Việt
Nam
áp dụng và thích ứng bao nhiêu phần về:
7 cách cứu sống
biển, đại dương ( Biển Đông, Biển Tây Việt Nam ) ?
G S Tôn
Thất Trình
Các đại dương đang bị rắc rối,
trử lượng cá mất hết 90 %. San hô chết hết một phần ba. Hàng trăm vết
biển chết lấm tấm khắp tòan cầu.
Tuy nhiên giữa các thực tế buồn thảm này, có nhiều lý do để hy vọng: những giải pháp lý lẽ thông thường, và những
thiết kế tham vọng có thể cứu sống đại dương, kèm theo cứu sống luôn cả nhân
lọai nữa đó.
1-
Hãy ngưng đổ thêm chất
độc hại vào đại dương.
Ô nhiễm gồm nhiều dạng, như hàng triệu ga lông ( 4 lít ) dầu chảy tràn
từ các xa lộ mỗi năm đến những nơi Đổ
rác Thái Bình Dương, đầy xoắn ốc khối lượng
lớn nổi bềnh bồng phế thải chất nhựa
dẻo- plastic. Nhưng ô nhiễm tai hại
nhất cho biển Hoa Kỳ là do chất đạm
- nitrogen và chất lân - phosphorus nguồn gốc phân bón hóa học và ống cống phế thải. Nặng nhất cho
bờ biển Việt Nam
là phế thải ống cống ra từ các sông Sài Gòn và sông Thị Vải…
Khi quá nhiều phế thải của hai
nguồn này xuôi dòng ra biển, thì nước bờ biển
bị tảo được bón qua nhiều tăng trưởng làm nghẹt cứng, rồi tảo chết và
phân hóa tiêu thụ hết oxygen - dưỡng khí trong nước và làm ngột thở mọi
đời sống động vật. Tiến trình này có tên là “dinh dưỡng quá độ -
eutrophication” đã làm chết
ngắt ít nhất là 405 “ vùng chết - dead zones” khắp thế
giới . Phế thải của người là nguồn đứng
hạng nhất thế giới ở các nước chậm tiến , đang mở mang. Nhưng ở Hoa Kỳ, Âu Châu
và Trung Quốc, phế thải động vật và phân bón là thủ phạm chánh. Mỗi năm, riêng
ở Hoa Kỳ, 10 tỉ gà nuôi, 60 triệu bò sửa và 149 triệu heo sản xuất ra 500 triệu tấn phân chuồng ,đa số phân chuồng được
rải bón đồng ruộng. Nông dân Hoa Kỳ rải
thêm 55 triệu tấn phân bón tổng hợp
trên hoa màu mình trồng trọt;
phần lớn các chất này chảy lại vào lưu
vực. Thành quả: vùng chết lớn nhất địa cầu trải rộng ra từ cửa sông Mississipi.
Mùa hè , khi chảy tràn nông nghiệp miền Trung Tây Hoa Kỳ đạt đỉnh cao nhất, vùng chết có thể lớn như
diện tích toàn thể bang New Jersey . May thay “ dinh dưỡng qúa độ” có thể đảo ngược chiều. Chẳng hạn, thập
niên 1980, Hắc Hải ( Black Sea , Mer Noire ) chứa đựng
vùng chết lớn nhất hành tinh.
Nhưng khi Nga Sô sụp đổ, nông dân
vùng này không còn mua được phân bón
tổng hợp nữa ; cho nên đến năm 1996,
vùng chết này đã hòan tòan biến mất.
Thành quả tương tự cũng có thể thực hiện mà không làm xã hội điêu tàn. Làm sạch nước cải thiện, và giới hạn, ngăn cấm lớn hơn về xử lý phân
chuồng là một biện pháp giúp đở được điều này. Nhưng biện pháp tốt nhất là đơn giản lọai bỏ cày xới đất . Trong hơn hai thập kỷ rưỡi vừa qua, nông
dân Hoa Kỳ đã áp dụng các phương pháp “ không cày cuốc - no till” trên 36 % đất đai trồng hoa màu. Họ đã để gốc
rạ và cơ cấu rễ của mùa trước tại chỗ , gieo trồng hột giống mới dùng máy gieo cận đại - modern seed drills và đặt phân bón ngay gần mặt đất nhờ bộ phận tiêm phân -
injectors . Làm như vậy họ giảm mất phân lân chảy tràn đi khỏang 40%, mất phân đạm nitrogen bốc lên không khí chừng
phân nữa và bớt tổng số xói mòn gần 98 % , mà vẫn giữ nguyên vẹn năng xuất và
chỉ sử dụng phân nữa năng lượng.
Thế nhưng theo
David R. Montgomery, tách giả sách : “ Đồ bẩn: Xói mòn các Văn minh - Dirt : The Erosion of
Civilizations” , hiện nay chỉ có 5%
đất nông trang thế giới họat động theo phương
pháp không cày cuốc - no till methods.
Những gì xảy ra trên 95% đất nông trang còn lại, sẽ làm hình dạng tiến trình văn minh đó ?
2- Hãy đánh thêm giá cả trên
Carbon
Trong hai thế kỹ qua, theo một bước tiến chưa hề thấy ở ghi chép địa chất, hóa học các đại dương đã thay đổi. Mức pH
đại dương trụt từ 8.2 năm 1885 xuống mức acid hơn là 8.0 vào năm 1985; đến năm 2085, con số có thể
chỉ còn 7.8. Nước biển trở nên 30 % acid hơn. Nước chưa làm cháy da người, nhưng đã bắt đầu hòa tan vỏ và bộ xương
ngòai - exoskeletons của nhiều sinh vật biển, có ảnh hưởng tiềm thế gây tai
họa cho tòan thể hệ thống sinh học biển.
Chẳng hạn , những năm gần đây, vỏ
các động vật chân cánh - pteropods , những con sên biển biết bơi -
swimming sea snails , làm neo cho dây
chuyền thực phẩm đại dương, đã khởi sự
trở nên mỏng thín hơn. Trong nước biển acid hơn tương lai gần, những thí nghiệm
trong thùng cho thấy vỏ chúng sẽ bắt đầu
biến mất hẳn đi, khiến chúng cuộn ở bờ rìa như thể trên bờ rìa đèn sáp nóng chảy. Trong khi đó,
ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương nước biển acid hơn, đã làm cho các trứng sò hàu
hư hết . Và nếu đại dương tiếp tục
acid hóa, những trại nuôi cá và hệ thống sinh học, gồm luôn cả các rạng
san hô đã bị căng thẳng, cũng sẽ kế tiếp mất đi .
Nguyên nhân hiện tượng acid hóa đã biết rỏ. Kể từ
khi bắt đầu thời đại công nghệ , các đại dương đã hấp thu hơn một phần tư CO2 chúng ta thải vào khí quyễn. Từ bấy lâu nay, chúng ta vẫn tưởng hấp thu này là điều tốt đẹpvì nó là một thắng
kềm hảm hiện tượng hâm nóng địa cầu. Nhưng giá thắng đã trở nên quá cao ! Khi
CO2 trộn lẫn nước biển, nó
làm ra acid carbonic. Trước đây, lần đại
dương bị acid hóa quá độ như thế xảy đã ra cách đây 65 triệu năm, là thành
quả của họat động hỏa diệm sơn ( núi lữa )và gây ra tuyệt tích rộng lớn .
Ngay lúc đó , những loài sống sót cần
hàng thế kỷ để thích nghi, cần nhiều thời gian hơn là các lòai đang sinh sống ở đại dương hiện nay
sẽ có được, nếu không làm điều gì hết .
Không có giải pháp nào dễ dải cả
thảy đâu nhé. Các kỷ sư địa chất đã đề nghị đổ xuống biển 300 tỉ bộ khối- cubic feet đá vôi, một nồng
độ khổng lồ địa chất Alkaseltzer, Ngay
cả khi để ra ngòai những thắc mắc biến chứng không cố ý, tổn phí tính theo đô
la và phát thải để sản xuất đủ thuốc
giải độc kiềm, cũng qúa
cao khó làm và lợi ích cũng chỉ là tạm thời thôi. Tốt nhất có lẽ cũng là chửa trị duy nhất (?) là giảm bớt sản xuất CO2 . Vấn
đề ngăn cấm thực thi , tuy nhiên một phần là do trợ cấp của bộ luật thuế khóa Hoa Kỳ gây ra, sự đốt chảy
bẩn thỉu các nhiên liệu hóa thạch đã trở thành rẽ tiền hơn là những thay thế sạch hơn, một “ tiết kiệm” đã không tính
rỏ phí tổn môi sinh gây ra vì
carbon ô nhiễm.
Cách nào tính tóan giá cả thật sự đây
? Theo Hauke kite- Powel, một nhà khảo cứu ở Viện
Đại dương học bang Massachusetts , thì một
thuế carbon là biện pháp hay nhất. Một ước tính, đặt ra một thuế carbon 12.50 đô la Mỹ cho một tấn CO2, sẽ giảm phát thải 30 % , gạt ra ngòai chừng 214 triệu tấn ô nhiễm khỏi đại dương
. Như vậy sẽ không làm ngưng hẳn hiện tượng acid hóa,
nhưng sẽ giúp đại dương ( và chúng ta ) có thêm thời giờ tìm cách cứu sống mình
.
3- Sửa chửa chu trình nước.
Khi
khí quyễn nóng lên, chu trình nước, một tiến trình làm nước biển bốc hơi, rồi
theo mưa rơi xuống, rồi lại bốc hơi, sẽ
tăng cường thêm. Khắp mọi nơi, mặt phẳng đại dương sẽ trở nên mặn hơn. Hơi nước bốc hơi thêm sẽ mưa rơi xuống không theo tỉ phân , không
đồng đều ở những vùng như nhiệt đới -
tropics hay Scandinavia
( Thụy Điển , Na Uy… ) đem theo giông tố mạnh mẽ hơn và lụt lội thường xuyên hơn . Trong lúc đó,
những vùng như phía Bắc hay phía Nam nhiệt đới, đã có khuynh hướng
mặn hơn những vùng khác, trở nên mặn hơn
và ấm hơn. Ở những vùng mặn nhất , những
vùng “ sa mạc - desert” hiện hửu lại
càng mặn thêm lên, bất cứ đời sống nào cũng không còn tăng trưởng được nữa. “Sa
mạc” đại dương đã tăng thêm từ
17 triệu dặm Anh vuông( 44 .3 triệu km 2 ) năm 1998 lên gần 20 triệu ( 51.8 triệu km2
) năm 2007 .
Hiện nay các nhà khoa học không có nhiều khả năng chuyễn ngược việc tăng cường chu trình nước cũng như không kiểm sóat được mọi khía cạnh khác của thời
tiết . Thế nhưng một kỷ thuật tên gọi
là Chuyễn đổi Năng lượng Nhiệt đại dương - Ocean Thermal Energy Conversion viết tắt là OTEC, có cơ phụ giúp. Vào
thập niên 1970, các kỷ sư bắt đầu dùng những bục dàn khoan để đem nước biển sâu lạnh cóng lên mặt nước ấm áp ; với ý kiến
là là sự khác biệt nhiệt độ sẽ làm chạy
một động cơ nhiệt lượng, tạo ra năng lượng . Sử
dụng kích thước đại trà , OTEC có
thể có biến chứng lành mạnh là làm hạ nhiệt độ bao quanh mặt biển và
đó sẽ là một điều tốt đẹp . Theo Ray Schmitt, một nhà đại dương học ở Wood Hole, nếu chúng ta hạ được nhiệt độ theo mùa mặt nước
biển, thì chúng ta ó thể chờ đợi
là chu trình nước sẽ ít tăng cường
hơn. Làn sóng đầu tiên của khảo cứu
OTEC đã chết ngõm, khi nhà máy trình diễn cuối cùng đóng cửa năm
1998, nhưng nay OTEC đang tái sinh. Từ
năm 2009, Hải quân Hoa Kỳ đã trả cho
hảng Lockheed Martin 12.5 triệu đô la, hầu phát triễn một nhà máy OTEC thương mãi gần Hạ Uy Di; và một quần hợp quốc tế đang cứu xét
xây dựng một nhà máy thứ hai ở
Tahiti.
Ở những vùng nước biển mặn nhất, lấy nước từ dưới sâu có thể làm ra những ốc
đảo giàu có đời sống. Năm 2002, các nhà
khảo cứu ở viện đại học Tohoku, Nhật bổn đã khởi sự thử nghiệm
“ một phông ten muối trường cửu - perpetual salt fountain” , một
ống mỏng chuyên chở nước ít mặn, từ dưới sâu lên mặt nước biển mặn chát hơn. Nước lạnh chảy vào đáy ống, ấm hẳn lên
rồi lên cao. Nhưng khi ước ấm lên,
nước vẫn còn tương đối tươi mát, giàu
dưỡng liệu, kích thích tăng trưởng chlorophyll và phiêu sinh thực
vật- phytoplankton. Trong dự án của
họ, các nhà khảo cứu Nhật đã dàn trải
một ống PVC, nổi bồng bềnh, trang bị GPS,
dài 984 bộ ( 295.2 m ) ở vùng Hố sâu
Mariana Trench Thái Bình Dương và
các kết quả đầu tiên rất hứng khởi. “ Ngay ngòai ống, nồng lượng chlorophyll thật là to lớn” , theo lời Shigenao Maruyama,
gíám đốc nhóm khảo cứu “ khỏang 100 lần
lớn hơn vùng biển xung quanh” .
Giống như OTEC, phông ten muối sẽ chỉ là
một biện pháp tạm thời, lấp lỗ trống, một phương cách chửa trị một triệu
chứng của hiện tượng hâm nóng địa cầu - global warming, hơn là một giải pháp giải quyết vấn đề nguyên tắc cơ sở. Maruyama rất lạc quan về tiềm thế phông ten
muối, để sửa chửa tai hại kích thước địa
phương. Các thí nghiệm sẽ tiếp tục năm 2012, với một phông ten muối mới ở giữa
biển đại dương.
4- Hãy bẻ cong những lòai xâm
chiếm.
Cách đây
50 năm, nếu bạn kéo lên một dây
buộc neo, từ nước vùng vịnh Cape Cod ,
Đông Bắc Hoa Kỳ, dây trồi lên bao phủ đầy sò trai- mussels nhuyễn
thể hai mảnh, động vật chân tơ- barnacles và rong tảo - algae . Ngày nay những
dây này sẽ bao phủ đầy động vật không xương sống nhờn nhờn tên gọi là
lòai có áo -vỏ - tunicates , một trong vài 4000 lòai
thủy sinh xâm chiếm ( lăng ) khắp thế giới.
Thương mãi làm lan tràn chúng, tỉ như các lòai xâm chiếm đa dạng như
lòai có áo- võ ở Đông Bắc Hoa Kỳ, cá sư tử - lionfish ở miền
Đông Nam và rừng sác ( rừng đước ,sú , vẹt… ) - mangroves ở Hạ Uy Di…, đang cạnh tranh cùng các lòai địa phương dành
nhau tài nguyên, tấn công
các sinh vật địa phương , và tái cấu tạo
sinh thái .
Lòai có áo - vỏ là một thí dụ sống động
cách nào một lòai xâm chiếm có thể làm
môi sinh tan hoang. Ít nhất là một lòai đã lạc vào
New England thập niên 1970, có thể do một tàu chuyên chở Nhật đem lại, theo lời Mary
Carman, một nhà khảo cứu ở Woods Hole. Vài động vật có áo- vỏ - tunicates đã xâm chiếm các thảm rong
tóc tiên - eelgrass , đẩy ra khỏi vịnh sò điệp - scallop, nguồn lợi tức chánh
của ngư dân địa phương. Cố gắng hầu lọai bỏ
lòai có áo -vỏ với cây cối lùm bụi và các nhúng tẩy sạch , không mấy
hiệu quả. Một nhúm nhỏ xíu sót lại có
thể nở bùng dậy mau lẹ thành một khối quần
thể lớn lao. Carman nói: tính đàn hồi và dẽo dai của chúng thật đáng
kinh ngạc.
Một cách tổng quát, nhà sinh thái học James Carlton đại học
William xem các xâm chiếm như thể kem
đánh răng lòi ra khỏi ống , có nghĩa là không còn nhét vào lại được nữa. Ngay cả ở những ca hiếm hoi dò ra sớm sủa, lấy chúng đi cũng là một thách thức lớn . Năm 2000, một
thợ lặn nhìn thấy một rong biển -
seaweed mới đổ thải vào một đầm phá - lagoon quận San Diego . Phải mất 6 năm trời
và 7 triệu đô la mới lấy ra hết rong.
Cách thức hay nhất để giảm các lòai xâm
chiếm là ngăn ngừa chúng đến, ngăn nước làm
bì, đồ dằn - ballast water của gần 100 000 tàu thương mãi đến Hoa Kỳ mỗi
năm. Cơ Quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ - EPA và và Quân Tuần tra Bờ biển - Coast
Guards đang soan thảo những điều hòa nước đồ dằn
này, đặt ra những mức mà sinh vật
chịu đựng được ở nước làm đồ dằn. Trong
khi đó, nhiều tá công ty đang phát triễn những kỷ thuật thõa mãn đủ những tiêu
chuẩn này, kể cả cách lọc và dùng phóng
xạ tia cực tím computer hóa. Đối với các lòai xâm chiếm đã định cư, hy vọng tốt nhất để kiểm sóat số lượng chúng là xực - ăn chúng
đi. Năm 2009, Cơ quan Quốc gia( Hoa
Kỳ ) Đại dương và Khí quyễn- NOAA, tung
ra một chương trình kích thích ngư dân, các đầu bếp và thực khách
tiêu thụ ngon lành lòai cá sư tử .
5- Cứu sống những rạng san
hô
20
năm qua, gần 1/3 san hô thế giới đã bị phá tan tành. Chừng 90% rạng - reefs
san hô ngòai khơi bờ biển Tích Lan-Sri Lanka, Tanzania, Kenya, Maldives và Seychelles
đang bị hiểm nguy. Nếu nhiệt độ tăng thêm 70 F ( 3.9 0 C
) trong 3 thập niên tới như tiên đóan thì 95% Rạng
San hô Rào cản Lớn - Great Barrier Reef
, ngòai khơi bờ biển Úc Châu sẽ biến mất .
Nguyên nhân cơ bản của việc chết
mất dần này là việc tẩy sạch - bleaching san hô. Khi nhiệt độ gia tăng, các vi khuẩn biển phong phú thêm và tấn công các rong tảo sống cọng sinh trong
mỗi polyp cá nhân san hô. Rong tảo quang tổng hợp ánh sáng mặt trời
thành năng lượng ( dưới thể những chất đường - sugars ) cho các chủ nhân
và tô điểm màu sắc cho san hô. Khi rong tảo chết, cái gì còn lại là màu trắng
như ma trơi.
Vài san hô Hồng Hải - Red Sea và ở Vịnh Ba Tư đã thóat khỏi
số mệnh này, dù chưa ai biết lý do tại sao. Eugene Rosenberg, nhà vi trùng học viện đại học Tel Aviv đã đề nghị
là sự hiện diện nhiều dạng vi
khuẩn khác nhau tạo ra khác biệt này . Ông nói : san hô có hàng ngàn lòai vi khuẩn sống chung, như trên con
người vậy đó. Những vi khuẩn này có thể
giúp san hô thích nghi với thay đổi môi trường .
Chẳng hạn, khi nhiệt độ nước lên đến 77 0 F ( 25 0C
) ở Hồng Hải, một lòai vi khuẩn không cư ngụ
biển này tên gọi là Vibrio
caralliilyticus tấn công rong tảo ở vài lọai san hô. Thế nhưng những nhiệt
độ tăng lên như vậy, cũng kích động vài
lòai vi khuẩn khác của san hô bảo vệ
rong tảo: có cơ giải thích tại sao vài lọai san hô lại không dễ bị tẩy sạch,
ngay cả ở nhiệt độ cao. Nay thì chính Rosenberg và các đồng nghiệp cũng đang khảo
sát cách nào tăng cường mọi phòng vệ thiên nhiên của san hô. Một chiến thuật liên quan đến thả lởng
các phagờ vi khuẩn - bacteriophages , nghĩa là các vi khuẩn tấn
công virus trên V. coraliilyticus . Ở
những thí nghiệm la bô mới đây, phagờ mau lẹ
phá hủy các vi khuẩn tẩy
sạch và tồn tại trên san hô 2 tháng trời , ngăn chặn tấn công mới.
Mùa hè 2011, trên vài phần Rạng Rào cản Lớn
và rạng Eilath Reef Hồng Hải nơi lấm tấm nhiều nhóm san hô bị tẩy sạch, Rosenberg sẽ
thử nghiệm phép chửa trị bằng phagờ . Ông sẽ phủ quanh các san hô bị bịnh bằng các san hô lành mạnh và trong một lọai san hô ông sẽ đưa vào một
phagờ. Nếu mọi sự xảy ra y hệt ở la bô, pha gờ sẽ dính chặc vào V. corallilyticus . Khi vi khuẩn tấn
công đến được lớp nhờn- mucus
giàu dinh dưỡng của san hô lành mạnh,
phagờ sẽ tăng trưởng 100 lần hơn và tràn
ngập vật chủ. Rosenberg tiên đóan các mẩu kiểm sóat không có phagờ cũng sẽ bị tẩy sạch trong vòng một hay hai tuần lễ .
Nếu
Rosenberg đạt kết qủa tốt, bước
tiến lô gic kế tiếp là ứng dụng
kích thước lớn hơn. Rosenberg cho biết với hơn 52 lít (13 ga lông
) chất lỏng trộn theo nồng lượng là 4 triệu phagờ trong 4 lít ( một ga lông ) ,
ông có thể chửa trị 30 dặm Anh ( 48.3km
) san hô. Ứng dụng cần một chiếc tàu
hay một phi cơ.
6- Đánh cá khôn ngoan hơn
Năm
2010, mỗi người trên thế giới tiêu thụ
trung bình 37. 5 cân Anh ( 17 kg
). Trong lúc đó sĩ số cá tuyết to đầu
- cod và cá ngừ vi xanh - blue
fin tuna suy sập và các động
vật từ cá voi - whale đến rùa
đã được ghi thêm vào sách
lòai vật có nguy cơ tuyệt tích -
Endangered Species. Thèm ăn ngấu nghiến ngon lành không chỉ là
vấn đề duy nhất. Ngư phủ đánh bắt nhiều lòai không cố ý trong
cái mà Tim Warner , giám đốc Bể
nuôi - Aquarium vùng New
England Chương trình Công nghệ Bảo tồn Biển - Marine Conservation
Engineering Program , gọi là “tai hại phụ thêm - collateral
damage” của bắt cá ngẫu nhiên -
bycatch ở ngành đánh cá thương mãi. Bắt cá ngẩu nhiên gom vào lưới nào là san hô, bọt biển, sao biển, cá mập ,
cá voi , rùa biển, ngay cả chim nữa.
Warner nói: đây là một
de dọa tức khắc, đa dạng nhiều diện mà biển phải đối đầu. Điều này dẫn đến giả thiết tuyệt tích cá heo - dolphin
sông Dương Tử ,gần như xóa bỏ hẳn cá heo vaquilla porpose Vịnh Ca Li ( chỉ còn sống sót 200 con này
thôi ),và cũng đe dọa sống còn của cá voi hòan tòan Bắc Mỹ - North
American right whale ( chỉ còn 400 con ) và
chim hải âu đuôi ngắn - short tail
albatross . Một báo cáo Liên hiệp Quốc ước lượng bắt cá ngẩu nhiên là 7.5 triệu tấn một năm hay chừng 5 % tổng số đánh cá thương mãi. Vì lẽ các bá cáo
đều do ngư phủ bá cáo , ước lượng kém
thực tế rất nhiều . Một thống kê tốt đẹp
hơn, theo ông là từ ngành đánh tôm
Vịnh Mễ tây Cơ, vài nơi vớt lên 5 cân Anh bắt cá ngẩu nhiên cho mỗi
cân Anh tôm bắt được.
Tin tức tốt đẹp là so với vấn đề
nan giải hơn là lạm thác đánh
bắt hải sản , những
giải pháp kỷ thuật giảm bớt bắt cá ngẩu nhiên lại được khảo cứu rất nhiều.
Chẳng hạn , các công ty đánh bắt tôm đã
bắt đầu sử dụng “ những linh kiện bỏ rùa ra ngoài - turtle excluding devices”
, những lưới sàng lọc quặng - grates trước lứơi vét ( lưới rê )-
trawl net cho tôm chui vào, nhưng
gạt rùa ra. Ngư phủ dùng những lưới chăng - gillnets dài dưới
mặt nước biển, đã bắt đầu
trang bị những lứới này với các linh kiện bay vèo - pingers âm thanh chạy bằng bình điện làm cá heo - porpoises xa lánh đi . Ở những ca tốt nhất, linh kiện bay vèo đã giảm bớt mỗi lưới chăng từ 20 con ca heo bị giết xuống chỉ còn một con. Phó giáo sư
Stephen Kajura, đại học Atlantic Florida, đang cố gắng
bảo vệ cá mập bằng cách thêm
các yếu tố đất hiếm vào các dòng lưỡi câu dùng bắt cá ngừ . Các kim lọai này phản ứng với nước biển làm ra một
trường điện từ - electromagnetic field đẩy cá mập cũng như
cá đuối - skates và cá rái
- ray ra xa. ( khác với Hoa Kỳ, nơi dân da trắng Ca li đang khuyến khích
đừng ăn xúp vi cá mập, món ăn ngon của
dân Hoa, và không ăn thịt cá mập , nhưng dân Ý cho bíp tết thịt cá mập rất
ngon: Bình Thuận là tỉnh đánh cá mập, xuất cảng thịt và vi cá này đáng kể hiện nay .
FAO ước lượng mỗi năm trên thế giới tiêu thụ 7 triệu cá mập ).
Những
giải pháp hửu hiệu nhất sẽ là những giải pháp rẽ tiền và dễ
thi hành. Jeffrey Fasick phó giáo sư Viện đại học Kean , đang nghiên
cứu viễn cảnh cá voi Bắc Đại Tây Dương - North Atlantic right
whale trong một cố gắng phát triễn những dây thừng màu sặc sở
mà các động vật thấy được và tránh xa. Tuy nhiên ,lề lối
chỉnh đốn tính túy rẽ và dễ có thể là “ móc câu yếu - weak hook”, móc câu mỏng hơn uốn cong
theo cân lượng động vật ( cá ngừ
vi xanh , cá mập , cá voi ) lớn hơn cho
lọai móc câu dùng câu cá ngừ vi vàng - yellow fin là lọai cá ngừ Biển
Đông Biển Tây nước nhà. Thí nghiệm ở
biển, móc câu yếu , giảm bớt 56% bắt cá ngẩu nhiên - bycatch đánh
bắt cá ngừ vi xanh , đang bị hiểm nguy tuyệt tích, thành quả đủ đáng kể để Cơ
quan NOAA ra mệnh lệnh một ngày gần đây là phải dùng móc câu yếu ở vùng cá ngừ vi xanh .
7 - Tăng
gia hiểu biết của chúng ta
Những
gì chúng ta hiểu biết thật sự rất ít ỏi.
Chúng ta chưa biết cách nào
nhiệt độ thay đổi vùng giữa bề sâu nước
biển : các máy dò vệ tinh nhìn xuống sâu
ít hơn 2.1 m ( 7 bộ Anh ) từ mặt biển .
Chúng ta không biết hình thể :
các đồ bản chúng ta chỉ bao gồm có 10 % phần sàn đáy biển . Chúng ta cũng
không biết ai sinh sống ở đó. Các nhà khoa học hòan tất
Kiểm tra Đầu tiên Đời sống Biển, một sáng kiến khảo cứu quốc tế, năm 2010
đã cho tài liệu của 190 000 lòai, nhưng hầu như không biết gì hết đến
hơn cả triệu lòai khác sinh sống ở đáy biển .
Thế
cho nên chúng ta tuồng như lạc đường khi
ở biển. Một nhóm nhà khoa học viện đại học
UC Berkeley, chẳng hạn, tuyên bố là một vi
trùng chưa biết trước đây , nhai
gặm dầu lữa - petroleum munching đã , một
cách ngạc nhiên, làm biến mất chùm
dầu - oil plume dài 35.4 km ( 22 dặm
Anh ) ở tai họa Deepwater
Horizon Vịnh Mexico năm 2010.
Nhưng vài người khác biện cứ là chùm dầu không biến mất, mà chỉ vì chúng ta không biết hòan tòan đủ hết, cách nào nó đã biến mất. Theo Larry
Mayer, chủ tịch Ủy Ban nghiên cứu sinh thái vùng Vịnh này sau sự cố phun chảy dầu, Viện Hàn Lâm Khoa
học Hoa Kỳ, “thật sự điều không biết là các sự phụ thuộc lẫn nhau-
interdependencies , những liên kết tuyệt đối phức tạp. Khi bạn khởi sự đặt câu hỏi về ảnh hưởng của dầu ở mức lưng chừng giữa bề
sâu nước biển, trên khu sinh vật - biota biển sâu hay cách nào
chúng đổ thác vào khí quyễn, hay
cách nào chúng ảnh hưởng đến nghêu sò hay sò điệp, những liên kết như thế không
một ai thực sự biết cả”.
Giora Proskurowski, một nhà đại dương học viện đại
học Washington ,
nói rằng kích thước của đại dương chính là vấn đề. Nước mặn
bao phủ 72% hành tinh, chiếm 139
triệu dặm Anh vuông ( 223.7 triệu Km2 ) . Nhưng không phải chỉ riêng
diện tích mà là luôn cả bề sâu nữa. Và theo thời gian chúng rất năng động. Động cơ các tàu khảo cứu cần 5- 10 ngày, mỗi ngày tổn phí 25 000 đô la
Mỹ, để đi đến giữa đại dương. Ở biển sâu , tạo ra một hình dạng độ mặn và nhiệt độ có nghĩa là đậu tại chổ
hơn 4 tiếng đồng hồ tháo ra và cuộn lại
10 000 bộ Anh ( 3000 m ) dây dợ .
Lấy mẩu trên tàu phải làm từng miếng một,
những điểm duy nhất trong không gian cùng những điểm duy nhất theo thời gian
. Dù cho các nhà khoa học nay đang
cố thúc đẩy một phương pháp tòan diện
hơn: thâu thập dữ liệu liên tục. Proskurowski, Mayer và hàng trăm người khác,
đang họat động Ở Sáng kiến Đài quan
sát Đại Dương- OOI tốn 760 triệu đô
la Mỹ của Cơ quan Khoa học Hoa Kỳ, sẽ kéo dây trên Thái Bình Dương và Đại Tây Dương với một mạng
cáp dữ liệu và điện . Mạng
sẽ gửi
200 kilowatts để có điện điều khiển từ xa, chạy các xe đang họat động và 49 lọai máy dò - sensors và đưa dòng dữ liệu về những đường
dây sợi quang học. Trung Quốc, Nam Hàn ( Hàn Quốc ) và nhiều quốc gia Âu Châu đang đeo đuổi
những “Đài Quan Sát Cáp” tương tự , mở màn cho một mạng chung của nhiều mạng. Trong khi đó,
Ronald O’Dor , nhà khoa học chánh
cho Kiểm tra Đời sống Biển đang cố dàn
trải Mạng Theo dấu Đại Dương - Ocean Tracking Network - OTN , trị giá
170 triệu đô la, một quần hợp theo dấu
cá hồi, cá mập, hải cẩu ( chó
biển ), và các động vật biển khác với
các thẻ âm thanh- acoustic tags ,
đặt nằm những đường nhận nghe tại mỗi
bán cầu, một lọai “ hệ thống điện thọai”
cho các đại dương.
Như vậy đem tới cho chúng ta một phương cách
khác cứu sống biển : tiền bạc . Ngân
sách thám hiểm của NASA là 900 lần
hơn ngân sách các cơ quan NOAA.
Ngân sách xây dựng của OOI là 387
triệu đô la, 1/17 ngân sách của Viễn
Vọng kính Không gian James Webb, thay
thế cho Viễn vọng kính Hubble, tổn phí
6.5 tỉ đô la. O’Dor đang cố gắng tìm thêm ngân khoản và tuyển dụng các nhà khoa học cho hệ thống
điện thọai đại dương của OTN, sử dụng
các đường dây trong đất liền ở văn phòng
ông tại Hoa Thịnh Đốn. Ông cho biết ông
điều khiển dự án tòan cầu này ,nhưng đến bây giờ, ông vẫn chưa có ngân sách di chuyễn .
(
Chiếu theo Popular Science số tháng 5 ,
2011 )
(Irvine , Ca li ngày 7 tháng 5 năm 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét