Hiểu biết cập nhật về vũ trụ, tiến bộ Thiên văn học và các ngành
công nghệ liên hệ như hỏa tiễn, điện tử vi xử lý- chip , lập trình phần mềm
v.v… : Phong
phú Hành tinh
G S Tôn Thất Trình
Goldilock zone |
Thời trung học
cách đây hơn 60 năm , môn thiên văn
học dạy chúng tôi Trái Đất ( Địa Cầu
) chúng ta sinh sống là một trong 9 hành tinh- planet bay quanh Mặt Trời
. Trước đó thì đọc lén ( vì cha mẹ cấm
không cho trẻ con đọc truyện vỏ hiệp ba xu và các tiểu thuyết lãng mạn thứ 5
,thứ 7… ) mê man chuyện Tàu
Thuyết Đường ( ? ), cứ tưởng đó là những vì tiên trên Trời bị đày xuống
Trần gian - Trái Đất làm tướng nổi tiếng
cho nhà Đường họ Lý , như Thái Bạch Kim
Tinh ( Sao Kim - Venus ) Trình Giảo Kim
hay Thiên Vương Tinh ( Sao Thiên
Vương - Uranus ) đệ nhất anh hùng Lý
Nguyên Bá không ai chống nổi ba nhát búa
…
Viễn vọng kính Kepler |
Nhưng nay thì viễn vọng kính Kepler, Trung tâm
Khảo cứu Ames của NASA gần thành phố Cựu Kim Sơn -San Francisco, Bắc bang Ca
Li, cho biết đã xác định
được 1, 235 hành tinh. Trong số này
hành tinh KOI 314. 02 năm trong
vùng tên gọi là Goldilock zone có cơ hội tốt nhất chứa đựng đời sống - life . Nhiệm vụ
đầu tiên của Cơ Quan Không Gian Hoa Kỳ - NASA dành cho tìm kiếm hành tinh , xa hẳn ngòai hệ thống Mặt
Trời đã sản xuất ra một giếng phun những
thế giới mới lạ lùng. Nếu các nhà thiên văn học
tính đúng, 53 hành tinh có thể ở được ở phần vũ trụ chúng ta biết được.
Hành tinh Kepler-10b , nhỏ nhất và đá cứng nhất, trong số 1235 thế giới mới phi
thuyền Kepler khám phá ra
Hành tinh Kepler 10b |
Một cuộc du hành khởi
đầu 4 thập niên trước khi Kha luân Bố
- Columbus căng buồm tiến về Tân Thế giới, cuối cùng đã chấm
dứt khi viễn vọng kính không gian bẩy được vài quang tử - photon lang thang,
khi chúng tạt ngang qua quỷ
đạo Trái
Đất trên đường đi đến vô tận . Ánh sáng đã chạy qua không gian trong vòng 560 năm rồi , du hành
qua hơn 3 000 ngàn tỉ dặm
Anh từ một vì sao tương tự Mặt Trời chúng ta. Các máy dò kỷ thuật số Kepler bắt chụp đươc chúng , biến chúng thành các bytes dữ liệu, và chất tải chúng trên các máy computers của Trung Tâm . Chế biến các ánh sáng này dần
dần tiết lộ một câu chuyện thích thú:
một hành tinh không lớn hơn Trái Đất bao nhiêu đang lao đầu quanh một vì sao sở tại, theo một bước tiến dữ dội, hòan tất một quỹ
đạo, một dịch bản một “ Năm” của nó chỉ cần 20 tiếng đồng hồ.
Ngòai kích thước
ra, hành tinh không giống Trái Đất gì
hết. Nó bay vòng quanh vì sao của nó ,
cho nên nhiệt độ bề mặt nó lên cao
hơn 25000 F ( 1371 0 C
) , đủ nóng để nung chảy sặt Tuy nhiên.
tìm ra hành tinh này chỉ là thể thức lên lớp kỷ thuật và trí tuệ cho Kepler.
Hành tinh gọi tên là Kepler -10b , khi NASA
tuyên bố nó hiện diện tháng giêng năm 2011, là thế giới nhỏ nhất tìm thấy ngòai xa hệ thống mặt trời chúng ta
. Khám phá nó tỏ ra rằng phi thuyền
không gian Kepler , phóng lên tháng 3 năm 2009 . đúng là có thể thực hiện những nhà khoa học họa kiểu nó đã
mạnh dạng thực hiện những gì họ hứa hẹn. : cố tìm cho ra những hành tinh
nhỏ, kích thước Trái Đất bay quanh những
vì sao xa xôi, một nhiệm vụ đôi khi tuồng như quá khó khăn ở biên cương của sự phi lý . Kepler
-10b chỉ là một trình diễn xem trước
. Sau tuyên bố tháng giêng, NASA giải
tỏa một bộ dữ liệu đầy đủ đầu tiên của sứ mệnh phi thuyền Kepler và các kết quả đã khiến các nhà thiên văn
học cố sức tránh những phóng đại qúa mức.
Geoff Marcy , một nhà thiên văn học
Viện đại học UC Berkeley thành phần
của nhóm Kepler nói : Thẳng thắng nói ra, chúng tôi đã bị áp đảo. Những gì NASA đang làm tương tự những chuyến du hành xuyên đại dương của thế kỷ thứ 15 ; những du hành đã mở
toang tòan thể thế giới. Nhờ
viễn vọng kính Kepler , chúng ta đã học được những đặc tính của những hành tinh xuyên qua các đại dương vũ trụ. Điều này nay đã là lịch sữ rồi . Và là phi
hành gia không gian Mỹ Amstrong bước ra
khỏi bậc thang đáy.
Kepler theo dõi 156 000 vì sao , nghĩa là 0. 000 1% của sỉ số thiên hà - galaxy. Giống như vài việc khoan vũ trụ phiêu lưu, Kepler đã đụng nhằm giếng phun, khám phá ra 1235 thế giới mới có thể có được, ngay 4 tháng đầu
họat động. Con số này gấp đôi tổng số trướcc chỉ gồm 500 thế giới mới , thu thập khó
khăn trong 16 năm qua. Trước 1995, theo dõi
những hành tinh đã biết quanh mặt trời
thật dễ dàng, vì tổng số thế giới mới bằng con số không- zero. Tuy rằng
tòan thể khối dữ liệu Kepler chưa được
nghiên cứu và sứ mệnh phi thuyền còn kéo
dài ít nhất là hai năm rưỡi nữa. Nhưng
sứ mệnh đã xé rách nát những sách giáo
khoa , trình bày là thiên hà chúng
ta ( ít nhất là phân số phi thuyền nhìn thấy được ) chứa đựng một xếp lọai
hành tinh xa lạ hơn là các nhà thiên văn học chờ đợi. Theo Marcy,
chúng ta đang học về đa dạng thế giới
ở vủ trụ chúng ta mà chúng ta chưa
có chứng cớ trước đây. Chính vậy, chúng tôi nghĩ rằng có thể có vài hành tinh đá khối cứng- rocky planets
. Chúng ta đã tìm thấy vài hành tinh đá còn
dày đặc hơn cả Trái Đất … Nhưng chúng ta cũng đã tìm
thấy những Hải Vương tí xíu- mini
Neptunes , một hạng hành tinh chúng
ta chưa từng thấy kiểu dạng mẩu ở hệ thống Thái dương ( Mặt Trời ) chúng ta. Chúng
giống như những Sao Hải Vương nhỏ,
nhưng có một số lượng nuớc lỏng,
quanh một lõi đá cứng !
Trong danh sách có 67
hành tinh kích thước Trái Đất có đường
bán kính khỏang một ngàn dặm Anh ; 288 “Siêu
Trái Đất - Super Earth” có đường
kính gấp đôi Trái Đất , 662 hành tinh
kích thước Hải Vương và 184 khổng
lồ sánh ngang hay lớn hơn kích thước Sao
Mộc - Jupiter. Thống kê đơn giản
từ Kepler cho biết là các hành tinh kích thước Trái Đất rất phổ
biến. Nhưng như William Borucki ,
trưởng nhóm Kepler của NASA nhấn mạnh,
kích thước Trái Đất không có nghĩa là
giống y như Trái Đất. Đa số hành tinh kiểu này không ở được: chúng là
những thế giới nóng như lữa chiên xào
vậy đó !
Từ trắc quang kinh tuyến ( qua thiên thể ) , linh kiện mắc nối điện
tính , phương pháp Doppler đến phần mềm
giúp đo ánh sáng tối mờ
Khi các nhà thiên văn học
khởi sự tìm hành tinh bay quanh các vì
sao khác mặt trời vào thập niên 1990 , họ hòan tòan chờ đợi cơ cấu tổng
quát hệ thống thái dương chúng ta sẽ lập lại
suốt vũ trụ . Những hành tinh đá cứng
như Sao Thủy - Mercury, Sao Kim - Venus , Trái Đất -
Earth, và Sao Hỏa - Mars sẽ có quỹ đạo gần vì sao . Những hành tinh khổng lồ
đầy khí - gaseous tương
tự Sao Mộc - Jupiter hay Sao
Thổ - Saturn sẽ chiếm những quỷ đạo
xa xăm hơn . Lý lẽ này có vẽ là
tự mình minh bạch rồi. Nhiệt lượng
từ một vì sao cha mẹ sẽ có khuynh
hướng thổi đi xa những yếu tố nhẹ cân như helium và hydrogen.
. Chỉ có nhữing hành tinh đá cứng , cứng cáp mới hình thành gần vì sao hơn ; còn các hành
tinh khổng lồ sẽ hình thành xa hơn,
nơi nuớc đá - ices và khí nguội lạnh -
cooled gases sẽ tụ hợp nhau. Các nhà
thiên văn học không có cách nào thẩm
lượng những giả thiết này cả, vì rằng
gần suốt thế kỷ thứ 20, khong có viên vọng kính đủ khả năng dò ra các hành
tinh quanh những vì sao khác mặt trời. .
Vài nhà thiên văn học cố tâm tìm kiếm chúng đã mất nhuệ khí trong tình
trạng thấp hèn , trải nhiều năm khổ công
không kết quả. Đó là tình trạng của ngành thiên văn học, khi Borucki bắt đầu sự nghiệp ở NASA. Borucki,
nay 72 tuổi, là cha đẻ của phi
thuyền Kepler, gia nhập Trung Tâm Khảo Cứu Ames của NASA năm 1962 , khi ông mới đổ cao
học vật lý học của Viện đại học Wisconsin.
Ames của
NASA cũng là trụ sở của SETI , Cơ quan Tìm kiếm Tri thức Ngòai địa Cầu - The Search for
Extraterrestrial Intelligence, do
nhà thiên văn học danh tiếng Hoa Kỳ, nay
đã chết, thiết lập ra là Carl Sagan.
Trước tiên là ý niệm trang bị các viễn vọng kính với những máy dò ánh sáng điện tử hết sức nhạy cảm có thể ghi chép một biến thiên nho nhỏ
độ sáng, xảy ra khi một hành tinh đi ngang qua trước mặt vì sao. Năm 1984 Borucki được NASA cấp một chút ngân
khỏan, sau khi vài nhà khoa học của Cục Tiêu Chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ -
National Bureau of Standards gợi ý là các máy dò diod silicon có thể cung cấp cho Borucki lọai chính xác cần thiết chế tạo trắc
quang kinh tuyến ( qua thiên thể ) -
Transit photometry. Khi bị
một hạt tử ánh sáng đụng nhằm , các máy
dò này sẽ phát ra một electron duy nhất.
Và chuyễn hóa hửu hiệu ánh sáng vì sao thành một
dấu hiệu điện tử dò ra đuợc, là
cấp thiết cho trắc quang kinh tuyến. Vấn đề kế tiếp là mỗi máy dò chỉ có thể
theo dấu một vì sao mà thôi và Borucki thừa biết là nối dây chuyền hàng ngàn máy dò với nhau
để theo dấu nhiều vì sao để thống kê có ý nghĩa,
thật không có tí gì thực tế cả. Đến năm 1992, Borucki đã xác định là những vi xử lý - chip tên gọi là linh
kiện mắc nối điện tính - charge-coupled devices hay CCD, có thể cung cấp mức chính xác đo đúng những thay đổi cực kỳ nhỏ bé
ánh sáng các vì sao. Quan hệ hơn
nữa là chúng có thể gói theo những dàn trải có cơ theo dõi cùng lúc hàng ngàn vì sao . Nhưng NASA gạt bỏ
dự án . Năm 1995 , một nhóm Thụy
Sĩ tìm thấy 51 Pegasi b , một hành tinh đáng lưu ý phía xa ngòai hệ thống thái dương chúng ta,
và là một khám phá đầu tiên về một hành tinh bay quanh một vì sao tương tự như mặt trời. Đây là
một khổng lồ đầy khí như thể Sao Mộc, nhưng nó bay quanh quỹ đạo mặt trời
của nó , chỉ có 5 triệu dặm Anh , hòan
thành một vòng chỉ trong 4 ngày thôi
( để so sánh , Sao Mộc bay ở một quỹ đạo
cách mặt trời 480 triệu dặm Anh
và mất đến gần 12 năm mới hòan
thành một vòng ). Khám phá này lật ngược
hòan tòan giả thiết xưa cũ là mọi
hệ thống hành tinh đều tương tự hệ thống
chúng ta và gợi ý là các nhà thiên văn
học đã quên bẳng đi tòan thể một hạng hành tinh.
The Doppler-method allows to detect an exoplanet by measuring periodical variations in radial velocity of the host star |
Nhóm Thụy Sĩ làm khám phá kể trên bằng cách sử dụng một kỷ
thuật căn cứ trên mặt đất do Geoff Marcy và nhà thiên văn học Gia Nã Đại Bruce Campbell khởi xướng thập niên 1980. Kỷ
thuật tên gọi là phương pháp Doppler đo
lường sức kéo trọng lực
hành tinh áp lực trên một vì sao, một hành tinh không thấy được trực
tiếp , vì bị mất đi dưới ánh lòe sáng
của vì sao. Các nhà thiên văn học có thể dùng Doppler để tìm thấy
những hành tinh lớn kích thước Sao Mộc, nhưng muốn tìm thấy những thế giới nhỏ hơn, họ cần
đến một kỷ thuật chính xác hơn, vì kỷ
thuật Doppler có khả năng giới hạn. Phi
thuyên Kepler sẽ được
trang bị một viễn vọng kính 56 ngón
Anh ( 1422.4 mm) tụ điểm ánh sáng vì sao
lờ mờ trên một dàn trải 42 CCD. Để so sánh Viễn vọng kính không gian Hubble, phóng lên 6 năm trước chỉ có 4 máy
dò. Nhưng kỳ này NASA vẫn gạt bỏ dự án
Borucki đề nghị, cho rằng phần cứng và
phần mềm khó lòng theo dấu cùng một
lúc hàng ngàn vì sao. Borucki trở lại la bô, lần này xây dựng một
đài quan sát mini : dài 2 bộ Anh ( 0.6m ) rộng 8 ngón Anh ( 203mm ) có một dàn trải CCD. cặp thêm một phần mềm để giảm bớt tiếng sắp xếp ồn ào bên sau vì
sao, và có thể đo lường biến đổi ánh sáng
xuống chỉ còn là 20 phần triệu, khiến viễn vọng kính đủ nhạy cảm để dò ra một hành tinh kích thước
Trái Đất quanh một vì sao tương tự mặt
trời ở một quỹ đạo lớn như quỹ đạo Trái
Đất. Kèm theo một đề nghị mới năm 1998, nhưng NASA vẫn nghi ngờ hiệu quả
viễn vọng kính mới nên gạt bỏ.
Hầu thõa mãn nhũng chống
đối dự án, nhóm Borucki tổ chức một trình diễn
chứng minh là Kepler có thể kiểm soát đủ các rung động và nhiệt độ khắc nghiệt ở không gian Và năm 2000, Borucki lại làm đề nghị mới. Lần này NASA
chấp thuận. Năm 2001, NASA cấp cho nhóm Kepler 299 triệu đô la , nhắm
phóng phi thuyền lên khoảng năm
2006. Hầu biến cái nhìn xa của nhóm Borucki
thành một phi thuyền họat động thật sự,
dự án giao cho Trung tâm không
gian Ball Aeropace ở Boulder , bang Colorado thực hiện. Có rất nhiều trở ngại phải vượt qua, tỉ như các máy dò CCD. Sử dụng CCD bay trên không
gian đã có từ thập niên 1990, nhưng ý kiến
dùng một bó CCD ráp nhau thật rất
khó khăn. Phải cần đến hơn 2000 kỷ sư và cán sự ở Trung tâm Ball làm việc
hơn một triệu giờ trên hơn 5 năm,
mới làm xong một phi thuyền cân
nặng 2 320 cân anh ( 1053 Kg ), trang bị một máy chụp hình kỷ thuật số lớn quá cỡ, gồm 22 000 bộ phận và một viễn vọng kích 55 ngón Anh ( 195 mm ) lớn nhất
kể từ khi NASA phóng lên ngòai xa quỷ đạo Trái Đất. Dàn trải CCD dài
11 ngón Anh (2794 cm ) , cũng rộng 11 ngón Anh
và tòan thể máy chụp hình năm
trong một hộp 1.5 bộ khối, treo trên một khung graphit - epoxy ở giữa viễn vọng kính. Căn bản máy dò là một máy chụp hình -
camera 95- megapixel. Ngòai việc làm cứng rắn chúng để chịu đựng phóng xạ, CCD phải
được giữ rất nguội lạnh , ở nhiệt độ -1200 F (- 48 .9 độ C )
, để có thể dò ra những mức độ ánh sáng
rất thấp. Trong lúc đó, các máy điện tử kiểm sóat máy chụp hình đặt vài cm cách
các CCD, chỉ chạy ở nhiệt độ 225 độ F ấm hơn. Các ống aluminium thản nhiên dẫn nhiệt lượng
từ các bộ phận điện tử từ một máy
đến một máy tỏa nhiệt - radiator ráp trên bề mặt phi thuyền
Kepler .
Sau một vài trì hoãn
vì ngân qủi , cuối cùng NASA phóng
Kepler lên ngày 6 tháng 3 năm 2009, 17 năm sau đề nghị đầu tiên của
Borucki và 400 năm sau Johannes Kepler xuất bản
hai định luật đầu tiên về di
chuyễn hành tinh ở sách Tân Thiên Văn
Học - Astronomia Nova. Một hỏa tiễn
Delta II phóng Kepler lên một quỷ
đạo mặt trời- trung tâm, tương tự
quỷ đạo Trái Đất bay quanh, hòan
tòan theo đúng các định luật Kepler .
Vài hành tinh đáng chú ý
* Kepler -
10b , nhỏ nhất và đá cứng nhất
Khỏang ¾ hành
tinh khám phá ra ngòai xa
hệthống thái dương chúng ta là
nhừng thế giới khổng lồ , đầy khí.
Vài hành tinh này cư ngụ ở những khoảng cách - cách ly đứng đắn
từ các vì sao của chúng , hầu hổ
trợ nước thể lỏng, nhưng nhiệt độ thơm tho
không bảo đảm những điều kiện thú vị .
Tầng khí này đế tầng khí khác ,có thể tạo áp lực đủ mạnh mẽ để đập nát một xe vận tải
Brink như thể một ly- cốc giấy , và vì
không có đất lụvc địa , đất liền cho nên không chứa đựng nổi đời sống. Tháng giêng năm 2011, các nhà thiên văn Kwepler tuyên bố là đã khám phá ra hiển nhiên là lần
đầu tiên một hành tinh đá cứng ngòai hệ thống thái dương, Kepler -10b. Nó có
1.4 đường kính Trái Đất và là một hành tinh ngọai - exoplanet nhỏ nhất đo được . Tiếc thay, đá cứng không
đương nhiên bảo đảm là có thể ở - cư ngụ
được ! Nhiệt độ ban ngày ở Kepler-10b lên đến gần 3000 độ Farenheit . Tin tức tốt
đẹp là nhưng thành quả cuối cùng của
phi thuyền Kepler gồm 117 thí sinh
ở hay dưới kích thước Kepler -10b
và 23 thí sinh nhỏ hơn Trái Đất, ngụ ý mạnh mẽ là máy dò
săn tìm hành tinh sẽ một
ngày gần đây tìm thấy
những hành tinh ngọai nhỏ, đá
cứng có khí hậu dễ chịu hơn .
* NN Ser(ab)c&d , bền bĩ nhất
NN Serpentis |
Khỏang phân nữa
các vì sao trong vũ trụ liên kết theo trọng lực với một vì sao đồng hành - companion star . Sống
chung với nhiệt lượng và trọng lực
của hai mặt trời thất là khó
khăn cho các hành tinh, đặc biệt cho
cặp hành tinh khám phá ra năm 2010 bay
quỹ đạo hệ thống vì sao đôi -binary
star system NN Serpentis, còn gọi là
NN Ser ( ab). Các nhà thiên văn học tin rằng các hành tinh ngọai, tên là
NNSer(ab) c và d có thể còn sống sót một
sự cố đại hồng thủy cách đây nhiều triệu
năm, khi một trong các sao chủ nhân của
chúng phồng to lên 200 lần đường kính mặt trời , tạm thời bao quanh các
hành tinh. Hay có lẽ các hành tinh hình thành từ vật liệu vất đi trong sự giản
nở này, một lý thuyết có cơ lật
ngược hiểu biết qui ước của chúng ta là
hành tinh và vì sao hình thành chung cùng lúc.
* Kepler - 11, đông đúc nhất
Đến năm 2010, các nhà thiên văn học đã khám
phá ra 54 vì sao làm chủ nhiều hành tinh . Nhưng không có một
hệ thống hành tinh nào trông giống như
hệ thống chúng ta. Tháng 2 năm 2011,
các nhà khảo cứu tuyên bố khám phá một hệ thống hành tinh trông có vẽ
giống hơn. Đó là Kepler -11 . 6 hành
tinh bay quỹ đạo một vì sao kích thước
gần bằng mặt trời ; và tương tự hệ thống
thái dương chúng ta , các hành tinh bên ngòai xa là những khổng lồ đầy khí,
trong khi những hành tinh bên trong
tuồng như có vẽ dày đặc hơn . Thế nhưng có một vặn tréo đáng ngạc nhiên: 5 trong số 6 hành tinh gói trong những quỹ
đạo nhỏ hơn là Sao Thủy, lối đi của
chúng gần như hòan toàn thẳng hàng trê cùng một mặt phẳng. Các nhà thiên văn học
không biết giải thích cách nào tất cả
mọi hành tinh làm ra lọai dạng này mà
lại không đụng nát tan nhau.
* KOI 326.01, chọc ghẹo lớn nhất
Trong số 1235 thí sinh tuyên bố tháng hai năm 2011, KOI 326.01 thật sự nổi bật. Tuồng như có kích thước Trái Đất và hơi nóng hơn đôi chút ( 1400F - 600 C )
, nó có vẽ là hành tinh tương tự Trái Đất nhất khám phá từ trước đến
nay, mãi
cho đến một tháng sau, các nhà khoa học
khám phá ra một điều ít khích lệ hơn: một sai lầm trong dữ liệu
của họ. Chọc lỗ trên độ sáng chính xác vì sao của hành tinh, tiết lộ một hành tinh
lớn hơn và nóng hơn Trái Đất. Dù tin tức đáng thất vọng, nhưng cho thấy là nhặt ra những chữ ký bé tí xíu trong hàng ngàn tỉ bytes dữ liệu, thật rất là khó khăn. Thật tế, khỏang 10 %
mọi KOI ( Vật thể Kepler Đáng
chú ý - Kepler Object of Interest), thường có kết quả sai lầm dương, theo các nhà khoa
học sứ mệnh phi thuyền Kepler, trong khi những vật thể khác sẽ bị hạ chức tỉ như KOI 326.01 căn cứ trên những quan sát
tiếp theo. Còn về phần tin tức tốt đẹp,
các nhà khảo cứu Kepler đã tìm thấy 4 hành tinh tiềm thế kích thước Trái Đất,
với những nhiệt độ xài được.
* GJ 1214b, ẩm ướt nhất
GJ 1214 b rộng gần 3 lần hơn Trái Đất và
3000 F ( 149 0 C ) . Nhưng nó có thể có dời sống phong phú một món hàng
đáng giá nhất “ nước thể lỏng.
Quan sát theo viễn vọng kính của hành
tinh này, khi nó đi ngang qua trước mặt vì sao của nó, cho thấy GJ 1214b có thể bao phủ đại dương rộng và nóng hổi ,
nhưng lại duy trì thể lỏng vì áp
lực lớn ở bầu khí quyễn bên trên. GJ 1214 b
cũng giữ chức, nhờ bay qũy đạo gần nhất với vì sao của nó , nghĩa là
chỉ cách xa có 1.3 triệu dặm Anh , 1/70
khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trời. Dù
rằng vì sao GJ 1214 chỉ là một
sao lùn, đỏ, còi cọc, nó vẫn
trông lớn 17 lần hơn mặt trời chúng ta, ngó từ GJ1214 b .
* HD
80606b, quỹ đạo dở hơi nhất.
Ở hệ thống thái
dương chúng ta , mọi hành tinh, ngọai
trừ Sao Thủy, bay quanh mặt trời theo một quỹ đạo hòan tòan gần tròn vo. Thật
tế, các lý thuyết gia từ lâu tin tưởng là các qũy đạo hành
tinh phải có hình tròn. Thiên nhiên lại tin tưởng khác. Hay lấy thí dụ hành tinh bất thường HD 80606b , một khổng lồ đầy khí ở chòm
sao - constellation Ursa Major khám
phá năm 2001. Lối đi kéo dài ra quanh vì sao cha mẹ, làm nhớ lại quỹ đạo của
một sao chỗi - comet hơn là một
hành tinh kích thước Sao Mộc . HD 80606
b chao đảo trong khỏang 3 triêu dặm
Anh của vì sao của nó khi đến gần vì sao nhất và đạt
điểm xa nhất cách đó 81 triệu dặm Anh, sau đó 56 ngày Trái Đất. Năm 2009, các nhà thiên văn học báo cáo là nhiệt độ ở hành tinh này nhảy vọt
từ 1000 độ F lên đến 2200 độ F, chỉ trong 6 tiếng đồng hồ.
( chiếu theo tạp
chí Khám Phá - Discovery số tháng 5 năm 2011. Irvine , Ca Li , ngày 18 tháng 5 năm 2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét