CẬP NHẬT HIỂU BIẾT VỀ TƯƠNG LAI NGÀNH KHÍ DẦU THIÊN NHIÊN VIỆT NAM
G S Tôn thất Trình
Trong 2 hai thập niên
qua , Việt Nam đã trổi dậy thành một
quốc gia sản xuất quan trọng về dầu
lữa ( hỏa ) - oil và khí dầu
thiên nhiên – natural gas ở Đông Nam
Á .Việt Nam đã tăng cường các họat động
thám hiểm dầu và khí dầu, cho phép nhiều
công ty ngoại quốc đầu tư và cộng tác hơn
ở những lảnh vực dầu và khí dầu. Việt
Nam
cũng đã đưa vào nhiều cải cách thị
trường hầu hổ trợ ngành công nghệ năng lượng nước nhà. Các biện pháp này đã giúp tăng sản xuất dầu và khí dầu, thế
nhưng vì tăng trưởng kinh tế mau lẹ , công nghệ hóa và triễn khai
– nới rộng thị trường xuất khẩu cũng
đã thúc đẩy tiêu thụ năng lượng trong nước - nội địa. Tổng sản lượng nội địa – Gross domestic
product ( GDP ) đã tăng trung bình 7.2 % một năm,trong 10 năm qua. Việt Nam
là một nước cung cấp dầu lữa quan
trọng cho thị trường nội địa và trong vùng và có thể
trổi dậy thành một quốc gia cung cấp
khí dầu thiên nhiên đáng kể thập
niên tới. Theo Thống kê Năng lượng
Quốc tế EIA International Energy Statistics, năm 2010 tiêu thụ sinh khối-
biomass, đa số ở nông thôn, chiếm 36%
tổng số năng lượng tiêu thụ ở Việt Nam, dầu lữa 25%, thủy điện 10% ,
than đá 20% và khí dầu 11% . Chúng ta đã bàn qua về sản xuất, tiêu thụ, xuất
khẩu, lọc và sản
xuất sản phẩm( đặc biệt ở bài lạm bàn phát triễn tỉnh Quảng Ngãi ) dầu lữa Việt Nam, nên ở bài này chỉ đề cập đến khí dầu
thiên nhiên.
Tổng quát
Sản xuất khí dầu
thiên nhiên Việt Nam
đã tăng mau lẹ kể từ cuối thập niên 1990
và sử dụng cho thị trường trong
nước cũng đã nới rộng mau lẹ . Theo Tạp chí
Dầu lữa và khí dầu – OGJ , Việt Nam nắm giữ được 24, 7 ngàn tỉ bộ khối- trillion cubic feet ( Tcf ) các dự trữ đã được
chứng minh , tính đến tháng giêng năm
2012 . Dự trữ đã tăng mạnh mẽ kể từ
năm 2007, thành quả một chánh sách năng
nổ của Việt Nam để hút dẫn đầu tư và cấp các khế ước thám hiểm
ở những diện tích ngòai khơi bờ biển Việt Nam . Năm 2010,
Việt Nam sản xuất 290 tỉ
bộ khối – billion cubic feet (Bcf)
hay 0.8 Bcf /d ( day- một ngày) khí dầu thiên nhiên , tăng gấp đôi mức sản
xuất năm 2005 và hy vọng sản xuất sẽ đạt 1.4 Bcf/ d (ngày) vào năm 2015. Hiện nay Việt Nam đã tự túc về khí dầu thiên
nhiên. Dự án Chủ trì Khí dầu Quốc gia - National Gas Master Plan
Việt Nam dự tính là tiêu thụ khí dầu trong nước sẽ tăng từ 290
Bcf năm 2010 lên trên 480 Bcf
năm 2015. PetroVietnam cũng tiên đóan là
yêu cầu khí dầu năm 2025 sẽ vựợt quá nguồn cung cấp trong
nước .
Đa
số sản xuất khí dầu ở Việt Nam
đều được chế biến và gửi tới trực
tiếp cho các nhà máy điện và các nhà tiêu thụ lảnh vực công nghệ. Năm 2008, Việt Nam đã sử dụng chừng 80% sản xuất khí dầu thiên
nhiên để tạo ra điện, số còn lại dùng
làm nhiên liệu cho các lảnh vực công nghệ
và phân bón hóa học. Năm 2010,
khí dầu chiếm 50% yêu cầu điện
tạo ra và 34% khả năng thiết bị tổng cọng phát sinh điện nước nhà. Việt Nam tiên đóan là thành phần điện khí dầu phát sinh sẽ tăng thêm, một khi các nguồn tài nguyên khí dầu thiên
nhiên được khai thác . Các dự án điện khí dầu sẽ nhiều hơn và nhiều đơn vị nhà máy phát điện chuyễn qua dùng khí
dầu. Thị trường khí dầu cũng có thể nới
rộng thêm ra ở miền Bắc và miền Trung
Việt Nam ,
một khi hạ tầng cơ sở ống dẫn dầu và khí dầu phát triễn.
Tổ chức khu vực khí dầu
Cùng như ở khu vực dầu lữa ,
PetroViêtnam ngự trị khu vực khí dầu thiên nhiên. Các nhà chung sức chánh cùng
PetroVietnam liên hệ đến sản xuất và phát triễn tài nguyên khí dầu
thiên nhiên là: TNK-BP, Chevron , KNOC, Gazprom ( Nga),
Petronas( Mã lai Á ), PTTEP Thái Lan ,
Talisman ( Canada ), ExxonMobil, Total
and Neon Energy ( Pháp ). Chevron ( Hoa Kỳ) có lẽ sẽ trở thành công ty sản xuất chánh khí dầu ở
Việt Nam sau khi đã phát
triễn các giếng ở bồn Mã Lai – Thổ Chu(
? ), biển Đông Nam Viêt Nam .
Các công dầu khí khác tỉ như BP và ConocoPhillips mới đây đã rút khỏi đầu tư thượng tầng
khai thác bồn Nam Côn Sơn, và để các
công ty khác mua lại các cổ phần này. Công ty Shell
cũng đã tỏ vẻ muốn gianhập các
thị trường hạ tầng và thượng tầng khí
dầu Việt Nam, kể cả khí dầu thiên
nhiên hóa lỏng – liquefied natural gas( LNG ) và sắp sửa ký một mêmô thông hiểu – memorandum of
understanding ( MOU ) với Việt Nam. PetroVietnam và Gazprom thành lập công ty liên
doanh chiến lược JV - Joint Venture Vietgazprom, nay đang thám hiểm
những bồn khí dầu thiên nhiên chưa phát triễn ở cả hai nước. Công ty PVGas
là cánh tay phải phân phối chánh khí dầu của PetroVietnam. PetroVietnam
và các JV liên doanh điều đình giá khí dầu nội địa với các nhà máy phát
điện và các nhà sử dụng công nghệ, trên căn bản
từng dự án một. Việt Nam
thường cố tình giữ giá khí dầu khá thấp
so với thị trường quốc tế, phần lớn là vì giá điện bán sĩ cũng thấp. Phí tổn
chuyên chở thay đổi tùy theo mỗi đường
ống dẫn và phải được Bộ Công Thương –
Ministry of Industry and Trade chấp nhận.
Khi thị trường khí dầu Việt Nam
tiến trào và LNG nhập thị trường, giá cả khí dầu có thể tăng
thêm, theo đúng sác xuất căn bản thị trường hơn.
Thám hiểm và Sản xuất
Việt Nam tương đối còn chưa được
thám hiểm hết, và đây là một tiềm năng cho các công ty thám
hiểm khám phá nhiều vùng
khí dầu thiên nhiên mới. Vài giếng dầu lữa lớn nhất
Việt Nam , tỉ
như Bạch Hổ, sản xuất một số lượng nhỏ ( song hành ) khí dầu thiên nhiên. Hầu hết sản xuất khí dầu thiên nhiên Việt Nam nguồn gốc tại 3 bồn ngòai khơi: Cửu Long,
Nam Côn Sơn và Mã Lai – Thổ Chu.
Phiên họp cho phép – cấp môn bài quốc
tế năm 2011, gồm nhiều lô – block từ bồn
chứa nhiều khí dầu Nam Côn Sơn, hiện là nơi sản xuất chánh , cố thỏa mãn
tăng trưởng mau lẹ yêu cầu khí dầu ở
miền Nam Việt Nam . Lô – Block 06- 1
có giếng khí dầu thiên nhiên lớn nhất
nước tên gọi là Lan
Tây, chảy qua ống dẫn lần đầu
tiên năm 2002. Giếng này sản xuất chừng
445 triệu bộ khối khí dầu thiên nhiên mỗi ngày ( MMcf/day ) và 4000 thùng/
ngày- bbl/d khí đặc – condensate
năm 2011 và cung cấp khí dầu cho Phức tạp điện Phú Mỹ ( Bà Rịa – Vũng
Tàu ) qua ống dẫn Nam Côn Sơn. TNK- BP, công ty họat
động lô này là một liên
doanh, cổ phần công ty là 35 % , dự tính khai thác một giếng kế cận
gọi là Lan Đỏ
qúy thứ tư năm 2012. Lan Đỏ sẽ
sản xuất gần 200 Mmcf/day ở đỉnh cao nhất và sẽ góp phần bù chì sản xuất Lan Tây suy giảm vào thập niên tới.
Những giếng nhỏ hơn đang phát triễn ở Nam Côn Sơn gồm luôn cả hai giếng Hải Thạch và Mộc Tinh, sẽ đưa vào ống dẫn năm 2013. Giếng mới Chim Sáo
dầu – khí song hành, sản xuất số lượng
khí liên kết nhỏ 25 Mmcf/day, đã chảy vào ống dẫn năm 2011.
Hiện
nay, dự án phát triễn khí dầu lớn nhất Việt Nam ở vị trí phía Bắc
bồn khai thác chung với Mã Lai Á, gồm thám hiểm và phát triễn nhiều giếng ( thuộc “Lô- Block B”) cũng như
xây cất một ống dẫn khí dầu. Tuy vẫn còn
phải dè dặt về những tuyên bố sau đây về
tuyên bố tiến bước của tổ hợp Chevron , vì thành quả thực hiện luôn luôn bị các
điều kiện bất trắc kinh tế và chánh trị tổng quảt nội địa hay quốc tế chi phối, Chevron cho biết đã nắm giữ 2 PSC ( production sharing
contracts - khế ước chia phần sản xuất )
ở bồn này- 42.4% quyền lợi ở PSc
có các Lô – Block B và 48/95 và
43.4 % quyền lợi ở PSC Lô Block
52/97- và hy vọng sẽ khởi sự họat động năm 2014 , dự trù đạt đỉnh
sản xuất là 490 MMcf/d (day- ngày ) và 4000 thùng khí đặc – condensate.
Tổng phí tổn của phát triễn ngòai khơi và dự án đường ống dẫn Chevron lên đến 4.3 tỉ đô la Mỹ. Khế ước công nhệ cao kỷ - front
end engineering –FEED vẫn tiếp tục năm 2011 và một đánh giá ảnh hưởng môi
trường đã được chánh phủ Việt Nam chấp thuận tháng 4 năm 2012.
Bồn
Sông Hồng cũng có thể tăng cường phát triễn khí dầu ở Bắc Việt. Tiếc thay, đa số khí dầu bồn này lại chứa quá
nhiều carbon dioxiode và sulfide hydrogen,
tạo ra những thách thức kỷ thuật và khiến cho phí tổn khai thác cao hơn.
Vietgazprom đang tích cực khoan ở
những lô dầu khí Bảo Vàng và Lê Đông 20-1 ( ?) thuộc bồn Sông
Hồng.
Khí dầu thiên nhiên hóa lỏng – LNG
Yêu cầu khí dầu thiên nhiên
tăng mạnh, khiến chánh phủ Việt Nam phải
xem xét việc nhập khẩu khí dầu dưới thể
thức LNG để dùng làm nhiên liệu chạy các
nhà máy điện ở miền Nam. PV Gas ký
kết một khế ước công nghệ cao
–kỷ front-end engineering and
development (FEED) và một mêmô
thông hiểu- MOU với công ty Tokyo Gas Company
phát triễn ga- terminal LNG Thị
Vải ở tỉnh Vũng Tàu. PV Gas đề nghị xây cất
ga theo 2 giai đọan. Giai đọan thứ nhất
là đưa khí vào ống dẫn 5—150 Bcf/
năm vào năm 2015 và có thể nới rộng
đến ít nhất là 380 Bcf/năm vào năm 2025, theo các nguồn tin của chánh
phủ. PV Gas có dự định nhập khẩu khí
dầu từ Úc Châu, Nga và Qatar và hiện đang tiếp xúc với QatarGas làm thỏa
hiệp cung cấp cho giai đọan một. Nhà máy điện Hiệp Phước đã ký một MOU như thể là một nhà tiêu thụ then chốt LNG.
Chánh phủ Việt Nam cũng đã chấp
thuận một ga tái sinh khí dầu – regasification ở tỉnh duyên hải cực Nam
Miền Trung ( nay thuộc miền Đông Nam Bộ )
là Bình Thuận ( Phan Thiết) năm 2011. Ga Bình Thuận sẽ có một dung tích đến 150 Bcf/ năm và dự trù
bắt đầu họat động năm 2018. PVGas cũng dự tính xây cất
một kho tồn trữ nổi- floating storage ngòai khơi, chứa 50 Bcf/năm
và một đơn vị tái sinh khí dầu ở
Vũng Tàu năm 2013. PVGas dự tính sử dụng một tổ chức tập hợp – aggregator để mua các tàu chuyên chở tại chỗ - spot
cargoes cho tiện nghi này. Việt Nam cũng đand xem xét phát triễn các ga
LNG khác ở miền Bắc và miền Trung nước nhà, dù rằng những dự án này còn được
kềm giữ lại, cho đến khi nào nhiều cơ sở
hạ tầng hơn cho khí dầu thực hiện xong
xuôi.
Các
đường ống dẫn – Pipelines
Hệ thống đường ống dẫn khí Bạch Hổ và Nam Côn Sơn đang vận chuyển khí từ mỏ Bạch Hổ và Rạng Đông từ bồn trũng Cửu Long và mỏ Lan Tây từ bồn trũng Nam Côn Sơn vào bờ |
Việt Nam
đã có 3 đường ống dẫn khí nối các vùng
giếng ngòai khơi ở phía Nam
đến các nhà máy điện và những hệ thống phân phối khí dầu trên đất liền. Đường ống dẫn then chốt là đường
ống Nam Côn Sơn dài 250 dặm Anh ( trên 402km ) chuyên chở khí dầu từ giếng Lan Tây đến nhà
máy chế biến khí dầu công ty Dinh ( Cố ? ), Phức tạp Điện Phú Mỹ
và nhà máy ammonia. Đường ống này
hầu như chuyên chở phần lớn cung cấp khí
Việt Nam ,
dung lượng là 680 MMcf/d. Đường ống dẫn
Bạch Hổ dung lượng 150 MMcf/d, chuyễn
khí dầu song hành từ giếng Bạch Hổ đến
phức tạp điện Phú Mỹ. Đường ống dẫn thứ ba, dung lượng 200 MMcf/d
chạy dài từ Vùng Xếp Đặt Thương Mãi – Comercial Arrangement Area PM3, giữa
Việt Nam và Mã Lai Á, đến nhà máy điện
chu kỳ phối hợp – combined cycle Cà Mau. TNK – BP họat động đường ống dẫn Nam Côn Sơn, trong
khi PetroVietnam họat động các đường
khác.
Một
đường ống dẫn Nam Côn Sơn thứ hai, song
song đường thứ nhất , đang phát triễn và dự tính sẽ họat động năm
2014. Dự án gồm xây cất
một đường ống dẫn 580 MMcf/d, một
nhà máy chế biến khí dầu 700 MMcf/d và
một hệ thống đường ống trên đất liền,
nối các nhà máy chế biến khí dầu đến các trung tâm phân phối và các ga LNG. PV
Gas đã ký các khế ước chuyễn phần đường ống dẫn trên đất liền của mình cho
những chi nhánh của PetroVietnam, vì PV
Gas muốn có thêm chuyên môn kỷ thuật. PetroViêtnam
ước lượng là cung cấp khi dầu cho xứ sở
có thể tăng gia thêm 30-40% sau khi đường ống dẫn Nam Côn Sơn thứ hai họat động. Đường
ống dẫn Cần Thơ, dung lượng 500MM cf/ ngày đang xây cất, dự trù nối các lô – blocks Chevron ngoài khơi ở bồn
Mã Lai- Thổ Chu (?) đến nhà máy điện Cà
Mau, sẽ chạy năm 2014.
( Irvine, Nam Ca Li – Hoa
Kỳ, ngày 14 tháng 6 năm 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét