Việt Nam học được gì ở chánh sách vĩ mô phát triển Brasil ? :
Brasil phải thay đổi, không còn có thể phát triển ổn định dễ dàng ở những thị trường đang trỗi dậy và và giá cả hàng hóa nguyên liệu cao đã hết thời ?
Say sưa hàng hóa
Mười năm qua, các thị trường toàn cầu đã phát triễn một thèm muốn không
thõa mãn nổi đầu tư vào các quốc gia thị trường đang trổi dậy, đặc biệt những nước
như Trung Quốc đang mua các cung cấp năng lượng
và tài nguyên thiên nhiên ( những hàng hóa này hiện chiếm khoảng
30% tiền
của các thị trường cổ phần
chứng khoán quốc tế ). Theo một lôgic
sau lưng khuynh hướng này, trong lúc
Trung Quốc tiếp tục phồn thịnh, tiêu thụ không ngừng tăng gia số lượng dầu lữa, đồng, quặng sắt và các nguyên
liệu thô khác, các quốc gia như Brasil, nhà xuất khẩu lớn nhất các hàng hóa này,
cũng có thể phồn thịnh lên. Là một
thể chế dân chủ ổn định, Brasil tuồng như ưa chuộng một đầu tư an
toàn và vụ khám phá những bồn dầu
lữa chánh ngoài khơi bờ biển Brasil có thể tô thêm ánh vàng kim cho hình ảnh phát triễn.
Thế nhưng phía sau các mạch vĩa
nguyên liệu hoa văn này, nhiều vấn đề khó khăn đã lộ diện. Cho một quốc gia được xem là đang tiến vào địa
vị một trong những cường quốc kinh tế chánh trên thế gíới, Brasil đã tỏ ra
rất cẩn trọng. Hầu bảo vệ công dân mình khỏi
hổn loạn kinh tế làm điêu đứng thế giới suốt cuối thế kỷ thứ 20,
Brasil đã phát triễn hai chánh sách ký hiệu – sác
xuất tiền lãi cao để kiểm soát lạm phát
và một tình trạng an sinh cung cấp một lưới an toàn xã hội- đậy nắp
mũ che dấu hạn chế phát triễn. Thật thế,
kể từ đầu thập niên 1980, phát triễn
Brasil đã lắc lư quanh trung bình là 2.5%
một năm, chỉ tăng lên khi giá các hàng hóa tăng. Ngay cả ở thập niên vừa
qua, khi tăng trưởng Brasil lên trên
4% và tổng thống Lula da Silva ca ngợi
Brasil đã đến “một thời kỳ huyền diệu”, Brasil vẫn chỉ tăng trưởng ở
mức phân nữa của Trung Quốc , Ấn Độ và Nga .
Lãi
xuất cao ở Brasil cản trở phát triễn quốc gia khiến Brasil không thể làm
bất cứ điều gì, vì lẽ mọi sản xuất đều giá quá cao. Cung cấp một tiền lời chừng 10% vốn đầu tư, những lãi xuất
này hút dẫn tư bản ngoại quốc, nhưng dòng
đầu tư này lại làm tăng giá trị đồng real (đơn vị tiền tệ Brasil ) , biến đồng real thành một loại tiền tệ đắt
nhất thế giới. Thành quả, các tiệm ăn
ở thành phố Sao Paulo còn đắt hơn cả Paris,
và giá thuê phòng làm việc cũng cao hơn ở New York.
Phòng khách sạn ở thành phố Rio de Janeiro cao hơn cả giá phòng dọc
theo Bờ biển Riviera ( Côte D’ Azur) Pháp,
tiền thuê xe đạp đắt hơn giá thuê ở Amsterdam và
giá vé xi nê cao hơn giá vé ở thủ đô Madrid.
Cùng
lúc, giá đồng real đắt tăng cường giá cả
các xuất khẩu từ Brasil làm cho Brasil mất hết tính cách cạnh tranh ở các thị
trường tiêu thụ toàn cầu. Dù rằng nhiều đồng
tiền tệ các thị trường chánh đang trổi dậy đã tăng lên đối với đồng đô
la Mỹ đồng real tự làm thành một loại riêng biệt , tăng lên 100%. Điều này có
thể giúp ngành chế tạo ở Hoa Kỳ, nhưng lại
tai hại cho ngành chế tạo Brasil, ở nước này ngành chế tạo chiếm đỉnh cao 16.5%
GDP năm 2004, và đã tụt xuống còn 13.5 %
cuối năm 2010. Rất ít quốc gia đang mở mang đã giữ vững mức tăng trưởng mau lẹ ngay cả trong
một thập niên thôi, không nói đến
hai hay ba thập niên, và hầu như các quốc gia này nếu có tăng trưởng mau lẹ đi nữa, đã làm như vậy bằng cách nới rộng
chia phần với ngành chế tạo tòan
cầu, chứ không phải cởi trên làn song giá
cả hàng hóa.
Tuy nhiên, Brasil đã chọn lối mòn
vừa kể này. Trong thập niên
qua, tăng trưởng Trung Quốc đã thực hiện nhờ tiêu thụ
mạnh mẽ nhất thế giới các nguyên liệu thô công nghệ và Brasil đã trông cậy
vào bùng nổ này: năm 2009, Trung Quốc vượt Hoa Kỳ thành một chung sức thương mãi lớn nhất của
Brasil. Chiếu theo thành công vững chắc của Trung Quốc, ít ai chờ đợi là kinh tế Trung Quốc sẽ chậm đi và xét đến tình trạng Brasil liên hệ. Thế nhưng
trì trệ kinh tế Trung Quốc nay đang
xảy ra. Tháng 3 năm 2012 , Bắc Bình tuyên
bố là sác xuất tăng trưởng của mình năm
2012 sẽ rơi xuống dưới 8%
lần đầu tiên kể từ 1998. Không lấy
gì làm ngạc nhiên là vào thời gian này,
thủ đô Brasilia cũng tuyên bố là sác xuất tăng trưởng của
Brasil cũng tụt xuống dưới 3%.
Tăng trưởng Trung Quốc chậm rải đi làm dấu hiệu chấm dứt một thời đại trong đó
các thị trường đang trổi đậy đã có những triễn khai mau lẹ
bất thường, do một thác suối tiền tệ thúc đẩy bắt đầu tuôn ra khỏi Hoa Kỳ
năm 2003 khi Qũi Dự Trữ Liên
Bang, -(Ngân Hàng Quốc Gia Hoa Kỳ) -
Federal Reserves tìm cách làm cho nền
phục hồi Hoa Kỳ vững chải hơn
từ việc tụt dốc dot- com. Trải qua 4 năm tiếp theo , sác xuất tăng trưởng trung bình ỏ các thị trường đang trổi dậy lên
gấp đôi đến 7.2 % , và khắp toàn cầu ,
thời gian các triễn khai - nới rộng kinh tế trung bình cũng kéo dài thêm từ bốn năm đến 8 năm , Nay, vì là hậu quả của khủng hoảng tín dụng năm 2008 tiếp tục mở toang thêm ra, tiền dễ dãi khô cạn hẳn đi. Các nhà đầu tư sẽ phải ngưng đổ tiền vào các quốc gia có thị trường đang
trổi dậy như thể là một loại hạng và thay vào đó, bắt đầu định giá xem thị trường nào vẫn còn có cơ thành công ở một thời đại mới của triễn khai- nới rộng chậm trải và không đồng đều .
Tăng trưởng bé choắt
Vì chưng khuynh hướng giới hạn phát triễn của mình, Brasil là một nơi tốt đẹp
cho các nhà đầu tư khởi sự cuộc định giá này . Brasilia lo sợ việc kinh tế quá nóng hổi nguồn gốc từ lịch sử khủng hoảng tài chánh lâu dài xứ sở
, khi chánh phủ
tiêu xài quá nhiều đã sản xuất ra
nhiều vụ không trả nợ nổi và phá giá
đồng bạc. Chu trình đụng đáy đá suốt một chục năm siêu lạm phát, đến đỉnh cao năm 1994, rồi khi giá cả tăng
2100 % - nhanh đến nổi chi phiếu trả tiền sẽ mất đi 30% giá trị
khi doanh vụ có thể đem phiếu bỏ
vô nhà băng và dân lao động lấy ngay tiền mặt của chi phiếu trả lương chạy
đến tiệm mua thực phẩm, trước khi giá cả tăng thêm.
Năm 1995,
chánh phủ Brasil cuối cùng ngăn
được xoắn ốc siêu lạm phát
bằng cách dẫn nhập đồng
real và
đặt nó dính theo đồng đô la Mỹ.
Nhưng đồng tiền tệ mới không xóa
bỏ được tính dễ bị thương của lạm phát
Brasil thường lệ, vì Brasil đã quen thói
nghiện ngập quốc gia tiêu xài quá đáng. Tổn
thương siêu lạm phát càng làm sâu đậm thêm mối Brasil cam kết xây đắp một
quốc gia an sinh hoàn toàn. Hiến pháp thông qua năm 1988, bảo đảm săn sóc
y tế và giáo dục đại học miễn phí và lương
tối thiểu xứ sở nay cao đến nổi chỉ áp dụng
được cho một người trong ba người làm việc. Trong thập niên 1980, giá cả tăng như tên lữa, lọt ra khỏi vòng kiểm soát một phần vì chánh phủ cố tâm giảm bớt gánh nặng tài chánh trên công dân
Brasil, bằng cách nối kết đồng lương với
giá cả gia tăng. Điều này tạo
ra một chu trình ngổ nghịch
là lúc nào giá cả tăng thêm nhiều,
thì lại khởi động tăng lương, rồi khiến các chủ nhân lại phải tăng giá. Năm 2003, dưới trào Lula, Brasilia
mở rộng thêm những bảo vệ lợi tức kiểu này, khi Brasil tung ra chương trình “ Chợ Gia Đình - Bolsa Família” , có lẽ là một chương trình an sinh hào phóng nhất tại các nước thị trường đang trổi dậy. Sáng
kiến cống hiến lợi tức tiền mặt có điều kiện để hổ trợ dân nghèo
và hổ trợ không điều kiện cho ai
quá nghèo . Giúp đở này đã giảm bớt bất bình
đẳng ở Brasil , nhưng lại tai hại cho phát triễn . Kể từ thời đại siêu lạm
phát, chánh phủ Brasil đã tài trợ lưới
an toàn tăng gia này, bằng cách tăng chi tiêu
như thể là một phần chia sẽ với nền
kinh tế quốc gia, từ chừng 20% ở thập niêm
1980 ( một tỉ xuất điển hình cho các thị trường đang trổi dậy ) đến gần
50% năm 2010 . Brasil đã bảo đảm
việc nới rộng này bằng cách tăng
thuế, nay đã bằng 38 % GDP, mức cao nhất
ở các quốc gia thị trường đang trổi dậy.
Gánh nặng thuế khóa cá nhân và tổ hợp chỉ để lại cho doanh nghiệp ít tiền hơn đầu tư
vào huấn luyện mới, kỷ thuật và thiết bị, dẫn tới
cải thiện rùa bò hiệu năng doanh nghiệp
Brasil. Giữa các năm 1980 và 2000, hiệu năng sản xuất Brasil đã tăng ở tỉ xuất hàng năm là 0.2%, so
với 4% một năm ở Trung Quốc nơi doanh vụ
đầu tư mạnh mẽ hơn nhiều. Đây là một con
đường theo đó ưu tiên xài phí Brasil đã làm cho quốc gia dễ bị lạm phát. Nếu hiệu xuất không tăng, phẳng lì - nói theo cách khác, nếu môt dân lao động không sản xuất nhiều hàng hóa hơn mỗi giờ -
thế thì doanh vụ phải nâng cao giá cả hàng hóa này để trang trải lương bổng gia tăng hàng giờ.
Bắc Bình hay Brasília
Cách hay nhất để
nhìn thấy tại sao lo sợ tê liệt cơn đau
đớn tài chánh đã giử Brasil lại đằng
sau, so với bước tiến tới Trung Quốc.
Hai quốc gia đã áp dụng những phương thức đối nghịch nhau về phát triễn.
Trong khi Brasil chận bớt tăng trưởng ở một thế hệ đã
qua, Trung Quốc đeo đuổi không hề ngưng
tăng trưởng . Bắc Bình mở rộng toang
cánh cửa cho thương mãi toàn cầu, thiết đặt những lãi xuất thấp để cung cấp tư bản rẽ tiền tài trợ hạ tầng cơ sở khẩn thiết, cực trọng cho nền kinh tế xuất khẩu tỉ như đường xá, cầu cống và hải cảng. Những
lãi xuất này cũng giúp đở giá trị đồng
yuan ( nhân dân tệ Tàu ) thấp làm
cho xuất khẩu Tàu cạnh tranh thuận lợi hơn.
Trung quốc xây đắp hệ thống này
tai hại cho công dân mình . Trung Quốc chỉ mới tung ra những chương trình an sinh có nghĩa chỉ để bảo vệ công dân Tàu tránh khỏi những rối loạn thay đổi
mau lẹ gây ra.
Trong lúc đó, Brasil chấp thuận mô hình đối nghịch hẳn, tụ điểm trên ổn định và bảo vệ dân gian mình
thay vì tăng hiệu xuất và tăng trưởng.
Lãi xuất Brasil cao hút dẫn tư bản ngoại quốc và nâng cao giá trị đồng real, làm hại ngầm xuất khẩu và làm chậm nới rộng ( tăng trưởng ) Brasil. Brasilia tiêu xài tư bản, không phải cho đường xá, cầu cống mà là cho an sinh quốc gia. Đó là lý do
phần lớn tại sao cho 30 năm qua Trung Quốc đã phát triễn 4 lần mau lẹ hơn Brasil.
Khác
biệt giữa hai chiến lược đầu tư thật là
rỏ ràng. Ở thập niên qua, đầu tư nội địa Trung Quốc ở mọi điều, từ xưởng máy đến thiết bị và trường học, leo cao hơn bước tiến hai con số hàng năm, đạt gần 50% GDP mỗi năm,
cao hơn bất cứ mọi nền kinh tế chánh thế
giới nào. Thật tế, Trung Quốc hiện nay đầu tư cao hơn cả Hoa Kỳ và Âu Châu hợp lại. Mặt khác, tổng số đầu tư Brasil vẫn duy trì ở mức thấp hơn 19% , một trong những
tỉ xuất thấp nhất ở các thị trường đang
trổi dậy.
Và Brasilia chỉ xài 2% GDP cho hạ tầng cơ sở, một số lượng bé tí xíu
so với tỉ xuất trung bình là 5% ở các
nước thị trường đang trổi dậy và tỉ xuất
của Trung Quốc là 10%.
Thất
bại đầu tư là lý do chánh cắt nghĩa tại sao nền kinh tế
Brasil lại vật vờ và đắt đỏ như thế.
Thất bại xây cất đường xá và hải
cảng làm cho các nhiệm vụ đơn giản, tỉ như di chuyễn khắp nước,
thành cơn ác mộng. Các tay lái xe
cam nhông ( trucks , camions ) chở đường mía từ các đồn điền đến thành phố Santos, hải
cảng lớn nhất Brasil phải thường xuyên chờ đợi hai tới ba ngày ở cổng hải cảng,
vì thiếu kho trữ hàng và các máy
tự động di chuyễn khối đường mía
chở đến. Một nhà cựu điều khiển một công ty một
công ty nông nghiệp Hoa Kỳ chánh
cho biết là hột giống chở tới từ nội địa Brasil xa xăm đến Santos,
sẽ mất mát hoàn toàn khối hột giống
cho rỉ sét và ổ gà dọc đường. Dân lượm lặt
sẽ đi theo các xe cam nhông, và hột giống này có khi được bán ra ở xứ Paraguay.
Nền
kinh tế Brasil đau khổ vì những nút nghẹn
cổ tương tự khắp mọi lảnh vực. Mức đo lường
rộng rải cách nào một nền kinh tế toàn dụng
tổng số dân lao động và thiết bị
, một con số được gọi là tỉ lệ sử dụng
khả năng- capacity utilization rate, nay là 84% ở Brasil, 5 điểm cao hơn trung bình ỏ các nước thị trường đang
nổi dậy và là một dấu hiệu cung cấp chưa
thích hợp. Tiêu xài thiếu thốn cho trường học
thành quả là một thiếu thốn các tay thợ lành nghề. Thông thường, hể một
quốc gia nào giàu có thêm lên, thì sinh viên
lại học ở trường dài ngày hơn. Nhưng ở Brasil, sinh viên ở trường trung
bình chỉ đến 7 năm, tỉ số thấp nhất tại
bất cứ một quốc gia lợi tức trung lưu nào. Ở
Trung Quốc, nghèo khổ hơn Brasil, trung
bình là 8 năm. Thành quả, dù nay thất
nghiệp đã một chục năm rồi khá thấp, chỉ
là 6%, các doanh vụ than phiền là họ không còn lựa chọn nào khác hơn là
thuê mướn những kẻ xin việc không xứng đáng. Trong công nghệ, chế tạo và dịch vụ, thiếu thốn kỷ sư và các lao động kỷ thuật chuyên môn đã làm nền kinh tế khó
khăn.
Tóm
tắt, thiếu thốn đầu tư đã khiến kinh tế
Brasil hay nguội lạnh đi ở một tỉ xuất
tăng trưởng thấp hơn so với các
quốc gia thị trường đang trổi dậy khác; nếu
doanh vụ phải trả thêm tiền thuê mướn các lao động thành thạo, hay di chuyễn hàng
hóa khắp nước, họ sẽ đưa các phí tổn này
lên vai các nhà tiêu thụ. Khi doanh vụ bắt đầu
cạnh tranh với cung cấp không thích
nghi lao động, kho dự trữ hàng, khả năng
chuyên chở và các cần thiết khác, lạm phát sẽ dâng lên vào lúc kinh tế nới rộng, triễn khai. Đối với Brasil, sự kiện này xảy ra khi tăng
trưởng GDP ban đầu đạt mức 4% , nghĩa là
phân nữa tỉ xuất Trung Quốc . Và vì theo
lịch sử, Brasil tăng lãi xuất ngay khi lạm phát chớm nở, như vậy kiềm chế tăng trưởng, Brasil có khuynh hướng ngưng lại
ở mức 4% .
Không còn ổn định được nữa
Brasil đã có khả năng thực hiện mức tăng trưởng 4 % ở một môi trường bất thường
trong thập niên vừa qua, khi quốc gia khởi sự đuổi kịp Tây phương. Trung bình lợi tức mỗi đầu người
Brasil đã rơi từ đỉnh là 25 % trung bình Hoa Kỳ thập niên 1960 xuống 16 %
vào cuối thập niên 1990. Tuy nhiên, ở thập niên vừa qua, con số này bắt đầu leo thang, và nay đã đạt
20%. Nhưng vì yêu cầu hàng hóa suy thoái
đang tới, tỉ xuất sẽ lại sụp đổ một lần nữa.
Arninio Fraga, nguyên chủ tịch Ngân
hàng Trung ương Brasil nói rằng ông lo sợ một “ thập niên mất mát – lost
decade” suy thoái tương đối, tương tự thập niên 1980, nếu Brasil không rủ bỏ “ Gốc Rễ Iberia ( bán đảo Tây Ban Nha
và Bồ Đào Nha) Roots” , những khuynh hướng an sinh quốc gia ngủ gật, tuồng như là di sản từ
thời thực dân Âu Châu.
Tin tức gần đây là tăng trưởng kinh tế Brasil bắt đầu chậm đi, có
thể khởi sự một tranh cải ở quốc gia và
cách nào sửa chửa nền kinh tế phí tổn cao và
tùy thuộc hàng hóa của mình. Dù
cho những chương trình như Bolsa Família
đã giúp làm giảm bớt bất bình đẳng lợi tức, Brasil phải nhận thức rằng không thể thừa hưởng sáng kiến này nhờ thời
kỳ tăng trưởng toàn cầu mau lẹ bắt
đầu năm 2003 là năm sáng kiến khởi sự. Brasil phải và có thể tìm một phương thức cân
bằng ổn định với nới rộng, triễn khai. Nhưng nếu Brasil vẫn còn trông cậy vào xuất
khẩu dầu lửa, đồng, quặng sắt và các hàng hóa , Brasil càng ngày càng sẽ bị dễ tổn thương ví giá cả
hang hóa lay động mạnh mẽ và mức chậm đi
đang tới của Trung Quốc. Vì phồn thịnh của dân tiêu thụ Brasil tùy thuộc quá nhiều vào lợi tức
bán hàng hóa mà thị trường nội địa không làm gối độn (đệm ) bao nhiêu cả, trong sự cố một chậm đi như vậy.
Brasil phải công nhận là thời đại
tăng trưởng dễ dàng ở các thị trường đang trổi dậy và giá cả hàng hóa cao đang chấm dứt. Hầu tránh khỏi bị thụt lùi, Brasilia cần
lấy nguy hiểm và mở rộng thêm nền kinh tế. Brasil có thể bắt đầu làm như
vậy bằng cách chi tiêu ít hơn cho an sinh quốc gia, làm đơn giản hóa luật thuế khóa, mở rộng các căn bản thuế ,
cân đại hóa mức lương nghỉ hưu vô hiệu và những hệ thống an
ninh xã hội. Brasil có thể chuyễn chi
phí này qua giáo dục, khảo cứu và phát triễn và các dự ám hạ tầng cơ sở . Brasil cũng phải xét đến hạ bớt các rào cản thương mãi để đề cao sáng kiến ở những ngành công nghệ
không phải là hàng hóa. Dù là một quốc
gia xuất khẩu chánh, Brasil là một xứ có nền kinh tế được bảo vệ nhất thế giới. Vụ này làm cho thương
mãi Brasil chỉ ở mức 20% GDP , thấp nhất
trong số các thị trường đang trổi dậy. Chấm dứt chánh sách bảo vệ này sẽ đưa cạnh
tranh vào các xưởng máy Brasil, đồng thời cũng
làm hạ giá đồng real, tạo cơ hội cho
một tái sinh ngành công nghệ chế tạo. Hiện
nay, tuồng như Brasil vẫn níu đeo theo ổn
định , đã phải vất vã mới giành được. Thế nhưng nếu Brasil thất bại cải cách, tiến triễn do hàng hóa thúc đẫy, nay mai sẽ bắt đầu bị cuốn sạch mất hết đi.
( chiếu theo Ruchir Sharma , tác giả sách: Breakout nations: In Pursuit of the Next Economic Miracles , nhà xuất bản Norton, Hoa Kỳ năm 2012 )
( Fremont, Bắc Cali, ngày 5 tháng 6 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét