Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2011

Thiên Văn Học


Hiểu biết cập nhật về vũ trụ, tiến bộ Thiên văn học và các ngành công nghệ liên hệ như hỏa tiễn, điện tử vi xử lý- chip , lập trình phần mềm v.v… :                                                                                                                                                  Phong phú Hành tinh
                                                                                  G S Tôn Thất Trình



Goldilock zone
Thời trung học cách đây hơn 60 năm ,  môn thiên văn học  dạy chúng tôi Trái Đất ( Địa Cầu )  chúng ta sinh sống là một trong  9 hành tinh- planet bay quanh Mặt Trời . Trước đó  thì đọc lén ( vì cha mẹ cấm không cho trẻ con đọc truyện vỏ hiệp ba xu và các tiểu thuyết lãng mạn thứ 5 ,thứ 7… )  mê man  chuyện Tàu  Thuyết Đường ( ? ), cứ tưởng đó là những vì tiên trên Trời bị đày xuống Trần gian - Trái Đất  làm tướng nổi tiếng cho nhà Đường họ Lý , như  Thái Bạch Kim Tinh ( Sao Kim - Venus ) Trình Giảo Kim  hay   Thiên Vương Tinh ( Sao Thiên Vương - Uranus )  đệ nhất anh hùng Lý Nguyên Bá không ai chống nổi  ba nhát búa … 
Viễn vọng kính Kepler
Nhưng nay thì viễn vọng kính Kepler, Trung tâm  Khảo cứu Ames  của NASA  gần thành phố  Cựu Kim Sơn -San Francisco, Bắc bang Ca Li,  cho biết  đã xác định  được 1, 235 hành tinh. Trong số này   hành tinh KOI 314. 02  năm trong vùng  tên gọi là  Goldilock zone  có cơ hội tốt nhất  chứa đựng đời sống - life . Nhiệm vụ đầu tiên của Cơ Quan Không Gian Hoa Kỳ - NASA dành cho tìm kiếm  hành tinh , xa hẳn ngòai hệ thống Mặt Trời  đã sản xuất ra một giếng phun những thế giới mới lạ lùng. Nếu các nhà thiên văn học  tính đúng,  53 hành tinh  có thể ở được ở phần vũ trụ chúng ta biết được.           

                                   Hành tinh Kepler-10b , nhỏ nhất và  đá cứng nhất, trong số 1235 thế giới mới phi thuyền Kepler khám phá ra
Hành tinh Kepler 10b
                         Một cuộc du hành khởi đầu 4 thập niên  trước khi Kha luân Bố - Columbus  căng buồm  tiến về Tân Thế giới, cuối cùng đã chấm dứt  khi viễn vọng kính không gian  bẩy được vài quang tử - photon  lang thang,  khi chúng tạt ngang qua  quỷ đạo  Trái  Đất  trên đường đi đến vô tận .  Ánh sáng đã chạy qua không gian  trong vòng 560 năm  rồi , du hành  qua hơn  3 000 ngàn tỉ dặm Anh  từ một vì sao  tương tự Mặt Trời chúng ta. Các máy dò  kỷ thuật số Kepler   bắt chụp đươc chúng , biến chúng thành  các bytes dữ liệu, và chất tải chúng trên  các máy computers  của Trung Tâm . Chế biến các ánh sáng này dần dần tiết lộ   một câu chuyện thích thú: một hành tinh không lớn hơn Trái Đất bao nhiêu đang lao đầu  quanh một vì sao sở tại,  theo một bước tiến dữ dội, hòan tất một quỹ đạo, một dịch bản một “ Năm” của nó chỉ cần 20 tiếng đồng hồ.
                           Ngòai kích thước ra,  hành tinh không giống Trái Đất gì hết.  Nó bay vòng quanh vì sao của nó , cho nên   nhiệt độ bề mặt nó lên cao hơn  25000 F ( 1371 0 C ) , đủ nóng để nung chảy sặt  Tuy nhiên. tìm ra hành tinh này chỉ là thể thức lên lớp kỷ thuật và trí tuệ cho Kepler. Hành tinh gọi tên là Kepler -10b , khi NASA  tuyên bố nó hiện diện tháng giêng năm 2011,  là thế giới nhỏ nhất   tìm thấy ngòai xa hệ thống mặt trời chúng ta .  Khám phá nó tỏ ra rằng phi thuyền không gian Kepler , phóng lên tháng 3 năm 2009 . đúng là có thể  thực hiện những nhà khoa học họa kiểu nó  đã   mạnh dạng thực hiện những gì họ hứa hẹn. : cố tìm cho ra những hành tinh nhỏ, kích thước Trái Đất  bay quanh những vì sao xa xôi, một nhiệm vụ đôi khi tuồng như quá khó khăn  ở biên cương của sự phi lý .  Kepler -10b  chỉ là một trình diễn xem trước . Sau tuyên bố tháng giêng, NASA  giải tỏa  một bộ dữ liệu   đầy đủ đầu tiên  của sứ mệnh phi thuyền Kepler   và các kết quả đã khiến các nhà thiên văn học cố sức tránh những phóng đại qúa mức.  Geoff Marcy , một nhà thiên văn học  Viện đại học UC Berkeley   thành phần  của nhóm Kepler nói : Thẳng thắng nói ra,  chúng tôi đã bị áp đảo.  Những gì NASA đang làm  tương tự những chuyến du hành   xuyên đại dương   của thế kỷ thứ 15 ; những du hành đã mở toang  tòan thể thế giới.  Nhờ  viễn vọng kính Kepler , chúng ta đã học được những đặc tính   của những hành tinh  xuyên qua các đại dương vũ trụ.  Điều này nay đã là lịch sữ rồi . Và là phi hành gia không gian Mỹ  Amstrong bước ra khỏi  bậc thang đáy. 
                         Kepler theo dõi  156 000 vì sao , nghĩa là 0. 000 1% của sỉ số  thiên hà - galaxy.  Giống như vài việc khoan  vũ trụ phiêu lưu, Kepler đã  đụng nhằm giếng phun, khám phá ra  1235  thế giới mới có thể có được, ngay 4 tháng đầu họat động.  Con số này  gấp đôi tổng số trướcc  chỉ gồm 500 thế giới mới , thu thập khó khăn  trong 16 năm qua. Trước 1995,  theo dõi  những hành tinh đã biết quanh mặt trời  thật dễ dàng, vì tổng số thế giới mới bằng con số không- zero. Tuy rằng tòan thể khối dữ liệu Kepler  chưa được nghiên cứu và sứ mệnh phi thuyền  còn kéo dài ít nhất là hai năm rưỡi nữa.  Nhưng sứ mệnh đã xé rách nát  những sách giáo khoa , trình bày là  thiên hà chúng ta   ( ít nhất là phân số  phi thuyền nhìn thấy được )  chứa  đựng  một xếp lọai  hành tinh xa lạ hơn là các nhà thiên văn học chờ đợi. Theo Marcy,  chúng ta đang học về đa dạng thế giới  ở vủ trụ chúng ta  mà chúng ta chưa có chứng cớ  trước đây.  Chính vậy, chúng tôi nghĩ rằng  có thể có vài  hành tinh đá khối cứng- rocky planets .  Chúng ta đã tìm thấy  vài hành tinh đá  còn  dày đặc  hơn cả  Trái Đất … Nhưng chúng ta cũng đã tìm thấy  những Hải Vương tí xíu- mini Neptunes , một hạng  hành tinh   chúng ta chưa  từng thấy kiểu dạng mẩu  ở hệ thống Thái dương ( Mặt Trời ) chúng ta. Chúng  giống như những Sao Hải Vương nhỏ,  nhưng  có một số lượng   nuớc lỏng,  quanh một lõi  đá cứng !
                     Trong danh sách  có 67 hành tinh  kích thước Trái Đất có đường bán kính khỏang  một ngàn dặm Anh ;  288  “Siêu Trái Đất - Super Earth”  có đường kính gấp đôi Trái Đất , 662   hành tinh kích thước Hải Vương  và 184 khổng lồ  sánh ngang hay lớn hơn kích thước Sao Mộc - Jupiter. Thống kê đơn giản  từ Kepler  cho biết  là các hành tinh kích thước Trái Đất rất phổ biến.  Nhưng như William Borucki , trưởng  nhóm Kepler của NASA nhấn mạnh, kích thước Trái Đất không có nghĩa là  giống y như Trái Đất. Đa số hành tinh kiểu này không ở được: chúng là những thế giới   nóng như lữa chiên xào vậy đó !                           
                      Từ trắc quang kinh tuyến ( qua thiên thể ) , linh kiện mắc nối điện tính , phương pháp Doppler  đến phần mềm giúp đo ánh sáng tối mờ

                    Khi các nhà thiên văn học khởi sự   tìm hành tinh bay quanh các vì sao khác mặt trời vào thập niên 1990 , họ hòan tòan chờ đợi cơ cấu tổng quát  hệ thống thái dương chúng ta  sẽ lập lại  suốt vũ trụ . Những hành tinh đá cứng  như Sao Thủy - Mercury, Sao Kim - Venus , Trái Đất - Earth,  và Sao Hỏa - Mars   sẽ có quỹ đạo  gần vì sao . Những hành tinh  khổng lồ  đầy khí - gaseous   tương tự   Sao Mộc - Jupiter hay Sao Thổ - Saturn  sẽ chiếm  những quỷ đạo  xa xăm hơn .  Lý lẽ này có vẽ là tự mình minh bạch rồi.   Nhiệt lượng  từ một vì sao cha mẹ  sẽ có khuynh hướng  thổi đi xa  những yếu tố nhẹ cân như helium và hydrogen. . Chỉ có  nhữing hành tinh   đá cứng , cứng cáp  mới hình thành gần vì sao hơn ; còn các hành tinh khổng lồ  sẽ hình thành xa hơn, nơi  nuớc đá - ices và khí nguội lạnh - cooled gases sẽ tụ hợp nhau.  Các nhà thiên văn học  không có cách nào thẩm lượng những giả thiết này cả,  vì rằng gần suốt thế kỷ thứ 20, khong có viên vọng kính đủ khả năng dò ra các hành tinh  quanh những vì sao khác mặt trời. . Vài nhà thiên văn học  cố tâm  tìm kiếm chúng đã mất nhuệ khí trong tình trạng thấp hèn  , trải nhiều năm khổ công không kết quả. Đó là tình trạng của ngành thiên văn học, khi  Borucki bắt đầu sự nghiệp ở NASA. Borucki, nay 72 tuổi,  là cha đẻ của phi thuyền Kepler, gia nhập  Trung Tâm Khảo Cứu  Ames của NASA năm 1962 , khi ông mới đổ cao học vật lý học của Viện đại học Wisconsin.  Ames của NASA cũng là  trụ sở  của SETI , Cơ quan  Tìm kiếm Tri thức  Ngòai địa Cầu - The Search for Extraterrestrial Intelligence,    do nhà thiên văn học  danh tiếng Hoa Kỳ, nay đã chết, thiết lập ra là Carl Sagan.
                    Trước tiên là ý niệm  trang bị các viễn vọng kính với  những máy dò ánh sáng điện tử hết sức nhạy cảm  có thể ghi chép  một biến thiên  nho nhỏ  độ sáng, xảy ra khi một hành tinh đi ngang qua trước mặt vì sao.  Năm 1984 Borucki được NASA cấp một chút ngân khỏan, sau khi vài  nhà khoa học  của Cục Tiêu Chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ - National Bureau of Standards gợi ý là các máy dò diod silicon   có thể cung cấp   cho Borucki lọai  chính xác cần thiết chế tạo trắc quang kinh tuyến ( qua thiên thể ) -   Transit photometry. Khi  bị một  hạt tử ánh sáng đụng nhằm , các máy dò này sẽ phát ra  một electron duy nhất.  Và chuyễn hóa  hửu hiệu ánh sáng vì sao   thành một  dấu hiệu điện tử  dò ra đuợc, là cấp thiết  cho  trắc quang kinh tuyến.  Vấn đề kế tiếp   là mỗi máy dò  chỉ có thể  theo dấu một vì sao mà thôi và Borucki thừa biết  là nối dây chuyền hàng ngàn máy dò với nhau để theo dấu nhiều vì sao  để thống kê có ý  nghĩa,  thật không có tí gì thực tế cả. Đến năm 1992, Borucki  đã xác định là  những vi xử lý - chip tên gọi là linh kiện mắc nối điện tính - charge-coupled devices hay CCD,  có thể cung cấp mức chính xác đo đúng  những thay đổi cực kỳ  nhỏ bé   ánh sáng các vì sao.  Quan hệ hơn nữa   là chúng có thể   gói theo những dàn trải  có cơ theo dõi  cùng lúc hàng ngàn vì sao . Nhưng NASA   gạt bỏ   dự án .  Năm 1995 , một nhóm Thụy Sĩ  tìm thấy  51 Pegasi b , một hành tinh đáng lưu ý   phía xa ngòai hệ thống thái dương chúng ta, và là một khám phá đầu tiên về một hành tinh bay quanh  một vì sao tương tự như mặt trời.  Đây  là một khổng lồ đầy khí  như thể  Sao Mộc, nhưng nó bay quanh quỹ đạo mặt trời của nó , chỉ  có 5 triệu dặm Anh , hòan thành một vòng  chỉ trong 4 ngày thôi (  để so sánh , Sao Mộc bay  ở một quỹ đạo  cách mặt trời 480 triệu dặm Anh   và mất đến  gần 12 năm mới hòan thành một vòng ). Khám phá này lật ngược  hòan tòan  giả thiết xưa cũ là mọi hệ thống hành tinh đều tương tự  hệ thống chúng ta và gợi ý  là các nhà thiên văn học  đã quên bẳng đi tòan thể một  hạng hành tinh.
The Doppler-method allows to detect an exoplanet by measuring periodical variations in radial velocity of the host star
                     Nhóm Thụy Sĩ  làm khám phá kể trên bằng cách sử dụng một kỷ thuật căn cứ trên mặt đất do Geoff Marcy và nhà thiên văn học Gia Nã Đại  Bruce Campbell khởi xướng thập niên 1980. Kỷ thuật tên gọi là  phương pháp Doppler đo lường  sức kéo  trọng lực  hành tinh áp lực trên một vì sao, một hành tinh không thấy được trực tiếp , vì bị mất đi  dưới ánh lòe sáng của vì sao.   Các nhà thiên văn học  có thể dùng Doppler  để tìm thấy  những hành tinh lớn kích thước Sao Mộc, nhưng  muốn tìm thấy những thế giới nhỏ hơn, họ cần đến  một kỷ thuật chính xác hơn, vì kỷ thuật Doppler có khả năng giới hạn.  Phi thuyên  Kepler   sẽ được  trang bị một viễn vọng kính  56 ngón Anh ( 1422.4 mm) tụ điểm ánh sáng  vì sao lờ mờ  trên một dàn trải 42 CCD.  Để so sánh Viễn vọng kính không gian  Hubble, phóng lên 6 năm trước chỉ có 4 máy dò.  Nhưng kỳ này NASA vẫn gạt bỏ dự án Borucki đề nghị, cho rằng  phần cứng và phần mềm  khó lòng theo dấu cùng một lúc  hàng ngàn vì sao.  Borucki trở lại la bô, lần này xây dựng một đài quan sát mini : dài 2 bộ Anh ( 0.6m )  rộng 8 ngón Anh ( 203mm ) có một dàn trải CCD.  cặp thêm một phần mềm  để giảm bớt tiếng sắp xếp ồn ào bên sau vì sao, và có thể  đo lường biến đổi  ánh sáng   xuống chỉ còn là 20 phần triệu, khiến viễn vọng kính  đủ nhạy cảm để dò ra một hành tinh kích thước Trái Đất  quanh một vì sao tương tự mặt trời  ở một quỹ đạo lớn như quỹ đạo Trái Đất.  Kèm theo  một đề nghị mới  năm 1998, nhưng NASA vẫn nghi ngờ hiệu quả viễn vọng kính mới nên gạt bỏ.
                      Hầu thõa mãn nhũng chống đối dự án,  nhóm Borucki tổ chức một  trình diễn  chứng minh là Kepler có thể kiểm soát đủ các rung động và nhiệt độ  khắc nghiệt ở không gian  Và năm 2000, Borucki  lại làm đề nghị mới.  Lần này NASA  chấp thuận. Năm 2001,  NASA  cấp cho nhóm Kepler 299 triệu đô la , nhắm phóng phi thuyền  lên khoảng năm 2006.  Hầu  biến cái nhìn xa  của nhóm  Borucki  thành một phi thuyền họat động thật sự,  dự án giao cho  Trung tâm không gian Ball Aeropace ở Boulder , bang Colorado thực hiện.  Có rất nhiều trở ngại phải vượt qua, tỉ  như các máy dò CCD. Sử dụng CCD bay trên không gian đã có từ thập niên 1990, nhưng ý kiến  dùng một bó CCD  ráp nhau thật rất khó khăn.  Phải cần đến  hơn 2000 kỷ sư và cán sự ở Trung tâm Ball làm việc  hơn một triệu giờ trên hơn 5 năm,  mới làm xong một phi thuyền  cân nặng 2 320 cân anh ( 1053 Kg ), trang bị một máy chụp hình  kỷ thuật số lớn quá cỡ, gồm 22 000 bộ phận  và một viễn vọng kích  55 ngón Anh ( 195 mm )  lớn nhất  kể từ khi  NASA phóng lên  ngòai xa quỷ đạo Trái Đất. Dàn trải CCD dài 11 ngón Anh (2794 cm ) , cũng rộng 11 ngón Anh  và tòan thể  máy chụp hình năm trong một hộp 1.5 bộ khối, treo trên một khung graphit - epoxy  ở giữa viễn vọng kính.   Căn bản máy dò là một máy chụp hình - camera  95- megapixel.  Ngòai việc làm  cứng rắn chúng để chịu đựng phóng xạ,  CCD phải  được giữ rất nguội lạnh , ở nhiệt độ -1200 F (- 48 .9 độ C ) , để có thể dò ra  những mức độ ánh sáng rất thấp. Trong lúc đó, các máy điện tử kiểm sóat máy chụp hình đặt vài cm cách các CCD,  chỉ chạy ở nhiệt độ  225 độ F ấm hơn.  Các ống aluminium thản nhiên dẫn  nhiệt lượng  từ các bộ phận điện tử từ một máy  đến một máy tỏa nhiệt - radiator ráp trên bề mặt phi thuyền Kepler .
                    Sau một vài trì hoãn vì ngân qủi , cuối cùng NASA  phóng Kepler lên  ngày 6 tháng 3  năm 2009, 17 năm sau đề nghị đầu tiên của Borucki  và 400 năm sau  Johannes Kepler  xuất bản  hai  định luật đầu tiên về di chuyễn hành tinh ở sách  Tân Thiên Văn Học - Astronomia Nova. Một hỏa tiễn  Delta II   phóng Kepler lên một quỷ đạo  mặt trời- trung tâm,  tương tự  quỷ đạo Trái Đất  bay quanh, hòan tòan theo đúng các định luật Kepler .          
                       
                     Vài hành tinh đáng chú ý

*  Kepler - 10b , nhỏ nhất và  đá cứng nhất

Khỏang  ¾  hành tinh   khám phá ra   ngòai xa  hệthống thái dương chúng ta  là nhừng thế giới  khổng lồ , đầy khí. Vài   hành tinh này cư ngụ   ở những khoảng cách - cách ly  đứng đắn  từ các vì sao của chúng , hầu  hổ trợ nước thể lỏng, nhưng nhiệt độ thơm tho   không bảo đảm  những điều kiện  thú vị .  Tầng khí này đế tầng khí khác ,có thể tạo  áp lực đủ mạnh mẽ để đập nát một xe vận tải Brink như thể một ly- cốc giấy   , và vì không có đất  lụvc địa , đất liền   cho nên không chứa đựng nổi đời sống.  Tháng giêng năm 2011, các nhà thiên văn Kwepler  tuyên bố là đã khám phá ra hiển nhiên là lần đầu tiên một hành tinh  đá cứng  ngòai hệ thống thái dương, Kepler -10b.  Nó  có 1.4 đường kính Trái Đất  và là  một hành tinh ngọai - exoplanet  nhỏ nhất đo được . Tiếc thay, đá cứng không đương nhiên  bảo đảm là có thể ở - cư ngụ được !  Nhiệt độ  ban ngày ở Kepler-10b  lên đến gần 3000 độ Farenheit . Tin tức tốt đẹp là   nhưng thành quả cuối cùng của phi thuyền Kepler  gồm  117 thí sinh  ở hay dưới kích thước  Kepler -10b và 23  thí sinh  nhỏ hơn Trái Đất, ngụ ý mạnh mẽ là  máy dò  săn tìm hành tinh sẽ  một ngày  gần đây   tìm thấy   những hành tinh ngọai  nhỏ, đá cứng có khí hậu dễ chịu hơn .

* NN Ser(ab)c&d , bền bĩ nhất
NN Serpentis
Khỏang phân nữa các vì sao  trong vũ trụ   liên kết theo trọng lực với  một vì sao đồng hành - companion star  .  Sống chung  với nhiệt lượng và  trọng lực  của hai mặt trời   thất là khó khăn cho các hành tinh, đặc biệt  cho cặp hành tinh khám phá ra năm 2010  bay quỹ đạo  hệ thống vì sao đôi -binary star system  NN Serpentis, còn gọi là NN Ser ( ab).  Các nhà thiên văn học  tin rằng các hành tinh ngọai, tên là NNSer(ab) c và d  có thể còn sống sót một sự cố đại hồng thủy cách đây  nhiều triệu năm, khi một trong các sao chủ nhân của  chúng  phồng to lên 200 lần  đường kính mặt trời , tạm thời bao quanh các hành tinh.  Hay có lẽ các hành tinh  hình thành từ vật liệu vất đi trong sự giản nở này, một lý thuyết có cơ  lật ngược  hiểu biết qui ước của chúng ta là hành tinh và  vì sao  hình thành chung cùng lúc.

* Kepler - 11, đông đúc nhất

 Đến năm 2010, các nhà thiên văn học đã khám phá ra 54 vì sao   làm chủ  nhiều hành tinh . Nhưng  không có một  hệ thống hành tinh nào trông giống như  hệ thống chúng ta. Tháng 2 năm 2011,  các nhà khảo cứu tuyên bố khám phá một hệ thống hành tinh trông có vẽ giống hơn. Đó là Kepler -11 .  6 hành tinh bay quỹ đạo một vì sao  kích thước gần bằng mặt trời ; và  tương tự hệ thống thái dương chúng ta , các hành tinh bên ngòai xa là những khổng lồ  đầy khí,  trong khi những hành tinh bên trong  tuồng như có vẽ dày đặc hơn . Thế nhưng có một vặn tréo đáng ngạc nhiên:  5 trong số 6 hành tinh gói trong những quỹ đạo  nhỏ hơn là Sao Thủy, lối đi của chúng  gần như hòan toàn thẳng hàng  trê cùng một mặt phẳng. Các nhà thiên văn học không biết giải thích  cách nào tất cả mọi hành tinh   làm ra lọai dạng này mà lại không  đụng nát tan nhau.

* KOI 326.01, chọc ghẹo lớn nhất

 Trong số 1235 thí sinh  tuyên bố tháng hai  năm 2011, KOI 326.01 thật sự nổi bật.  Tuồng như có kích thước Trái Đất  và hơi nóng hơn đôi  chút ( 1400F - 600 C ) , nó có vẽ là  hành tinh  tương tự Trái Đất nhất khám phá từ trước đến nay,  mãi  cho đến một tháng sau, các nhà khoa học   khám phá ra một  điều  ít khích lệ hơn: một sai lầm trong dữ liệu của họ. Chọc lỗ trên  độ sáng  chính xác vì sao của hành tinh, tiết lộ  một hành tinh  lớn hơn và nóng hơn Trái Đất. Dù tin tức đáng thất vọng,  nhưng cho thấy là  nhặt ra những chữ ký bé tí xíu  trong hàng ngàn tỉ bytes dữ liệu,  thật rất là khó khăn. Thật tế,  khỏang 10 %  mọi KOI (  Vật thể Kepler Đáng chú ý - Kepler Object of Interest),  thường  có kết quả sai lầm dương, theo các nhà khoa học sứ mệnh phi thuyền Kepler, trong khi những vật thể khác sẽ bị hạ chức  tỉ như KOI 326.01 căn cứ trên những quan sát tiếp theo.  Còn về phần tin tức tốt đẹp, các nhà khảo cứu Kepler đã tìm thấy 4 hành tinh tiềm thế kích thước Trái Đất, với những nhiệt độ xài được.

* GJ 1214b, ẩm ướt nhất

GJ 1214 b  rộng gần 3 lần hơn  Trái Đất và  3000 F ( 149 0 C ) . Nhưng nó có thể  có dời sống phong phú  một món hàng  đáng giá nhất “  nước thể lỏng. Quan sát theo viễn vọng kính  của hành tinh này,  khi nó đi ngang qua  trước mặt vì sao của nó,  cho thấy GJ 1214b  có thể bao phủ đại dương rộng và nóng hổi , nhưng lại duy trì thể lỏng  vì áp lực  lớn ở  bầu khí quyễn bên trên.  GJ 1214 b  cũng giữ  chức,  nhờ bay qũy đạo  gần nhất với vì sao của nó , nghĩa là chỉ  cách xa có 1.3 triệu dặm Anh , 1/70 khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời.  Dù rằng vì sao   GJ 1214  chỉ là một  sao lùn, đỏ, còi cọc, nó vẫn  trông lớn 17 lần hơn mặt trời chúng ta, ngó từ GJ1214 b .

* HD  80606b,  quỹ đạo dở hơi nhất.

Ở hệ thống thái dương chúng ta , mọi  hành tinh, ngọai trừ Sao Thủy,  bay quanh mặt trời  theo một quỹ đạo hòan tòan gần tròn vo. Thật tế,  các lý thuyết gia  từ lâu tin tưởng là các qũy đạo hành tinh  phải có hình tròn.  Thiên nhiên lại tin tưởng khác.  Hay lấy thí dụ hành tinh bất thường  HD 80606b , một khổng lồ đầy khí  ở  chòm sao - constellation Ursa Major  khám phá năm 2001. Lối đi kéo dài ra quanh vì sao cha mẹ, làm nhớ lại quỹ đạo của một sao chỗi - comet  hơn là một hành tinh  kích thước Sao Mộc . HD 80606 b  chao đảo trong khỏang 3 triêu dặm Anh  của vì sao của nó  khi đến gần vì sao nhất  và đạt  điểm xa nhất  cách đó  81 triệu dặm Anh,  sau đó 56 ngày Trái Đất.  Năm 2009, các nhà thiên văn học  báo cáo là nhiệt độ ở hành tinh này nhảy vọt từ 1000 độ F lên đến 2200 độ F, chỉ trong 6 tiếng đồng hồ.

( chiếu theo tạp chí Khám Phá - Discovery số tháng 5 năm 2011. Irvine, Ca Li , ngày 18 tháng 5 năm 2011                              
                


         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét