Ba đặc sản nông
nghiệp xuất khẩu Nhật ngày nay, có lẽ xuất khẩu Việt Nam nên chú ý hơn chăng ? :
Nhật muốn xuất khẩu ba đặc
sản:
cá ngừ vi xanh nuôi lồng kín,
heo đen Kagoshima và bò Kobê
Thế giới
thèm khát cá ngừ -tuna Nhật , bò Wagyu và những món ăn ngon tinh tế ở
những khách sạn xa xôi ngòai nước Nhật, tỉ như Nửu Ước ( Hoa Kỳ ) và Luân Đôn
( Anh Quốc ), đã khiến các nhà đầu
tư thể chế và ngân hàng địa phuơng đứng sau lưng một khuynh hướng đầu tư bất
thường ở Nhật, đã đổ 23 tỉ yên- đồng tiền Nhật ( 281 triệu đô la Mỹ ) vào hơn
một tá quỹ đầu tư ở các nông trang và
trại nuôi cá biển tại Nhật. 4 trong
số quỹ
đầu tư thực phẩm này là của ông Daisuki Mori, đã góp10 tỉ yên từ các
ngân hàng địa phương và các nhà đầu tư
thể chế vào những dự án gồm có như nuôi cá ngừ, đa số ở đảo Lưu Cầu ( ? ) Kyushu Island
phía Nam Nhật, cách xa ô nhiễm phóng xạ lò điện hạt nhân Fukujima động đất và
sóng thần, gây ra. Mori, 44 tuổi, nguyên là chủ ngân hàng thuộc nhóm Citigroup và
hiện là chủ tịch Ngân hàng đầu tư Dogan Investments ở Thành phố Fukuoka City
nói rằng: Thực phẩm là một lảnh vực ở
Nhật có tiềm năng lớn lao. Các trại, nông trang
địa phương nuôi cá ngừ, nuôi heo, và bò ở đảo Kyushu cần có liên kết
mạnh mẽ hơn với những thị trường lớn ngòai nước Nhật. Yêu cầu về các sản phẩm
thực phẩm Nhật tăng gia khiến cho ít nhất
25 ngân hàng địa phương, đã cung cấp thêm ngân khỏan cho những nông dân ( và ngư dân ) Nhật
nào muốn xuất khẩu. Trong thời gian làm việc cho chi nhánh Citigroup
ở Fukuoka, Mori đã đầu tư 48 triệu yên vào công
ty chế biến cá biển Burimy, một công ty đã nuôi hàng trăm ngàn cá ngừ vi xanh – bluefin và cá nạng
đuôi vàng – croaker yellow tail ở bải
rào ( lồng )-pens ngoài khơi đảo,
cách bờ chưa đầy1 cây số. Công ty hy vọng bán ra năm 2012, hai ngàn cá
ngừ vi xanh nuôi lồng, gấp đôi số lượng này năm tới 2013, theo lời Takahiro Hama, một gíám đốc của công
ty. Burimy đang thảo luận cùng Tổ hợp Nomura Holdings lập công ty cổ phần công cọng thọat tiên – initial public offering để tài
trợ cho tăng gia xuất khẩu ở Trung Đông và ở Âu Châu.
1-
Nuôi cá
ngừ xuất khẩu
Chợ cá Katsuura |
Hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam -
Vasep cho biết , năm 2011, xuất khẩu
thủy sản Việt Nam đạt 6.118 tỉ đô la Mỹ (
2-3 lần hơn giá trị xuất khẩu gạo, năm 2011 đã trên 7 triệu tấn vượt mặt xa
nước xuất khẩu gạo thứ ba thế giới là Hoa Kỳ năm qua) , tăng 21 % so với năm 2010. Mặt hàng chủ lực vẫn là
tôm đạt 2.4 tỉ đô la đứng đầu là tôm sú
( 59.7%) và tham gia đột phá của tôm
chân trắng ( 29.3 % ). Cá tra đứng hàng thứ hai đạt 1.805 tỉ tăng 26.5%
với khối lượng xuất khẩu trên 600 000 tấn. Mỹ và châu Âu vẫn là thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam nhiều nhất
( Phương Duy, KHKT tháng 1 – 2012 ). Dự trù phấn đấu hầu đạt xuất
khẩu năm 2012 là 6.5 tỉ đô la Mỹ . Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam
hiện tiến bộ nhiều ở môi trường nước ngọt và nước lợ hay ven bờ nơi nước mặn xâm nhập. Nhưng nuôi cá biển khá
xa bờ chưa mấy phát triễn, ngay cả ở
vùng khai thác nuôi trồng hải sản Đồng Bằng Sông Cửu Long dài 700 km và vùng
đặc quyền kinh tế biển Tây và phần Biển Đông này lên đến 360 000 km2 . Vì vậy cần
khuếch trương ngành nuôi cá biển theo những kỷ thuật ngư trang và nuôi
dưỡng cá cận đại hơn, dùng nguyên liệu thức ăn cho cá nội địa phương hửu hiệu, rẽ tiền hơn,
không làm ô nhiễm môi trường, lựa chọn các lòai cá nào thị trường quốc tế rộng
lớn?
Nhật đã xuất khẩu
40% cá ngừ nuôi ở biển, đa số cho các
kho tồn trữ và tiệm ăn ở hai bang
California và New York- Hoa Kỳ, gồm luôn cả tiệm ăn
Morimoto, một tiệm vùng Manhattan
chủ nhân là Masaharu Morimoto , ngôi sao trình diễn ti vi
Iron Chief- Đầu bếp chánh Soong chảo Sắt ( món đặc biệt là pizza cá ngừ dọn
trên bánh mì bắp ( ngô )- tortilla dòn tan với hột ô liu – olives
). Năm 2011, xuất khẩu Nhật đã vọt lên
hơn năm 2010 là 16. 9 % về cá ngừ nuôi
và 18.1 % cá nạng nuôi, trị gía 7.36
tỉ yên cho cá ngừ và 7.76 tỉ yên cho cá
nạng, chiếu theo thống kê của Bộ Canh
nông, Lâm nghiệp và Ngư nghiệp Nhật.
Cá ngừ Nhật
nuôi là cá ngừ vi xanh Nam phương- southern
bluefin tên khoa học la tinh
là Thunnus maccopii, họ cá ngừ Scrombridae, một lọai cá sống ngòai khơi ở độ sâu trung bình - pelagic,
thân trắng bạc, nuôi lớn đến 400 kg(
782 cân Anh ) bằng các lọai cá
nhỏ tạp nham , mực , tôm… hay các động
vật khác; thường được đánh bắt ở Thái Bình Duơng phần biển phía dưới Indonexia
đến gần bờ biển miền Bắc Úc châu. Bảo
đảm nguồn cung cấp cá ngừ vi xanh Nam
phương làm thực phẩm, mà không làm cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên là một vấn đề
quan trọng cho thế giới thế kỷ thứ 21. Cá ngừ vi xanh là một lòai cá cao
giá nhất, nhưng hiện nay phải đối diện
với nhiều áp lực vì nạn lạm ( khai )thác quá độ và có nguy cơ sụp đổ . Yêu cầu
lúc rày rất cao: một con cá ngừ vi xanh
nặng 342 kg, vừa bán đấu giá ở Chợ
cá Nhât Danh Vang -Tsukiji Fish Market,
đạt kỷ lục 32.49 triệu yên ( chừng 400 000 đô la Mỹ ). Sau đây là sơ lược báo cáo nuôi lồng ( bải rào ) cá ngừ vi xanh của công
ty Nhật Agrimarine ngày 28 tháng 6 năm
2011.
Nuôi cá ngừ vi
xanh Nam Phương nhốt trong lồng lưới-
net cages không mấy thành công trước
đây vì có nhiều thừa tố thách thức giới
hạn liên quan tới sinh sản , thức ăn cho cá
và duy trì cho được một môi
trường biển thích nghi. Khảo cứu mới đây
của Viện đại học Tokai, Nhật bổn, đã đưa
tới nhiều môn bài về chăn nuôi và cho ăn các cá ngừ vi xanh nhỏ
- cá con , trong khi
công ty AgriMarine đã thành công
thực thi một kỷ thuật thay thế bền vững
nuôi cá hồi. Tổ hợp AgriMarine Holdings, căn cứ ở Vancouver- Canada, tuyên bố
đã thỏa hiệp với Viện Tokai làm dự án nuôi cá ngừ vi xanh kích thước thương mãi, sử dụng các lồng bải
rào theo hệ thống thành đặc bao quanh chứa
cá nuôi của hảng. Dự án với Viện Tokai là một cách chứng minh thêm ứng dụng các lồng
bải rào nuôi cá của hảng cùng các kỷ thuật nuôi cá của viện, nuôi các lòai
cá giá trị cao . Theo Richard Buchanan,
Tổng Giám đốc AgriMarine, chiến lược hảng là
để chứng minh độ mềm dẽo họat động ở nhiều lọai môi trường nước khác, và
có thể dùng để nuôi các lọai cá vi lớn có giá trị cao, có thể xây đắp gần gủi
thị trường hơn trên khắp thế giới.
AgriMarine đã nuôi cá hồi Thái bình Dương - Pacific salmon
và cá mè xứ mát lạnh – trout thành công ở Trung Quốc và ở Canada, và nhờ
các dự án khảo cứu hảng đang làm với Cá Nạng Vàng – Yellow Croaker và cá ngừ vi xanh Nam phương, hảng đang cũng
cố vị trí là hảng lảnh đạo các kỷ thuật sản xuất nuôi trồng thủy sản vững
bền – sustainable aquaculture production technologies.
Cá Nạng Vàng |
Tháng 5 năm
2011, AgriMarine tuyên bố lập một hợp
doanh với Viện khảo cứu Ngư nghiệp Châu Sơn ( ? )- ZFRI, Trung Quốc, để thực
hiện một dự án thương mãi đại trà nuôi cá nạng vàng ( Tàu
gọi là kim ngư, cá vàng kim – gold fish), theo hệ thống lồng bải rào đóng kín. Các
đàn cá nạng vàng hoang dã đã giảm sút
rất nhiều kể từ thập niên 1970 và nay
đựợc nuôi ở đại dương trong lồng lưới đóng kín tại tỉnh Phúc Kiến. Nhưng phương cách này góp phần
vào ô nhiễm, bệnh tật cá nên phải dùng
thuốc kháng sinh, khiến phẩm giá thịt cá sinh ra nhiều vấn đề. Các
khảo cứu trước đây nuôi cá nạng vàng
sử dụng thức ăn chế biến công
nghệ do Hiệp hội Đậu nành ( đổ tương
) Hoa kỳ -ASA phối hợp với
quận Ngư Nghiệp Bình Dương-Pin Yang County tỉnh Phúc Kiến thực thi. ASA cũng cung cấp cố vấn làm công thức thức ăn
cho cá nuôi cho khảo cứu chung AgriMarine và ZFRI. Trị giá cá nạng vàng nuôi ở Trung Quốc nay
hàng năm đã trên 460 triệu đô la Mỹ, tiêu biểu cho gần 70 000 tấn cá, tương đương kích thước thị trường ngành công nghệ nuôi cá
hồi tại bang British Columbia, Canada.
Giám đốc Luo của ZFRI cho biết là nuôi cá nạng vàng thành công ở hệ thống đóng
kín , sẽ giải quyết xong yêu cầu của nhà tiêu thụ cho cá lành mạnh và phẩm giá thịt cá tương đương với các đặc
điểm các đàn cá hoang dã. Đây
cũng là dự án đầu tiên nuôi cá nạng vàng
sinh cường trong lồng lưới bải rào đóng
kín với phương tiện lấy ra
được phế thải. Cá con được chuyễn
đến các cơ sở nuôi và sẽ đạt kích thước
thu họach sau 8 tháng nuôi. Cá nặng tối thiểu 500gr một con, sẽ đem bán ở
các chợ Thượng Hải chỉ cách các cơ sở nuôi chừng 4 giờ chuyên chở. Đầu
tháng tư 2012, Cá Nạng Vàng ( cá nuôi ở biển ) đông lạnh nay đã bán ở các siêu thị Tàu
bang Ca Li , Hoa Kỳ song song với cá ba sa , bông lau... của miền Nam
Việt Nam ; nhưng Việt Nam nay đã nuôi Cá Bó thành công ở biển Tây tại
vài đảo trong 21 đảo lớn - nhỏ thuộc quần đảo Nam Du ( Hòn Lớn , Hòn
Ngang, Hòn Mấu... ) , huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, cách thị trấn
Rạch Giá chừng 85 Km .
ZFRI là cơ quan khảo cứu và phát triễn của chánh phủ Tàu, chuyên môn về nuôi các lòai cá nước ấm có tiềm năng giá trị thương mãi. Theo các chi tiết hợp đồng, ZFRI sẽ cung cấp phương thức nuôi trồng và cơ sở để thực hiện kỷ thuật mới AgriMarine cung cấp. Họa kiểu và xử lý xây cất do các chuyên viên và cố vấnCanada
của AgriMarine cung cấp và mọi trang bị
đều do các nhà chế tạo Tàu làm ra. Đôi
bên đã thỏa thuận phát triễn đại trà
tòan vẹn họat động nuôi cá lồng bải rào đóng kín, căn cứ trên các thử
nghiệm kích thước thương mãi đã thành
công mỹ mãn và thị trường đã chấp nhận
cá nạng vàng nuôi vững bền ở hệ thống bải rào đóng kín.
Kỷ thuật AgriMarine đã giải quyết được nhiều vấn đề môi sinh của phương thức nuôi cá trong lồng lưới và đã thõa mãn yêu cầu của các nhà tiêu thụ và bán lẽ cho nuôi trồng thủy sinh vững bền- sustainable aquaculture, trong khi vẫn bảo vệ được môi trường ( ? ). Chúng tôi không rỏ Hiệp hội công nghệ hải sản Việt Nam đã tiếp xúc trực tiếp với AgriMarine – Canada ( thay vì qua trung gian các hảng Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v… ), đại học Tokai chưa ) để biết rỏ hơn hệ thống nuôi lồng bải rào kín, lấy ra được phế thải ô nhiễm … và các kỷ thuật sinh sản cá giống sạch bệnh, nuôi mau lớn và cách chế biến thức ăn với các sản phẩm địa phương nước nhà …, nuôi 4 lọai cá ngừ VN là ngừ vi vàng – yellowfin tuna Thunnus albacores, ngừ mắt to Thunnus obersus , ngừ albacore Thunnus alalunga , ngừ vằn Katsuwonus pelami … các lọai cá ngon như cá chẻm ,vuợc lai- hybrid sea bass, các lòai cá mú như mú nghệ Epinephelus lanceolatus, và mới đây lòai cá bóp Rhachycentron canadum thịt ngon, lớn mau lẹ đạt 5-8 kg sau một năm nuôi vỗ trong lồng bè, có giá trị xuất khẩu ( ? ) và khoa thủy sản trường đại học Cần Thơ đã thành công sản xuất giống nhân tạo , ươm nuôi cá bóp giống ( Lê Hòang Vũ , KHKT ngày 17-2- 2012 ) ở các quần đảo tỉnh Kiên Giang, đặc biệt ở quần đảo Nam Du v.v.… bổ sung xuất khẩu tôm và các lọai cá tra, bông lau nước ngọt…?
ZFRI là cơ quan khảo cứu và phát triễn của chánh phủ Tàu, chuyên môn về nuôi các lòai cá nước ấm có tiềm năng giá trị thương mãi. Theo các chi tiết hợp đồng, ZFRI sẽ cung cấp phương thức nuôi trồng và cơ sở để thực hiện kỷ thuật mới AgriMarine cung cấp. Họa kiểu và xử lý xây cất do các chuyên viên và cố vấn
Kỷ thuật AgriMarine đã giải quyết được nhiều vấn đề môi sinh của phương thức nuôi cá trong lồng lưới và đã thõa mãn yêu cầu của các nhà tiêu thụ và bán lẽ cho nuôi trồng thủy sinh vững bền- sustainable aquaculture, trong khi vẫn bảo vệ được môi trường ( ? ). Chúng tôi không rỏ Hiệp hội công nghệ hải sản Việt Nam đã tiếp xúc trực tiếp với AgriMarine – Canada ( thay vì qua trung gian các hảng Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v… ), đại học Tokai chưa ) để biết rỏ hơn hệ thống nuôi lồng bải rào kín, lấy ra được phế thải ô nhiễm … và các kỷ thuật sinh sản cá giống sạch bệnh, nuôi mau lớn và cách chế biến thức ăn với các sản phẩm địa phương nước nhà …, nuôi 4 lọai cá ngừ VN là ngừ vi vàng – yellowfin tuna Thunnus albacores, ngừ mắt to Thunnus obersus , ngừ albacore Thunnus alalunga , ngừ vằn Katsuwonus pelami … các lọai cá ngon như cá chẻm ,vuợc lai- hybrid sea bass, các lòai cá mú như mú nghệ Epinephelus lanceolatus, và mới đây lòai cá bóp Rhachycentron canadum thịt ngon, lớn mau lẹ đạt 5-8 kg sau một năm nuôi vỗ trong lồng bè, có giá trị xuất khẩu ( ? ) và khoa thủy sản trường đại học Cần Thơ đã thành công sản xuất giống nhân tạo , ươm nuôi cá bóp giống ( Lê Hòang Vũ , KHKT ngày 17-2- 2012 ) ở các quần đảo tỉnh Kiên Giang, đặc biệt ở quần đảo Nam Du v.v.… bổ sung xuất khẩu tôm và các lọai cá tra, bông lau nước ngọt…?
2- Heo đen Nhật- Kagoshima swine
Heo đen Nhật |
Các ngân hàng địa phương Nhật bổn, đối diện
với những lãi xuất cho vay xanh
xao thiếu máu 1.04 % , đang cố gắng kiếm lợi từ tính cách phổ thông các món ăn tinh tế
Nhật. Ngân hàng Kagoshima, căn cứ ở Kyushu đã tăng thêm ngân khỏan cho nông dân vay muốn tập trung vào các thực phẩm đặc thù xuất khẩu thay vì trồng lúa
hay trồng mía cho tiêu thụ nội địa .
Các nông dân nuôi bò Wagyu và nuôi heo đen
Kagoshima đang hưởng thụ ngân
khỏan cho vay tăng gia, theo lời
Masanaka Mei, trưởng ban đề xướng thương mãi của ngân hàng, đã tháp tùng chủ tịch cho vay
Motohiro Kamimura , thăm viếng Á Châu và Âu Châu cùng những khách hàng
dò thăm các thị trường. Heo đen
Nhật có nhãn hiệu thương mãi Kagoshima
Kurubota là một giống heo hiếm có
thịt chứa nhiều mỡ và bán cao giá
nhờ cơ cấu và mùi vị đặc biệt.
Cũng như ở Việt Nam ,
Trung Quốc, Thái Lan …lọai thịt dân Nhật thích ăn nhất là thịt heo. Số thịt heo Nhật tiêu thụ bằng thịt gà và thịt bò nhập lại. Mãi đến thập
niên 1960, ngòai dân thành phố Tokyo,
dân Nhật chỉ ăn thịt bò lúc lễ lạc tiệc
tùng ngay cả ăn đĩa cơm thịt bò – beef on rice gyùdon giản dị thường lệ mà chỉ ăn các đĩa thịt heo thường xuất hiện vào bửa cơm tối. Đĩa thịt
heo phổ thông hơn hết là tonkatsu,
một cốtlét- cutlet hay thịt thăn, phi lê- filet chiên dòn và phủ
bánh mì , tương tự đĩa thịt Âu Châu schnitzel .
Từ tonkatsu là phối hợp từ Nhật ton nghĩa là heo và
từ Anh
rút ngắn cutlet , nói theo cách Nhật phát âm. Trong khi đó katsuretsu là cốt lét phủ bánh mì
chiên bơ đã xuất hiện trong các
sách nấu ăn từ năm 1895, tiến trào mau lẹ qua chiên dầu thực vật vì dầu thực
vật thích hợp thị hiếu Nhật, hửu hiệu chiên xào và rẽ tiền hơn bơ- butter.
Khác cơm cà ri hay các cơm yòshoku ,Tây phương ảnh hủởng đến các
đĩa ăn Nhật đã thay đổi nhiều từ cuối
thế kỷ thứ 19 đến giũa thế kỷ thứ 20, tonkatsu được các tiệm ăn truyền thống Nhật, tỉ như các khách sạn soba ôm đồm, nhưng các tiệm
soba cũng mất sự nghiệp vì các tiệm ăn mốt mới kiểu Âu Châu. Các tiệm mới này xem tonkatsu là đĩa thịt rẽ tiền, dễ làm, dù nhiều thực chất
và ăn mau no. Các tiệm dọn tonkatsu
phát triễn mạnh mẽ các thập niên
1950 – 1960 sau Thế chiến Thứ hai. Vài tiệm vẫn còn thịnh vượng như Ginza
Bairin ,thành lập năm 1927 nay mở chi nhánh ở HongKong, Singapore và
Hawaii; và Maisan in Aoyama , một
đàn bà Nhật thành lập năm 1965, nay là một trong những tiệm bán các sản phẩm tonkatsu
làm sẳn ( katsudon , katsu karè , katsu
sand , kushikatsu, tonkatsu ramen…)
khắp nước Nhật. Thịt heo là thành phần nổi bật cách nấu nướng Kagoshima
và Okinawa ( đảo Ryukyu ). Kagoshima
là nơi sản xuất thịt heo lớn nhất nước Nhật và giống heo
đen Kagoshima kurobuta có lẽ là
giống heo nổi danh nhất ( thời đệ nhất Cộng Hòa miền Nam , nổi bật nhất có thể là heo vá Thuộc Nhiêu- Mỹ Tho và heo Sóc Trăng (Ba Xuyên) ? ). Danh tiếng
heo kurobuta đã lan tràn quốc tế, các đầu bếp chánh khắp thế giới
luôn luôn nhấn mạnh tên kurobuta
ở các đĩa thịt heo họ dọn ra. Khôi hài
thay Kagoshima
kurobuta cận đại lại là một giống heo lai giữa heo đen Anh Bershire và các giống heo đen nội địa Nhật. Các giống kurobuta khác, ngòai Kagoshima, có
thể là những giống lai với các Berkshires Hoa Kỳ.
Heo Bershire |
Heo đen Anh lòai
Bershire được xem là “ giống heo xưa đời nhất
Anh Quốc” nguồn gốc quanh hai thị
trấn chợ Faringdon và Wantage, ở thung
lũng Vale Ngựa Trắng – Vale of the White Horse quận anh Bershire. Năm 1974, ranh giới các
quận Anh thay đổi nên vùng này, nay
thuộc quận Oxfordshire. Heo Bershire
trở nên phổ biến ở các vùng nước Anh
khác, khi quân đội Cromwell đóng tại thị trấn Reading , vào thời Nội Chiến Anh Quốc. Ngày nay
heo Bershire là con cháu của đàn
heo các vua Anh, duy trì từ đầu thế kỷ thứ 18 .
Đặc điểm heo Bershire trưởng thành sớm là một lớp lông ngắn đen bao phủ khắp thân thể,
thường xen lẫn lông trắng ở chân cẳng,
mặt và chóp đuôi heo. Mõm heo hình đĩa, và độ dài trung bình. Tai heo Bershire rất lớn , thẳng đứng hay hơi nghiêng về phía trước. Cổ heo đẹp đẽ
không nhăn nheo, xương dẹt vai nghiêng dốc rỏ rệt. Chân cẳng chúng ngắn , thẳng
và bụng dưới cũng thẳng, không phệ ( sệ ) như heo
ta, nòi giống Poland China ? Thịt
heo Bershire nổi tiếng nhiều nước -juicy, mùi vị ngon và mềm,
thóang màu hồng và pha lẫn nhiều mỡ - marbled. Thịt cũng chứa nhiều chất béo, thích hợp cho nấu lâu và ở nhiệt độ
cao. Hình như thời Pháp thuộc, chánh
quyền thuộc địa có phân phát heo đen Bershire du nhập cho dân Quảng Trị ( Triệu
Phong ? ) nuôi thử, nhưng chuồng trại nông dân nghèo quá nhỏ không chứa nổi
giống heo ngọai quốc hung hãn này , cũng như thức ăn cho heo còn quá khiêm tốn, thiếu kém chất
dinh dưỡng, khiến heo chậm lớn , nên chương trình thất bại.
3-
Bò Wagyu
cho thịt bò Kobê danh vang thế giới
Bò Wagyu |
Bò Wagyu được du
nhập vào Nhât lần đầu tiên ở thế kỷ thứ
hai sau Công Nguyên để giúp cày ruộng
lúa nước Nhật bổn. Vì Nhật đất dốc, hiểm trở, di cư chuyễn bò chậm
rì và bị giới hạn. Bò có khuynh hướng cô lập ở vài vùng nhỏ bé và
mỗi vùng căn bản là những giống bò nguồn gốc di truyền gần gủi nhau. Từ năm 1635 đến năm 1868, các tướng quân Mạc Phủ - shogun lại cấm
nuôi bò. Đất đai núi non hiểm trở tạo nên vài nơi nuôi bò với nhiều giống khác
nhau và các kỷ thuật nuôi cũng khác nhau. Thành quả lúc đó là các giống bò Nhật mỗi nơi có những
đặc điểm khác biệt nhau. Nhưng sau thời gian lâu dài, Nhật cũng tạo ra ở vùng
Kobê và vài nơi khác, một giống bò có tiêu chuẩn mùi vị và thịt mềm đặc biệt
cho cả thế giới tìm thưởng thức.
Rồi nhờ hai chục năm khảo cứu và phát triễn, thịt bò Kobê ngày nay đã bỏ xa, trên phương diện nấu nướng ăn nhậu, mọi lọai thịt bò khác sản xuất tại Nhật. Cuối cùng giống bò wagyu
lại chuyễn tới những quốc gia khác Nhật.
Steak KoBê |
Trước tiên, các công
ty thịt bò Nhật để ý tới Úc châu, vì Úc gần Nhật và Nhật không còn mấy đất đai
địa lý nuôi những đàn bò lớn giống wagyu nữa. Tuy nhiên, hạn hán đã gây
tai họa cho nhiều nơi nuôi bò Wagyu ở Úc
và cũng làm hư hỏng nhiều lọai cỏ và ngũ cốc nuôi bò wagyu. Cho nên phẩm
gía thịt bò Wagyu Úc chỉ được xếp vào lọai thịt bò Kobê tốt nhất
hạng 3 thôi. Lẽ dĩ nhiên là đối với thương gia Nhật thịt bò wagyu ở Nhật mới là
thịt bò Kobê tốt hạng nhất. Bò Wagyu nuôi ở Hoa Kỳ đứng hạng nhì về phẩm giá.Vì cách xếp hạng và giá cả thấp-cao tùy hạng này, bò Kobê trở thành lọai thịt nền móng – backgrounder hơn
là thịt kết liễu- finisher của
những món thịt bò wagyu. Nhưng ngày nay,
Úc đã trở lui lại có thịt kết liễu những
đàn bò wagyu rất to lớn lai giống – crossbred cattle
xếp hạng quanh các mức độ 3, 4, 5 ở Hệ thống Thịt pha lẫn Mỡ
Nhật – Japanese marbling System
,cũng như các đàn bò nhỏ hơn tòan máu wagyu xếp hạng cao hơn. Thời
tiết tuy nhiên vẫn còn là một vấn đề,
khi làm kết liễu những đàn bò
này.
Dòng tiến triễn di truyền học wagyu ngày
nay xảy ra ở Hoa Kỳ vào thế kỷ thứ 19. Lúc đó, một nhóm bê wagyu được đưa đến
viện đại học Washington State University - WSU, để thử nghiệm xem các
các bò wagyu này hửu hiệu ra sao,
khi cho ăn các thức ăn súc vật Hoa Kỳ và các chế độ ăn uống một thời gian lâu dài. Rồi khi
trở thành bò kết liễu sẳn sàng hạ thịt , WSU đến ông RL
Freeborn để thị trường hóa thịt bò Wagyu đầu tiên nuôi ở Hoa Kỳ, vì RL Freeborn có hiểu biết
và doanh vụ rộng rãi cùng dân Nhật
với bò Angus nuôi lâu ngày. Từ đó R L Freeborn tiếp tục nuôi và bán thịt bò wagyu ở Hoa
Kỳ. RL Freeborn là công cụ chánh
cho doanh nghiệp thịt bò Wagyu Hoa Kỳ - American Wagyu beef business hơn bất cứ người nào khác, ở Hoa Kỳ và là
một nhà vận động lớn – crusader theo dõi di truyền wagyu Hoa Kỳ
hầu tìm ra những siêu bò đực giống- super bull, có khả
năng sản xuất bò wagyu mức độ xếp hạng
cao và có phí tổn kinh tế thấp. Như thế
có nghĩa là giá cả thịt bò wagyu rẽ cho công chúng nữa. Các nhóm bò wagyu làm
giống đưa tới Hoa kỳ thế kỷ thứ 19, thật ra là để có dễ dàng tinh dịch –
semen bán cho Úc, vì lúc đó Hoa Kỳ và Nhật đang thương
thảo gay go các vấn đề thương mãi và
thuế quan cao giữa hai quốc gia. Rồi thật là minh bạch, khi thức ăn súc vật cao năng phong phú ở Hoa Kỳ,
cỏ hòa bản giàu protein, giá cả kinh tế rẽ rề, khiến Nhật sẳn sàng mua
thịt bò wagyu nuôi và gói ghém ở Hoa Kỳ
và đưa thịt bò này vào hệ thống bán lẽ
đồ sộ ở nước Nhật.
( chiếu theo
Wikipedia 30 tháng 3 năm 2012 và Blomberg Business Weeks số 19-25 tháng 3 năm
2012)
( Irvine
, Nam Ca Li , ngày 3 tháng 4 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét