồi, vẫn còn sống . Cũng như
con trai David, hai con gái Cynthia vàPamela; 10 cháu nội ngọai
và một chắt .
( Irvine , Nam Ca Li, ngày 19 tháng 5 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét