Tiến triển ngành công nghệ không gian Trung Quốc, tưởng cũng nên biết để phát họa phát triển thêm công nghệ này ở hợp tác Việt Miên Lào chăng ? :
Trung Quốc cất cánh bay
Sau đây là quan điểm phát triễn không gian thương mãi và dân sự Trung
Quốc ngày nay của James Fallows tác giả cuốn sách : “Trung Quốc Trên không –
China
Airborne” sẽ được Pantheon xuất bản tháng 5 năm 2012, trên số báo tháng
5 nguyệt san Khoa học Phổ thông .
Quốc gia đông dân nhất thế giới đang chở máy bay nhiều người hơn đến nhiều nơi hơn
ngày trước. Phấn đấu làm như vậy mà
không phá hủy thêm môi sinh có thể cho thế giới
còn lại, một phương cách xanh hơn để du hành. Khi bàn cải bất cứ vấn đề
môi sinh nào ở Trung Quốc , đó là một cuộc phấn đấu luôn luôn để quyết định
xem điều gì cần được nhấn mạnh hơn : tình trạng nào cùng cực nhất đây , cách nào chức quyền
Trung Quốc cố gắng đương đầu với tình thế. Khung trời, nước, ngay cả nguồn thực phẩm Trung Quốc là vài
nơi ô nhiễm chất độc nhất trên Địa cầu. Những cố gắng của Trung Quốc để giảm bớt ô
nhiễm và phát triễn những nguồn năng
lượng sạch hơn, là vài tham vọng lớn nhất thế giới.
Căng thẳng này cũng giúp thông
tin cho những kế họach hàng không Trung Quốc. Đe dọa tức thì do phát thải máy
bay Trung Quốc gây ra không đương nhiên kinh khủng minh bạch hơn ô nhiễm hạt
thể thường làm không khí các thành phố
lớn đen mù hay các kim lọai nặng làm bẩn
các nguồn cung cấp thực phẩm và nước ngầm, đã góp phần vào dịch tể ung thư ở
Trung Quốc. Nhưng phát thải máy bay nay đã đáng kể và sẽ tệ hại hơn, đặc biệt khi
ngành công nghệ không gian Trung Quốc tăng
trưởng mạnh hơn là mọi phần khác của nền kinh tế Trung Quốc .
Yêu cầu di chuyễn hàng không không mấy tăng trưởng ở thế giới Tây Phương thập niên này kể từ
cuộc tấn công 9/11 ở New York , nhưng tại Trung Quốc yêu cầu tăng lên gấp bốn và cũng đang tăng
nhanh ở các nước thế giới chậm tiến,
đang phát triễn. Hoa Kỳ và mọi quốc gia Âu Châu chung lại chỉ có 10 phi trường
thương mãi mới đang xây cất. Riêng Trung
Quốc đang xây cất thêm 100 phi trường mới
và nới rộng thêm nhiều phi trường cũ Boeing và Airbus căn cứ các hy vọng
bán máy bay chánh sẽ là thế hệ sắp tới các hảng hàng không Trung Quốc. Trong lúc đó, Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ
sản xuất lọai máy bay có cơ cạnh tranh các máy bay hai hảng vừa kể là ARJ21 và
máy bay chuyễn vận đường dài C919.
Cũng như nhiều khía cạnh khác của tăng trưởng Trung Quốc, mọi điều này
sẽ có những hậu quả nghiêm trọng cho môi sinh. Các hảng hàng không thế giới
sản xuất chừng 2% phát thải CO2 thế giới và đóng vai trò ít nhất là hai lần
lớn hơn trong thay đổi khí hậu, vì lẽ ảnh hưởng của CO2 và các khí nhà kiếng khác lớn hơn, ở cao độ.
Phần phát thải tòan cầu của ngành máy
bay đang dâng cao thêm và phần ảnh hưởng
của ngành máy bay Trung Quốc trong tòan thể
ngành máy bay toàn cầu cũng dâng cao mau lẹ hơn. Nếu khuynh hướng hiện
tại vẫn tiếp tục, những cố gắng giảm phát thải ở các nơi khác có thể bị lầy lội
ngập tràn, vì di chuyễn bằng máy bay tăng mạnh trên bầu trời Trung Quốc .
Ngành máy bay đã vượt qua từ lâu, điểm
chối cải các vấn đề phát thải. Các nhà lảnh đạo Âu Châu và Hoa Kỳ đã
nhận thức là vì những lý do vẽ mặt ngòai cũng như vì luật pháp sắp xảy ra và để
lọai trừ phản ứng từ khách hàng, họ phải
hành động. Họ còn có những khích lệ kinh
tế mạnh mẽ nữa. Nhiên liệu là phí tổn lớn nhất cho các công ty hàng không. Cứ
mỗi ga lông ( # 4 lít ) họ không đốt cháy thì mỗi chuyến bay lại càng lời thêm.
Các hảng hàng không thế giới và các nhà chế tạo phi cơ có thể còn bay được sau
nhiều thập niên cạnh tranh với các nhà xây cất đập thủy điện và các nhà hóa
kiểu nhà máy điện đã quyết định là cắt bớt các phát thải carbon thực, đến năm 2050
sẽ chỉ còn phân nữa mức phát thải năm 2005, dù rằng số dặm
Anh tổng số hành khách di chuyễn máy bay
đã tăng thêm ba lần hay nhiều hơn nữa.
Trung Quốc là thị trường mua
mau lẹ nhất các máy bay kiểu mới, triễn khai và cho bay. Thế cho nên ngành công
nghệ không gian nơi đây, đang làm những công việc thích thú nhất hầu làm cho
ngành máy bay trở thành vững bền hơn.
Di chuyễn bằng xe hơi, đậu xe đã là một vấn đề ở các thành phố Trung
Quốc ( tỉ như ở Bắc Bình, dân chúng dùng xe điện ngầm nhiều hơn ), vì nơi đậu
xe không những đã kẹt nghẽn lớn mà chỉ
có 2 đường nhỏ hẹp cho xe ra. Nhưng di
chuyễn các đường xá trong thành phố lại càng khó khăn gấp bội . Vì lẽ ở Bắc Bình cách xếp đặt đường vòng quanh thủ
đô được xem là giống xa lộ cao tốc - freeway like và quá nhiều
đường một chiều, xe hơi bạn lại phải xoay vòng
xa hẳn thủ đô trước khi bạn có thể trở về lại đúng hướng đi. Chạy thêm nhiều dặm Anh, bạn phải tốn nhiều nhiên
liệu hơn.
Chuyến đi bằng xe hơi hoang phí, có một tương đồng hoang phí đặc biệt di
chuyễn bằng máy bay. Kiểm sóat quân sự
không gian ngay cả ở các phi trường dân sự thương mãi lớn nhất tương đương với vài
đường xe ra ở chỗ đậu xe kẹt nghẽn, các
máy bay phải xếp hàng để có cơ hội vào các hành lang hẹp, quân sự kiểm sóat cho
phép bay. Và kiểm sóat quân sự hầu như gần hết mọi không gian nơi phi cơ đến, có
nghĩa là các chuyến bay ở Trung Quốc, ngay cho cả các hảng quốc gia ưa chuộng, đôi khi phải bay những đường gián tiếp, tương đương vụ
xe hơi phải chạy quanh thành phố ở các đường vòng quanh xa lắc, xa lơ.
Kiểm sóat không vận không hiệu quả và các sử dụng không phận là nguyên do chánh khiến các chuyến bay hay
chậm trễ ở Trung Quốc hơn là ở các nước khác.
Vì vậy xếp đặt lịch trình thời gian chuyến bay, số dặm Anh phải bay cũng
dài hơn ở Bắc Mỹ hay ở Âu Châu. Cũng như vì sao họ lại đốt cháy nhiên liệu hai
lần hơn cho mỗi dặm Anh hành khách ở vài chặn bay, so với các đối giá Âu
Châu hay Bắc Mỹ. Di chuyễn bằng hàng không dân sự ở Trung Quốc
có thể nới rộng đáng kể, không làm tăng phát thải, nếu hệ thống đi lại không
vận ở nước này họat động như thể cách
chúng được điều hành ở phần thế giới còn
lại. Tình trạng giống như gánh nặng Trung Quốc di hưởng ở ngành xây cất là tàn dư kiến trúc thời Mao Trạch Đông và những năm cải cách sớm sủa đã xây cất quá
tồi tệ và cách nhiệt yếu kém khiến chúng phải sử dụng hai lần hơn năng
lượng các đối giá tây phương để sưởi ấm và làm mát. Thay thế các xây cất đã cũ
này bằng các cấu tạo cận đại xanh hơn cần nhiều năm và hàng tỉ đô la Mỹ. Trái
lại các đường hàng không xài phí có thể
sửa chửa rẽ tiền hơn, chỉ qua đêm mà thôi.
Còn có một trừng phạt xài nhiều nhiên liệu hơn do quân sự kiểm sóat
không gian gây ra. Các hàng không cận đại thường
càng họat động hửu hiệu hơn, khi chúng bay càng cao hơn. Với tốc độ lớn và
trọng lượng đồ sộ, chúng tạo ra một lê thê – drag không cân xứng, nếu chúng
bay xuyên qua một khí quyễn tương đối
dày đặc dưới 20 000 bộ Anh ( # 6700 m ). Đơn giản là xài thêm nhiên liệu để vượt qua sức kháng cự của
gió. Ở khắp mọi nơi khác Trung Quốc, các
máy bay phản lực dân sự thương mãi nay bay “dạo chơi – cruise” ở cao độ 30 000 bộ Anh ( 10 000 m ) hay cao hơn nữa. Ở Trung Quốc, quân sự có thể
giới hạn máy bay phản lực bay ở 10 000 bô ( # 3400 m ) hay 15 000 bộ ( 5000m
), nơi chúng trở thành tương đương với
những kẻ hút nhiều xăng- nhiên nhiệu – gas- guzzlers .
Chấm dứt xài phí thẳng thừng này sẽ đòi
hỏi có sự cộng tác của giới quân sự Tàu,
nhưng cũng phải gia tốc xuyên qua một kỷ thuật mới về nghề hoa tiêu căn cứ
trên một áp dụng của cuộc
cách mạng GPS đã biến đổi mọi hình thức di chuyễn khác. Khi “
công cụ học tập lái máy bay”đầu tiên
được tạo ra ở Bắc Mỹ vào thập niên 1920,
chúng là những lửa trại mở toang hay là
những lóe sáng trong giỏ, dẫn đường cho
các phi công thời Lindbergh, có thể cố tâm theo dõi từ điểm định hướng này đến điểm kế tiếp. Đến thập niên 1930 , các máy bay đã có công
cụ hướng dẫn thật sự đầu tiên, tuy có phần thô hào. Đó là “4
rặng dài đường rađiô “ trong đó một
nhóm tháp phát thanh mã số Morse
cho từ ngữ A hay N – A là gạch ngang chấm - dotdash và N là chấm gạch ngang – dashdot và các phi công tính
hướng bay theo từ nào họ nghe
được ( một âm thanh đặc
phối hợp Avà N), có nghĩa là ho
đang đi đúng hướng) . Đến thập niên 1950, thể thức được
hệ thống VOR ( rặng dài gom mọi hướng - omnidirectional range tần số rất cao – very high frequency )
thay thế, nay vẫn còn là chỗ dựa chánh cho
định hướng bay ở đa số quốc gia trên thế giới. Đây là một mạng lưới đèn
hiệu gửi đi những tín hiệu khác nhau cho
mỗi một độ của 360 độ la bàn –
compass , cho nên các máy bay có
dụng cụ đứng đắn có thể bay, chẳng hạn
90-độ “ xuyên tâm- radial”-
nhắm đúng đông - từ một trạm hay 270
xuyên tâm - nhắm đúng tây - từ một trạm khác.
Nhưng nhờ GPS đang tới, một cuộc cách mạng thật sự của di chuyễn trên không đã có thể xảy ra.
Đối với xe hơi, GPS đơn giản có nghĩa là chúng ta không còn lạc đường
nữa ( ngay cả những ai biết là một hàng xóm có thể cải thiện tùy theo các gợi ý
của giọng nói ở linh kiện ). Cho chuyễn vận trên không, GPS cống hiến một lọat
cải thiện liên hệ . Rỏ rệt nhất là dẫn đường trực tiếp hơn, cắt đi những góc
gián tiếp, những đường đi lởm chởm VOR đánh dấu, thành quả là tiết kiệm thì giờ,
nhiên liệu và phát thải. Một lợi ích khác là giảm bớt thừa tố phi trường quấy
nhiễu, ở các thành phố lớn. Phối
hợp cách đọc GPS đúng giờ thật sự rất chính xác, có thể định vị trí ngay cả
một máy bay bay nhanh
trong một không gian vài bộ Anh ( chưa đầy 1m ) và các hệ thống mới tự động lái phức tạp theo dõi được lối bay
định nghĩa rất chặc chẻ, nay đã giúp các máy bay theo những lộ trình bay kỉểu trượt dốc tuyết -slalom style
qua bầu trời, từ trước chưa bao giờ nghĩ
là có thể làm được.
Đi lại máy bay căn cứ trên VOR xưa cũ hơn, thịnh hành khắp thế giới cho
đến đầu thập niên 2000, đường bay đi từ
một điểm đến điểm kế tiếp rộng 8 đến 10 dặm Anh. Đó là biên tế sai
lầm giúp các máy bay bay ngang qua các không
phận quốc gia. Nay các lộ trình bay các
hảng hàng không có thể bay- lúc cất cánh
hầu tránh những vùng nhạy cảm tiếng ồn ào
của một thành phố lớn hay khi hạ cánh, hầu tránh núi đồi hay tháp trên
đường đi đến một nơi đáp xuống khó khăn hay xa xôi - có một biên
tế sai lầm chỉ bằng một
hay hai cánh máy bay, nghĩa là vài trăm bộ Anh thay vì cả chục ngàn bộ.
Vậy tại sao phải lưu ý đến vấn đề ? Trước hết là giảm bớt tiếng ồn, vì
nay các máy bay đã có thể theo các lối
mòn chính xác giảm thiểu
rối lọan hàng xóm. Nhưng tiết kiệm nhiên liệu cũng đáng kể. Khi lối mòn mới đã được tính
tóan để máy bay lướt đi liên tục xuống
phi đạo, giai đọan cuối cùng đáp xuống phi trường, liên quan đến hạ
thấp nhiều lần một đáp xuống bậc
cầu thang, đòi hỏi chỉ một phần ba nhiên liệu so với phương pháp qui ước.
Đọc
GPS đúng thời gian thật sự Real Time
readings và những hệ thống lái tự động phức tạp, nay giúp cho các máy bay bay
những lộ trình trên không , trước đây tưởng
là không thể nào tưởng tượng ra được
.
Những lợi lộc này áp dụng mọi nơi
và các phi trường Tây Âu và Úc Châu, đã dẫn đầu việc thiết lập chúng ( Phi
trường Hoa Kỳ lê thê sau xa ). Thế nhưng
cuộc cách mạng trong hướng dẫn máy bay còn có một dính líu cho Trung Quốc lưu tâm lớn : Nó hứa hẹn
đưa những vùng xa xôi hẻo lánh
nhất ( và nhạy cảm chánh trị ) Trung
Quốc đến nơi máy bay tới được từ phần
Trung Quốc còn lại.
Miền Tây Trung Quốc chiếm phân nữa nước Tàu, từ Tân
Cương- Xinjiang ở phía Bắc đến Tây
Tạng – Tibet và Vân Nam – Yunnan
ở phía Nam
là đất cấm. Các vùng này gồm luôn vài
lảnh thổ Tàu núi non hiểm trở nhất thế giới ,và bay qua rất nguy hiểm do nhiều
lý do rỏ rệt : đỉnh cao, giông tố dữ
dội, gió thổi vù vù. Nhưng cũng có một lý do ít rỏ rệt hơn. Những dụng cụ hướng
dẫn chuyến bay, đã giúp máy bay tìm đường đi
dù thời tiết xấu hay địa hình đe
dọa và giúp các nhà kiểm sóat theo dỗi tiến triễn bay đã từ lâu tùy thuộc các
cơ sở thiết lập ở mặt đất. Không có vấn đề gì cả để có trạm radar và các đèn
hiệu đi lại điểm chấm theo những khỏang
cách vài tá dặm Anh tất cả xuyên ngang Bờ biển Tây Hoa Kỳ hay
cũng như qua Bờ biển Đông Trung Quốc. Nhưng là một thách thức đồ sộ giữa các núi và cao nguyên cao ngất Tây Tạng.
Các luồng rađar và tín hiệu đi lại căn cứ
tại mặt đất, du hành theo đường thẳng hàng, cho nên chúng không thể đến được
các thung lũng giữa các dãy núi. Các nhà kiểm sóat đi lại trên không để tìm máy bay, và các phi
công tìm tín hiệu chuyễn vận, cả hai đều
mù lòa thật sự khi một núi nằm ngay giữa
vị trí rađar và máy bay.
Thế cho nên miền Tây Trung Quốc mãi đến gần
đây, thật sự ngòai vòng rặng du hành không gian đáng tin cậy. Đi lại khó khăn đến nổi các máy bay thường chỉ bay vào lúc thời tiết
tốt, yên tĩnh và thời tiết ở đây lại ít khi tốt đẹp và yên tĩnh. GPS cống hiến
lần đầu tiên một viễn cảnh hướng dẫn đến các vùng xa xôi hẻo lánh khỏi cần xây dựng một mạng lưới trạm rađar và đèn hiệu dọc theo đường bay. Sự
đến gần đây hơn của những hệ thống chính xác cao, gọi tập thể là hiệu năng đòi hỏi đi lại cao –
required navigation performance (
RNP ) cũng gần quan trọng như thể phương
thức an tòan cho phép ( hay hửu hiệu nhiên liệu ), ở bất cứ thời tiết
nào, đến những phi trường hẻo lánh, cấm kỵ nhất trên thế giới. Naverus, một
công ty nhỏ, tọa lạc ngòai thành phố Seattle ,
nay là thành phần của tổ hợp GE, đóng
một vai trò chánh trong việc mở toang các phi trường Tàu. Đây cũng là một minh
họa hội nhập ít khi xuất bản các hệ thống hàng không Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Vào thập niên 1990, trưởng phi công Steve Fulton hảng hàng không Alaska Airlines họat động với
FAA và các chức quyền Alaska để họa kiểu phương thức RNP đầu tiên trên thế giới. Dùng cho phi trường Juneau có nhiều dãy núi bao quanh gần đó, khi thời tiết xấu gần như thường
xuyên nên không đáp xuống được. Những hệ
thống chuyễn vận truyền thống không đủ chính xác, để phi cơ
tránh được núi, khi máy bay hạ thấp đáp xuống phi đạo.Vì lẽ không có đường xá
nào nối liền Juneau với phần bang Alaska
còn lại hay Bắc Mỹ, phải đóng cửa phi
trường thường xuyên là cả một vấn đề lớn.
Phương thức RNP mới của Fulton cho Juneau, làm một bộ chính xác những điểm đường-waypoints cho phi công tự động trên máy bay theo
dõi khi máy bay uốn khúc ở địa hình bội bạc, giúp đáp xuống an tòan xuyên qua
mây và sử dụng như thể một ý niệm
chứng minh – proof -of-concept làm cho các phi trường “vô hy vọng –
impossible” dễ đến hơn. Sau đó, ông và nhóm ông đã thiết lập hơn 30 phương
thức RNP tại các phi trường Alaska .
Năm 2003, một trưởng phi công hảng hàng
không Alaska khác tên gọi Hal Anderson và doanh nhân cao kỷ Dan Gerrity, Fulton thiết
lập Naverus để phát triễn các phương
thức RNP cho các phi trường có địa hình khó khăn. Họ đã
đọat các khế ước ỏ Brasil, Canada , Úc Châu, Tân Tây
Lan – New Zealand và Hoa Kỳ. Họ
cương quyết tiến vào Trung Quốc. Năm
2007, họ đã hòan thành một dự án lịch sử cho Bắc Bình và đang sửa sọan
một dự án khác sắp hòan tất là một phương thức cho một trong những phi trường cao nhất và khó
khăn nhất thế giới : Lâm Di ? – Linzhi ở Tây Tạng. Phi đạo ở cao độ 8670 bộ Anh
ở như phi trường cao độlớn nhất
Bắc Mỹ ở Leadville, bang Colorado. Leadville
là một khu định cư khai thác quặng mỏ
nhỏ bé chừng 2000 người , trong khi Linzhi là một hợp nhất thành phố chánh ở
cao nguyên Tây Tạng. Mưa đến 300 ngày một năm ỏ Linzhi và ở phần thời gian còn lại ít khi trời đủ tốt
để hạ cánh dưới “Thể lệ
Bay Nhìn mắt – Visual Flight rules” hay VFR , đòi hỏi phải nhìn đủ rỏ cho các
phi công tìm ra đường bay không cần khí cụ hướng dẫn xuyên qua
18000 ( 6000m )- 20 000 bộ(# 6700m ) vách đứng dọc theo các thung lũng hẹp ở
LinZhi. Lhasa
là phi trường tiếp theo phía Tây , cách
Linzhi 200 dặm Anh ( trên 320km ). Bangđa một thị trấn ở Tây Tạng hẻo lánh hơn nữa có một phi
trường thương mãi cao độ nhất thế giới , khỏang 200 dặm Anh về phía
Đông Bắc. Vì địa hình xung quanh dốc thẳng đứng quá đổi, chỉ rất ít máy bay nhẹ
đáp xuống được Linzhi. Không một máy bay chuyên chở nào đáp xuống được phi đạo
Bangđa. Cũng như mọi dự án hạ tầng cơ
sở ở Trung Quốc, phi trường mới Linzhi lớn có phi đạo
rộng rải đã được xây dựng trước
tiên, sau đó mới đến lượt các câu hỏi thực tiễn về khả thi. Fulton
cho biết: Họ nhắm lựa chọn một vị trí và
xây dựng ngay phi trường. Sau đó, các nhân
viên điều hành mới nhìn quanh xem thử ai
có thể bay đến đó được.
Sau khi Fulton và
nhóm ông thuyết phục được các chức quyền
không vận để nhóm ông thử phương thức cho Linzhi, bản thân ông nhìn nó lần đầu tiên. Ông bay
tới Lhasa , và lái xe
10 giờ hướng về đông trên những
đường núi non ngoằn ngèo đến Linzhi. Phi
trường này trông rất đẹp và cận đại, phi đạo dài, trải đá tốt đẹp. Nhưng trạm ga gần như trống không . Ông nói :
họ có 5 xe chửa lữa, đường bay phản lực
nhưng không có họat động nào cả. Bước
tới là ông sử dụng chính GPS cầm tay của
mình để khởi sự các đo lưòng chính xác
của vị trí và cao độ một diện tích đáng
kể quanh phi trường. Các người
ngọai quốc không được phép làm kiểu bản
đồ như thế ở Trung Quốc vì lý do an ninh xứ sở. Fulton giải thích là ông phải làm các đo
lường này vì các bản đồ Tàu thiếu chính
xác hay sai lầm. Qua tiến trình này, Fulton nghĩ rằng chính người Tàu đã bắt đầu nhìn thấy tầm quan trọng của thông tin địa
hình chính xác . Nếu sai lầm, máy bay
bạn sẽ rơi vỡ !... Sau 18 tháng , phương thức mới được họa ra và các phi công
tự động xử sự tốt -trên bắt chước - simulations . Đến ngày 12 tháng
7, năm 2006. Fulton
nối gót một nhóm phi công Tàu và các chức quyền
hàng không trên máy bay Air China 757 , làm chuyến thử nghiệm lịch sử đầu tiên bay đến Linzhi. …
Khi hạ cánh thành công ở Linzhi,
15 chức quyền chỉ huy Air China và Cơ quan Hàng Không Trung Quốc CAAC vổ tay hoan
hô. Phi công trưởng Air China Jiang nói với Fulton là ông hòan tòan tin tưởng vào kỷ
thuật mới này ! Fulton cho biết thêm là tất cả chúng tôi thảy đều biết là từ bộ
trưởng trở xuống đều sẽ bị lột chức, nếu
phi cơ rơi vỡ …Tiếp theo Naverus thắng các khế ước đấu thầu phát triễn nhiều
phương thức cho Trung Quốc, khởi đầu bằng
Bangđa ở cao độ 14219 bộ Anh, rồi
một phi trường Tây Tạng khác là Nagqu cao độ lớn hơn nữa, sẽ khai trương năm
2015. Doanh vụ thịnh vượng đến nổi GE
mua lại Naverus cuối năm 2009, nay gọi là Dịch vụ GE Aviation PBN. Boeing và Airbus nay cũng có chi nhánh riêng cho hảng họat
động theo phương thức RNP. Có một cuộc
chạy đua hầu bao phủ Trung Quốc theo những hệ thống không vận, sẽ giúp cho du
hành tới các vùng hẻo lánh an tòan hơn, đáng tin cậy hơn và hửu hiệu nhiên liệu
hơn.
Nhiên
liệu căn bản là tảo - algae có thể trên nguyên tắc giúp các máy bay bay ở vài
căn bản gần kề “trung hòa tính carbon – carbon neutral”.
Giải pháp tiềm năng khác cho vấn đề ô nhiễm
thất khó đánh giá , nhưngFulton
tin tưởng phần nào : đổi sang tảo như
thể là một nguồn nhiên liệu tương lai
cho phản lực. Và ở đây,Trung Quốc có thể
đang dẫn đầu. Trong cố gắng phát triễn
các nguồn ít carbon hơn,Trung
Quốc đã trở thành quỷ tích những cố tâm
của Boeing và các hảng khác trích nhiên liệu hửu hiệu hơn từ các nguồn sinh học. Ý niệm không có gì là bí mật cả. Rong tảo,
tương tự vài thực vật phức tạp hơn, sản xuất
hydrocarbons có cơ chuyễn hóa thành một dạng dầu lữa. Nhiều lọai tảo sản xuất
một thứ sáp paraffin chứa nhiều dầu lữa.
Các trầm tích nhiên liệu hóa
thạch bình thường ít khi chỉ là những
mảnh còn lại của khủng long. Chúng thường
từ các lớp tảo hóa thạch xưa cũ.
Mẹo vặt là nuôi trồng tảo thu họach dầu tảo ở kích thước đủ lớn và phí tổn thấp, để có thể thay thế dầu lữa . Nhũng dự án theo
hướng này đang thực hiện khắp thế giới. Đa số làm ở Hoa Kỳ được
Bộ Năng lượng Mỹ và Ngủ Giác Đài
bảo trợ và hổ trợ, vì cả hai bộ này đều xem trông cậy vào nhập khẩu dầu
lữa là nguy hiểm nghiêm trọng. Ở Trung Quốc, cố gắng chánh do Boeing và Chánh phủ Tàu chung sức . Khi một động cơ đốt cháy nhiên liệu từ tảo, nó chỉ phát thải CO2 như thể là
nó đốt nhiên liệu bơm ngay từ
Vịnh Ba Tư . Thế nhưng
tảo sẽ lấy ra ít nhất cũng nhiều CO2 của khí quyễn như
vậy, khi tảo tăng trưởng. Cho nên theo
nguyên tắc, và với cho phép về thiếu hửu hiệu và phí tổn thấp ở tiến trình sản xuất, nhiên liệu tảo có thể
giúp cho máy bay, bay trên một cái
gì gần căn bản “ trung hòa tính carbon” , cũng đôi khi được gọi là họat đổng ở
“ chu kỳ carbon hiện hửu” ( nghịch lại “ chu kỳ carbon hóa thạch” đốt
cháy than đá hay dầu lữa ).
Biện cứ của ngành không gian cho các
nhiên liệu sinh học mới đã kể đến tai họa ethanol Mỹ thập niên 2000 . Trên
một sai lầm cận đại chánh sách tồi tệ, chánh phủ Hoa Kỳ đã trợ cấp cho nông dân
Mỹ trồng mùa màng , phần lớn là bắp –
ngô có thể chuyễn hóa thành ethanol và
pha trộn thành các nguồn cung cấp xăng. Điều này vô nghĩa theo thuật ngữ
hửu hiệu năng lượng. ( vì phải
dùng thêm năng lượng để trồng bắp,
bón phân hóa học , thu họach và chế biến
bắp nhiều hơn là năng xuất bắp ) . Cũng vô nghĩa theo thuật ngữ kinh tế, ngòai
trừ trợ cấp cho nông dân và doanh vụ
nông nghiệp. Cũng vô nghĩa theo đạo đức vì đã thay cách dùng bắp sử dụng dành cho người và làm thực phẩm cho động vật, biến bắp
thành nhiên liệu chuyên chở. Cho nên tiêu
chuẩn ngành không gian là cố tìm các nhiên liệu sinh học không cạnh tranh trực tiếp hay gián tiếp với nguồn cung cấp
thực phẩm cho người, tiêu biểu cho tiết kiệm
carbon thật sự mà ethanol căn bản
là bắp không bao giờ làm được, và có
cơ trồng trọt vững bền, thu họach mà
không làm khô cạn nguồn cung cấp nước hay làm tai hại trong dài hạn.
Dù
cho lọai nhiên liệu sinh học nào ngành công nghệ không gian tạo ra đi
nữa, chúng phải chứa đựng một số lượng năng lượng tương đương như thể các nhiên liệu hiện hửu ,
giúp cho các máy bay
to lớn và nặng cân ngày nay có
thể bay với tốc độ sánh ngang nhau. Nó
cũng phải thích nghi với họa kiểu và kỷ
thuật các động cơ phản lực hiện thời. Cũng
như thích nghi với hạ tầng cơ sở khắp thế giới ngày nay về tồn
trữ và phân phối nhiên liệu. Rắc rối hơn
hết là nó phải hóan đổi được nhau với
nhiên liệu phản lực ngày nay được dự trữ
ở các phi trường quanh thế giới . Bạn
phải đủ khả năng rời Bắc Bình với thùng xăng đầy nhiên liệu sinh học, đi tới
Lima xứ Peru, đổ lại đầy nhiên liệu bình thường rồi bay trở về. Bạn không
thể để máy bay kẹt lại Lima ,
vì nó không sử dụng được nhiên
liệu bình thường.
Theo tiến trình gạt bỏ, những tiêu chuẩn này
đã dẫn đến tảo. Trên nguyên tắc, tảo có thể sản xuất 10 lần nhiều nhiên liệu hơn là dầu cây cọ dầu – oil palm tính theo ha
diện tích. Cọ dầu đa số trồng trên đất đai rừng nhiệt đới bị chặt đốn tận gốc ,
đậu nành – đổ tương , bắp hay cây trồng khác
có thể dùng làm nhiên liệu sinh học.
Tảo mọc và sản xuất dầu nhiều lần mau lẹ hơn là các cây cỏ- thực
vật phức tạp hơn . Chu kỳ một mùa tảo chỉ cần vài ngày thay vì nhiều tuần lễ , nhiều
tháng. Tải có thể mọc trên đất hòan tòan khô cằn hay vô dụng
và ở nước quá ô nhiễm hay lợ ( hơi mặn ) cho
bất cứ mục đích nào cho người hay cho
nông nghiệp. Nhiên liệu cho tòan thể thế giới chỉ cần một diện tích cơ sở tảo kích thước
quốc gia nhỏ bé như Bỉ- Belgium chẳng hạn. Nhiều nhà khoa học Tàu hay Mỹ tỏ vẽ hòai nghi về nuôi trồng tảo có thể trở nên thực tiễn mau lẹ hay đủ khả năng lo liệu như thế hay ở kích thước cần thiết. Tuy nhiên , theo
ước tính Boeing, giả thiết là giá vững bền một thùng dầu lữa là 90 đô la Mỹ
hay cao hơn nữa, sẽ làm cho nhiên liệu
căn bản là tảo thực tiễn, trên phương diện kinh tế, một khi kỷ thuật sản
xuất được cải thiện. Giá cả dầu lữa thế giới lên đỉnh cao 140 đô la một thùng ngay trước khi tài chánh thế giới sụp đổ cuối năm 2008. Trong khủng hỏang, chúng đã trụt xuống
rất thấp hơn 30 đô la một thùng,
nhưng leo lên lại đến 80 đô la vào đầu năm 2010 và dừng lại ở mức này suốt năm
2011.
Boeing hiện
đang họat động cùng một lọat cơ sở khảo
cứu quốc doanh khắp Trung Quốc về các dự
án nhiên liệu vững bền, đặc biệt liên hệ đến tảo ( Đại học Cần Thơ giỏi nhất nước về tảo nghĩ sao ? ) . Các viện đại học và các viện kỷ thuật Tàu là những nơi lảnh đạo thế giới về khảo cứu
tảo, đặc biệt là Viện Năng lượng sinh
học và Chế biến Sinh học viện Hàn Lâm
Khoa học Thanh Đảo -Qingdao. Nơi đây là chỗ tựa của hy vọng thế giới làm cho ngành hàng không thế
giới vững bền môi sinh hơn. Đa số tin
tức tồi tệ hay tốt đẹp nhất về môi sinh
thế giới phát sinh từ Trung Quốc . Đáng
cho chúng ta lưu ý đến các tin tức tốt !
( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ ngày 20 tháng 4 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét