Tản mạn - 6 tiến bộ khoa học kỹ thuật
( G S
Tôn Thất Trình )
I- Xây dựng một bẩy sập chỉ bẩy một nguyên tử
Mikkel Andersen,
một nhà vật lý học Viện đại học 0tago
ở xứ Tân Tây Lan, nói : chúng tôi
đã tạo ra một phương pháp kiểm
sóat các nguyên tử - atoms và đưa
chúng đến nơi chúng ta mong muốn và lúc
chúng ta cần chúng . Các nguyên tử rất ư mau lẹ ; cho nên chúng tôi dùng nhưng
lasers làm nguôi lạnh rất
mạnh để làm chúng chậm hẳn đi . ( xem 1
ở hình kèm ) Các lasers đặt trên bàn
trôi nổi trên những nệm lót không khí, ở một phòng không có cửa sổ, nên chúng tôi không làm tổn thương gì cho công chúng ngòai đường cả. Chúng tôi cần
các luồng lasers đến từ tứ phía - mọi nơi ; cho nên có một lực trên nguyên tử đối mặt chiều nguyên tử chuyễn
dịch , không kể gì đến chiều nó đang di
chuyễn. Như thể cơn mê hỏang của một người đi xe đạp vậy đó: hướng nào bạn
đi, chiều gió thổi chống lại bạn. Vì chưng một nguyên tử bé tí xíu , ánh sáng có thể làm nó di chuyễn theo tốc độ
âm thanh để hòan tòan ngừng lại khỏang nữa mét( 1.6 bộ Anh ). Đây là giảm tốc -
decelerarationlớn hơn cả một máy bay phản lực bay đụng nhằm một bức tường bê
tông. Rồi chúng tôi quay qua các nhíp quang học - optical tweezers
( xem 2 ở hinh kèm ) , một laser tụ
đirểm cực kỳ, để tạo ra một trường điện mạnh mẽ - strong electric field ,
kéo những electron ở các nguyên tử theo một chiều và hạt nhân nguyên tử theo chiều đối nghịch,
hút dẫn nguyên tử tới vùng
cường độ cao của luồng . Sau đó ,
chúng tôi dùng một laser khác để cảm ứng
đụng chạm và làm cho các nguyên
tử xua đuổi nhau khỏi bẩy sập . ( xem 3
ở hình kèm ). Bạn luôn luôn kết thúc bằng chỉ còn một nguyên
tử thôi . Các nhà khoa học chỉ tin rằng các nguyên tử hiện diện , mới cách
đây 100 năm. Nay chúng tôi đã để cho bất
cứ ai viếng thăm la bô, tự mình bẩy sập nguyên tử cho mình và in ra hình ảnh, nếu họ muốn in.
II- Tóan
làm sạch ao hồ “ poo-gloos”
Ở hình đính kèm , những
vòm “poo-gloos” bình thường nằm dưới đáy một ao hồ nước thải đang chờ đợi phiên mình đặt đưới
đáy . Các vi khuẩn sống trong vòm phá hủy
các chất ô nhiễm thành những hợp chất
tỉ như CO2 - carbon dioxide. Các chất làm thóang khí - aerators bên trong vòm sẽ để oxygen
chảy tới các vi trùng .
Vòm là những lồng plastic - nhựa dẻo cung cấp một giải pháp làm
sạch nước thải - sewage rẽ tiền
căn bản là vi khuẩn. Khỏang 7000 cộng
đồng nông thôn ở Hoa Kỳ giải quyết nạn chất thải
theo phương thức cỗ truyền : bằng
cách tống khứ chúng vào vào một ao,
hồ mở toang và để cho ánh sáng mặt trời và vi khuẩn tiếp tục làm phận sự . Các
ao, hồ không những hôi thối mà
còn làm cho vi khuẩn mất nhiều thì giờ
làm cho nước thải không nguy hiểm nữa , một tình trạng có nguy hiểm làm ô nhiễm
các dòng sông ngòi , kênh rạch
. Những nhà máy chửa trị làm sạch là giải pháp thông thường nhất, nhưng tốn
chừng 2 triệu đô la Mỹ một nhà máy , theo
Kraig Johson, kỷ sư trưởng Hệ
thống Thích nghi cho Nước thải căn cứ
tại thành phố Salt Lake City. Johnson khảo cứu về những giải pháp sinh học cho việc làm sạch chửa trị chất thải, Viện
đại học Utah .
Thử nghiệp một kiểu đầu tiên một giải pháp đơn giản và rẽ tiền : đó là các
Vòm Sinh học - BioDomes vhứa đựng
những vi khuẩn - bacteria làm tan
vỡ những chất ô nhiễm ở chất thải mà chỉ tốn 200 000 đô la. Cho đến nay
200 “Vòm Sinh Học” ( tên gọi
thân mật là “ Poo-gloo, Cầu tiêu vòm” đang làm sạch chất thải
ở 6 bang Hoa Kỳ, gồm luôn cả Alabama
và Nevada . Những dữ liệu sớm sủa gợi ý
là chúng cũng hửu hiệu như là các
nhà máy , chửa trị nước thải cơ khí vậy đó ! Việt Nam đã có những chuyên viên
vi trùng học giỏi ( như đã làm ra phân vi sinh
bón cây cối hay thuốc vi sinh trộn vào thực phẩm nuôi tôm cá, ngừa chống ngừa nhiều bệnh tôm ,
cá khỏi dùng thuốc kháng sinh ? ) có một
công nghệ plastic mỗi ngày mỗi cải thiện( ? ) , sao chưa bắt tay làm các “ Cầu
tiêu Vòm “ ở nông thôn nước nhà ?
III- Trước tiên loại hẳn bệnh đậu
mùa- smallpox, kế tiếp sẽ là bệnh dịch hạch trâu bò- rinder pest
Rinder Pest 1890 |
Tưởng cũng nên biết là năm 1761 , Claude Bourgelat thiết lập
trường Thú Y đầu tiên ở thành phố
Lyon , Pháp
để giải quyết bệnh dịch hạch trâu bò.
Ban đầu dịch này là một cơn sốt , mắt đỏ chảy nước và mõm nước dãi chảy gịot . Nếu chúng tôi không lầm thì vào thập niên 1960
, các giáo sư Thú Y Pháp đã giúp đở
thiết lập Viện Vi Trùng Thú Y ( không phải Viện Pasteur ) ở Sài Gòn, sản xuất
nhiều thuốc chủng súc vật nuôi ( trâu bò, heo , gà …) ngừa trị dịch tể, trong đó có cả thuốc ngừa dịch hạch
trâu bò. Tiếp theo là kiết lỵ và tiêu chảy ,rồi đến chết vì khô - khử hết nước. Dịch hạch trâu bò lan vào đàn
trâu bò mau lẹ, và trong vài tuần có thể
giết chết hết nữa đàn súc vật.
Mất mát cả ngàn bò hay súc vật chăn nuôi
, có khi cả chục ngàn , có thể tàn phá
tan cả một cộng đồng. Bùng nổ năm
1989 giết qúa nhiều súc vật ở xứ Ethiopia đã gây ra nạn đói , khiến 1/3 xứ Phi Châu này chết đói
thảm thương . Nhưng mùa hè năm 2011, tổ chức Lương Nông Quốc Tế - FAO của Liên Hiệp Quốc dự tính tuyên bố chánh
thức đã bài trừ sạch - eradication nạn dịch hạch trâu bò, tai họa thứ nhì
sau đậu mùa khỏi bộ mặt Trái Đất.
Cách dđây khỏang 10 000
năm, dịch hạch trâu bò xuất hiện
cùng lúc với thuần hóa- domestication súc vật
ở thung lũng sông Indus ( Ấn Độ ) . Nạn
dịch đã theo gót dân Huns- Hung Nô (? ) và Mông Cổ tràn qua khỏi phía Tây Á Châu. Khi đường xe
lữa được thiết lập, dịch hạch trân bò lan tràn mạnh mẽ, đến nổi Âu Chầu hầu như không còn con bò cái ( bò sửa ) nào nữa vào thập niên
1870 . Dịch tể tiếp diễn trên súc vật nuôi và hoang dã Phi Châu gồm luôn cả trâu rừng, linh dương ( nai,
hưởu ) - antelope và hươu cao cỗ ,
mãi cho đến thế kỷ thứ 20. Rồi , năm
1950, một nhà bệnh học Thú Y Anh , tên là
Walter Plowright bắt đầu họat
động ở các la bô hai xứ Kenya và Nigeria
. Ông
nghiên cứu nuôi virus dịch hạch trâu
bò và vào thập niên 1960 ông tìm ra một dòng yếu kém virus này, giúp cho súc vật suốt đời miễn nhiễm mà không có biến chứng - side effects gì cả.
Plowright đã làm ra một thuốc
chủng - vaccine an toàn, rẽ tiền và khoảng 100 triệu liều vaccines đã được
phân phối khắp Phi Châu từ năm1962 đến năm 1969. Thế nhưng
bệnh vẫn còn tái phát.
Vào thập niên 1980, Nigeria giàu
có mới mẽ nhờ dầu lữa đã tạo ra một yêu
cầu ăn thịt bò, đem vào Nigeria súc vật từ nước xa xôi Somalia mang theo virus dịch hạch trâu bò và làm bệnh
lan tràn khắp cả lục địa Phi Châu. Một chiến
dịch chủng vaccination campaign bài
trừ được tổ chức sau đó. Liên Hiệp Phi
Châu và Liên Hiệp Quốc huấn luyện các huấn sự, cán sự Thú Y và các dân tai mắt làng
xã để tiêm chủng súc vật, thử nghiệm
động vật và theo dõi những dấu hiệu lây nhiễm, một chương trình gíáo
dục kỷ lưỡng chưa có ở những cố gắng bài dịch trước đó.
Nhờ làm xong trình tự - sequencing vật liệu di truyền
của virus, các nhà khoa học khám phá là dịch này có nhiều dòng, giúp họ theo
dấu bệnh ở nhưng nơi xa xôi hẻo
lánh Đông Phi Châu ( nơi trú ẩn cuối
cùng của bệnh đậu mùa ) và giúp tụ điểm chủng ngừa và kiểm sóat dịch. FAO
nói rằng dịch hạch trâu bò đã được nhận diện ở vùng hoang dã xứ Kenya tháng 10 năm 2001. Sau 10 năm thử nghiệm , FAO tin tưởng rằng không còn súc vật, động vật nào lây nhiễm
dịch này cả trên Trái Đất. Sau
khi chiến đấu ròng rã 70 năm trời, nay virus bệnh dịch hạch trâu bò chỉ còn sống trong các tủ làm đông lạnh - freezers các la bô, không nơi nào khác cả !
IV - Dây thần
kinh neon - neon nerves cho giải
phẩu an tòan hơn
fluorescent neon nerves |
Ngay cả những dây
thần kinh nhỏ xíu bị chấn thương hay mắc bệnh, cũng không làm cho bác sỉ giải
phẩu bỏ qua mất, nếu chúng sáng lòe màu
xanh lục neon . Đây là ý kiến đằng sau kỷ thuật mới bà bác sĩ giải phẩu Nguyễn thị Quyên ( hay Quyền ? ) và các đồng nghiệp sáng chế tại Viện đại học Cali San Diego. Nhóm của bà khám phá ra một phân tử dính chặc vào các tế bào dây thần kinh, mang dấu
thẻ một hợp chất hùynh quang - fluorescent và tiêm vào chuột. Trong vòng hai tiếng đồng hồ, các dây thần kinh ngọai vi của chuột
nổi bật lên như thể bị sơn phết
chói lọi và tồn tại như vậy 6 giờ đồng
hồ . Mục tiêu tối hậu của bác sĩ Quyên là
giúp giảm bớt số dây thần kinh bị tai nạn sứt mẽ hay bịhư hại
khi làm mỗ xẽ- giải phẩu . Kỷ thuật rất tốt cho giải phẩu
ung thư tuyến tiền liệt -
prostate cancer theo lời bác
sĩ Quyên, khi các dây thần kinh bị hư hại , xảy ra đến 80 % ở những cuộc giải
phẩu .
Trong lúc đó, một dụng cụ
huỳnh quang khác cũng nổi bật giúp
các ngườì bị tiểu đường theo dõi
mức glucose trong máu mà khỏi phải chích lấy máu ở ngón tay, khá đau đớn. Kỷ sư Shoji Takeichi, Viện đại học Tokyo và nhóm ông phảt triễn những chuổi hột -
beads huỳnh quang kích thước kính
hiển vi, dính chặc vào glucose. Các hột
này chói sáng lên dưới ánh sáng cực
tím xuyên qua da động vật, độ sáng chói thay đổi , biến
thiên tùy theo các mức glucose trong máu. Takeuchi lưu ý rằng
trên người , một lần tiêm duy nhất
những hột này, có thể tồn tại hơn 1 tháng, và một linh kiện đeo được định kỳ làm chói ánh sáng cực
tím trên da, hầu đo
lường các mức glucose . Ông nói là muốn làm nó
đủ bé nhỏ để đeo nó như thể đeo bông tai vậy.
( chiếu theo
Discover và Popular Science, Irvine , Ca Li ngày 14 tháng 5 năm 2011 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét