Thử tìm
đường hướng “ mới” cho Phát Triển Việt Nam, sau thời đại Phong phú (xuất khẩu) hàng hóa ( “ nguyên
liệu” hay sơ chế )- Commodities Boom , tiếp theo bài về phát triển Brasil của Ruchir Sharma, lên mạng trang BLOGS THE GIFT, tháng 6 năm 2012, những phản
hồi chỉ trích của 4 tác giả và trả lời của Sharma :
Vậy chớ Brasil phá sản đến mức độ nào rồi ?
G S Tôn Thất Trình
Nhắc lại là Brasil được mệnh
danh là một trong 5 nước BRICS (viết tắt chữ đầu của Brasil , Russia , India , China và South Africa ) phát
triển đang trổi dậy – emerging nations
trên thế giới ngày nay.
Ổn định là thành công
Sau đây là quan điểm của Shannon ÓNeil,
thành viên Ban Nghiên cứu Châu Mỹ La
Tinh của Ủy Ban Ngọai giao Hoa Kỳ-
Council on Foreign Relations .
Tháng 5- 6 năm 2012, tiến sĩ Ruchir
Sharma đã biện cứ là tiến triễn không tin nổi được trong 10 năm qua ở Brasil, tùy thuộc vào
buôn bán hàng hóa ( Ở Việt Nam là gạo, cà phê , cao su , tiêu , hột điều
, thủy sản , than đá antracit , dầu lữa
và nay mai có thể là bô xít, đất hiếm… ), và các thị trường hàng hóa nay
cũng đã bắt đầu chậm lại rồi . Cho nên tăng trưởng Brasil cũng sẽ chậm lại. Sharma đã lưu ý đứng đắn là những năm tới, Brasil sẽ phải
đương đầu một suy giảm của Trung Quốc
mua hàng hóa phát triễn ở Trung Quốc. Nhưng
Sharma đã quên nhận thức là ổn định kinh tế cũng đã thúc đẩy tăng trưởng Brasil.
Suốt cuối thế kỷ thứ 20, Brasil đau khổ
vì những thất bại của chánh sách ổn định và những cơn siêu lạm phát tàn phá to
lớn. Tuy nhiên, năm 1994, Brasil thiết lập một đồng tiền tệ mới – đồng real, đã giúp kiềm chế lạm phát. Ngay lúc đó, chánh phủ
cũng bắt đầu giảm quan thuế, mở rộng thị trường và tư nhân hóa công nghệ, những
chánh sách cựu tổng thống Brasil Luiz Ignacio Lula da Silva bám chặc lấy thập
niên kế tiếp. Những cải cách này thuyết
phục các kẻ hòai nghi địa phương và quốc
tế là Brasil sẽ không trở lại những
ngày đóng kín thị trường và lạm phát
- một tiến trào hơn là một cơn điên hàng
hóa đã đẩy mạnh phồn thịnh kinh tế
Brasil suốt thập niên qua.
Sharma biện cứ là chính những biện pháp Brasil đưa ra để đạt
ổn định này sẽ làm Brasil thụt lui trở
lại. Đặc biệt, Sharma tuyên bố là chi tiêu
Brasil cho cho các chương trình an sinh
tỉ như Bolsa Familia , một
sáng kiến cung cấp chuyễn tiền mặt giúp
các cha mẹ lợi tức kém có thể chủng ngừa
bệnh cho con cái và giữ chúng lại
trường, đã giảm bớt bất bình đẳng, nhưng lại làm thiệt hại phát
triễn. Thế nhưng lịch sử gợi ý rằng muốn có tăng trưởng bền vững , các chánh phủ phải săn sóc trẻ em cũng như người già cả và những kẻ ít may mắn hơn. Các nước Âu Châu và Hoa Kỳ đã khởi sự xây dựng
mạng lưới an tòan xã hội ở những
mức độ lợi tức đầu người còn thấp kém hơn nhiều
lợi tức các quốc gia thị trường mới trổi dậy ngày nay, giúp nới rộng
hiệu năng và sinh cường nhu cầu , đòi hỏi. Thật vậy, rất nhiều nghiên cứu của Ngân Hàng Thế Giới – WB và nhiều
tổ chức khác cũng gợi ý gia giảm bất bình đẳng – inequality ở các nước
có lợi tức trung bình, tỉ như Brasil, thật đã sinh cường tiến bộ kinh tế.
Điều còn tốt hơn nữa, nhiều nghiên cứu
ngay trong xứ Brasil do Funđaxao Getulio Vargas, một tổ chức
khảo cứu Brasil thức hiện đã chứng minh là Bolsa Familia đã tăng gia công ăn việc làm tự mình và tiêu thụ nội địa. Những nghiên cứu khác, tỉ
như nghiên cứu của Viện Khảo cứu Chánh sách Thực phẩm Quốc tế, đã cho thấy là
trẻ em của những gia đình nhận sự giúp
đở của Bolsa Familia đều khỏe mạnh hơn và
đi học nhiều giờ hơn, cống hiến những hy vọng tốt hơn, tăng thêm các dân
lao động lành nghề hơn mà Sharma đã
khuyên nhủ.
Trong lúc đó, Sharma so sánh giữa Brasil
và Trung Quốc, biện cứ là Brasil đã ngăn trở
phát triễn, khi mà Trung Quốc đề
xướng nó. Nêu lên tương phản này, Sharma
đã bỏ qua những lợi tức trung bình chênh lệch rỏ ràng giữa Brasil và Trung Quốc,
đặc biệt cho người nghèo. Theo Cơ Quan Tiền tệ Quốc tế -IMF, lợi tức đầu người ở Trung Quốc, nơi GDP đã tăng gia mau lẹ hai
thập niên qua, cũng vẫn chỉ bằng phân nữa con số của Brasil. Trong 10 năm qua, lợi tức trong bình của nhóm 20% dưới đáy, đã tăng gia 10%, nghĩa là bằng sác
xuất tăng trưởng tổng thể GDP Trung Quốc.
Brasil cũng hơn hẳn Trung Quốc về nới rộng thêm kích thước giới trung lưu. Theo một nghiên cứu của tổ chức Brookings Institution, gần phân nữa dân số Brasil nay được xem thuộc
giới trung lưu, so với con số ít hơn
10% ở ở Trung Quốc ( ? ). Brasil
đã đưa rất nhiều dân gian ra khỏi vòng
nghèo khổ, không phải chỉ riêng bán ra hàng hóa, mà cũng đã
đa lọai nền kinh tế mình, nới rộng
khu vực tài chánh và dịch vụ, giảm bớt bất bình đẳng. Những chánh sách này
đã tạo ra một căn bản mạnh mẽ các nhà
tiêu thụ nội địa, đã giúp Brasil nâng
cao nền kinh tế Brasil và làm dịu bớt
ảnh hưởng các cú sốc bên ngòai, tỉ như khủng hỏang tài chánh tòan cầu năm 2008.
Dù mọi điều này, Sharma chỉ nhắc tới
giới trung lưu một lần duy nhất.
Brasil đối diện nhiều vấn đề, từ giáo dục và hạ tầng
cơ sở yếu kém đến một thư lại phức tạp và các điều hòa thuế khóa phiền phức. Vấn
đề là liệu Basil
có thể củng cố các lợi lộc
và đạt tăng trưởng lâu dài
không, một hậu quả tùy thuộc nhiều hơn
hẳn các thị trường hàng hóa.
Một Brasil đầy sức mạnh đàn hồi
Richard Lapper là thủ trưởng
của Brasil Tự tín- Brazil
Confidential, một dịch vụ khảo cứu và phân tích về Brasil do Thời Báo
Tài Chánh – Financial Times xuất bản,
cũng cho rằng Sharma cống hiến một cái nhìn quá đơn giản và bi quan không thức thời về Brasil. Theo
Lapper, Ruchir Sharma đã nói đúng là
nhiều thách thức đang chờ đợi
Brasil. Sác xuất tiết kiệm Brasil quá
thấp. Một nền thư lại dày đặc và nhũng
quyền lợi đúng pháp luật uy vũ
thường chận đứng những thay đổi cần
thiết. Các cố gắng cải cách ở xứ này thường di chuyễn chậm chạp. Thế nhưng Sharma đã thất bại không nhìn
thấy nhiều dấu hiệu tích cực , có cơ gợi
ý rằng Brasil sẽ tiếp tục tăng trưởng.
Chắn chắn đúng là ở thập niên vừa
qua, yêu cầu của Trung Quốc về hàng hóa
đã kích động một phồn thịnh mau
lẹ ở Brasil. Xuất khẩu Brasil qua Trung
Quốc tạo ra một thương mãi to lớn và thặng
dư tiền gửi ngân hàng ( tài khoản kế tóan ) hiện hửu – current account surplus , giúp (thủ đô )Brasilia xây dựng thêm những
dự trữ ngọai tệ. Nhưng Sharma sai
lầm khi khẳng định là Brasil đã xài “ của
trời cho – windfall” này hầu xây đắp
một tình trạng quốc gia an sinh “ngái ngủ ”. Trái lại, thương mãi thặng dư đã giúp
Brasil ổn định các trương mục quốc
ngọai, cũng cố tin cậy của các doanh
nhân địa phương và các nhà đầu tư
ngọai quốc vào nền kinh tế Brasil. Trên tất cả, Brasil đã hưởng lợi có được một nới rộng chánh yếu lực lượng lao động chánh thức, giảm bớt hẳn số người đã làm việc ở thị trường chợ đen không trả thuế, tỉ như các kẻ bán hàng rong đường phố và các đầy tớ gái – domestic maids không đăng ký. Tăng
trưởng về công ăn việc làm chính thức
này đã xảy ra ở khu vực công cũng như
lảnh vực tư. Các công ty được bảo đảm viễn cảnh dài hạn của mình, bắt đầu thuê
nhân viên, các chánh sách chánh phủ khích lệ làm cho việc vay mượn và nâng
cao tư bản dễ dàng hơn. Kể từ năm 2000, 12.3 triệu công ăn việc
chánh thức đã được tạo ra, so
với 2.1 triệu ở thập niên trước.
Một khi có công ăn việc làm chánh
thức, dân Brasil nay cho là dễ dàng vay mượn nhờ các chương trình chánh phủ
khuyến khích các ngân hàng mở rộng món
nợ, tỉ như một hệ thống thí nghiệm trong
đó chủ nợ thu thập các tiền trả nợ trực
tiếp từ các ngân phiếu của người vay nợ,
thay vì từ người vay nợ. Những người vay nợ nay đã dùng tiền vay mua xe
hơi, các máy ti vi và các điện thọai tế bào. Tăng thêm tiền lương tối thiểu
cũng đã làm tăng lợi tức người
nghèo. Những chương trình xã hội như
Bolsa Familia, trong lúc đó, đã sinh cường các mẩu mực đời sống và cung cấp một
mạng lưới an tòan .
Chung
lại, những cố gắng này đã kéo hàng triệu
dân Brasil ra khỏi vòng cực kỳ nghèo khổ
và tăng tương đối kích thước của giới trung lưu, ở Brasil gọi là là Hạng- Class C ( nghĩa là ai đó có lợi tức gia đình trung bình hàng tháng từ
860$US đến 3750$US, chiếu theo Funđaxao
Getulio Vargas ). Các công ty ngọai quốc, tìm kiếm những thị trường mới,
đã đầu tư hàng tỉ vào Brasil, giúp các
công dân Brasil mua sắm được mọi thứ, từ
phấn son đến ô tô.
Với thất nghiệp vẫn còn tương đối
cao so với thập niên 1990s, dù cho
bị suy giảm mới đây, và tiền cho vay cá nhân chỉ chiếm
12 % GDP, một con số thấp theo các tiêu chuẩn quốc tế, Brasil vẫn còn đủ chổ trống để tạo thêm công ăn việc làm và
nới rộng thêm thị trường tín dụng.
Brasil đã không thúc đẩy tăng
trưởng này bằng cách tạo dựng một
quốc gia an sinh - welfare state vênh váo, sưng phù. Chẳng hạn,
Bolsa Familia giúp 13 triệu gia đình, và chỉ xài có 0.6 % GDP. Đúng là chi tiêu
cho các chương trình an sinh khác vẫn còn cao; chẳng hạn, Brasil dành 5% GDP
cho hưu trí ( nghỉ hưu ) của công chức , công bôc dân – civil
servants. Dù rằng những thể lệ điều
hòa mới sẽ không ảnh hưởng tới quyền
hạn của nhân viên hiện hửu, chúng sẽ áp
dụng trên các nhân viên tân tuyễn và có cơ tiết kiệm hàng tỉ đô la Mỹ cho chánh
phủ .
Sharma cống hiến một định giá sai lầm ở nhiều lảnh vực của nền kinh tế
Brasil. Ông đã đánh giá thấp những ưu điểm
so sánh của Brasil về nông nghiệp, hầm
mỏ, và các lảnh vực tài nguyên thiên nhiên khác. Ông đã chỉ trích rất đúng lãi xuất cao ở
Brasil, nhưng khi ông mô tả những lãi xuất này là một chánh sách “chữ ký –
signature” , ông đã quên bẳng thúc đẩy gần đây để giảm bớt chúng. Thật ra,
kể từ tháng 8 năm ngóai, ngân hàng trung ương Brasil đã giảm các lãi xuất hơn 3 % . Khôi hài thay, Brasil đã làm như
vậy trước mắt đối lập từ nhóm cử tri suy
đóan là Sharma có cảm tình nhất: các công
ty tài chánh địa phương. Sharma cũng
lưu ý là Brasil đầu tư về hạ tầng cơ
sở cũng vẫn còn quá ít, nhưng trong định giá này ông cũng
đã lơ là tiến bộ mới đây. Năm 2004, chỉ có 62 % đường xá
là tốt đẹp hay rất tốt. Năm ngóai
2011, theo chánh phủ Brasil, con số
này đã lên cao đến 73% . Kể từ khi Brasil tung ra dự án gia tốc tăng trưởng, chi tiêu công cọng trên
hạ tầng cơ sở đã tăng hơn gấp ba. Sharma cũng đã quên bẳng sự kiện là Brasil đã
tiến bộ hút dẫn đầu tư tư nhân để tài trợ các dự án hạ tầng cơ sở. Chẳng hạn, tháng hai năm 2012, Brasil đã tư nhân hóa 3
phi trường quốc doanh.
Tóm lại, Sharma cống hiến như đã
nói trên một cái nhìn đơn giản và bi quan không đúng lúc về Brasil. Sự kiện là
suốt thời kỳ khủng hỏang tài chánh nhiều năm qua, quốc gia này đã làm tốt hơn
thế giới đã phát triễn. Các thay đổi
xã hội và kinh tế hai thập niên vừa qua và động năng của thị trường nội địa không những
giúp Brasil miễn nhiểm chống lại một thụt lùi thế giới, mà còn làm cho Brasil
đầy sức mạnh đàn hồi.
Dân chủ cũng quan hệ !
Larry Rohter, tác giả sách “Brasil
đang tiến bước; câu chuyện một quốc gia biến đổi- Brasil on the Rise: The Story
of a Country Transformed”, cho rằng khi so sánh Brasil và Trung Quốc,
Sharma kêu gọi Brasilia nên theo gương tăng trưởng Bắc Bình bất cứ giá nào, một kiểu mẩu phát triễn sẽ đẩy Brasil thụt lùi về chủ nghĩa độc đóan .
Kể từ khi Brasil thiết lập đồng real năm 1994, quốc gia này đã nâng gần một phần tư dân
gian ra khỏi nghèo khổ cực kỳ và nuôi dưỡng
một giới tiêu thụ lợi tức trung lưu tăng dần. Trong lúc đó, kể từ cuối
thập niên 1970s, Trung Quốc cũng đã kéo ra khỏi
các mức nghèo đói tương tự một phần tư công dân Tàu. Thế nhưng khi Trung
Quốc đã tăng trưởng dưới quyền chỉ huy
của một thể chế độc đảng, nơi đó các nghiệp đòan lao động, một nền báo
chí tự do, một xã hội dân sự tự trị bị đàn áp hay bị cấm đóan, thì Brasil
đã tăng trưởng tương tự, bằng cách cho -và -nắm lấy chủ nghĩa dân chủ.
Dân Brasil đã hướng quốc gia mình về
hướng bỏ phiếu, gia nhập nghiệp đòan hay nói toang xuyên qua báo chí tự do;
trong lúc dân Tàu đã phải chấp nhận những mệnh lệnh của chánh phủ Tàu.
Dân Brasil đã cố tâm xử lý việc
trổi dậy quốc gia bằng cách ôm chồm các
chánh phủ, không tìm kiếm châm nhiên liệu phát triễn tai hại đến tài sản nhân bản và thật sự đã
nhận thức là tài sản, tư bản này rất khẩn thiết – cực trọng cho phồn thịnh
liên tục. Tính từ giữa thập niên 1990s, các nhà lảnh đạo Brasil đã chi tiêu hàng tỉ bạc để cải thiện giáo dục, y tế và nhà cửa xứ sở, không phải bố thí cho người đói kém mà là những đầu tư dài hạn nhân lực cần thiết cho tương lai
Brasil. Những cố gắng này đã giảm bớt
bất bình đẳng một cách đáng ngạc nhiên. Cùng lúc , ngay cả khi Sharma ngợi khen Trung
Quốc đã “ không ngừng” theo đuổi tăng trưởng , ông cũng nhìn nhận rằng Trung Quốc
đã xây đắp thành công ăng trưởng trên
phương thức tai hại cho công dân Tàu. Khi bất bình đẳng vượt lên cao ở Trung Quốc,
dân Tàu có rất ít khả năng, nếu có, chống trả lại được bất bình đẳng.
Thật thế, khi nhìn nhận là Trung Quốc không để tâm đến an sinh của dân
gian Tàu , Sharma mặc nhiên công nhận là tăng trưởng GDP, không chỉ là mục đích duy nhất xã hội cần theo đuổi. Dân Brasil xem trọng phẩm giá đời sống và tự do cá nhân, không sẳn sàng hy sinh các
điều này cho các tài phiệt- plutocrats địa phương hay các công ty ngọai quốc không thèm để ý tới quyền lợi của Brasil, trước
thời phồn thịnh hiện hửu và đã rời bỏ
Brasil đi xa, khi có dấu hiệu đầu tiên suy giảm kinh tế hay của lao động rẽ mạt và
thị trường tốt đẹp hơn ở nơi khác, giúp họ kiếm
được lợi lộc lớn hơn.
Sharma đã nói đúng khi biện cứ là
Brasil phải đối diện nhiều thách thức. Nhưng Brasil không thể đương đầu các vấn đề này bằng cách bắt chước kiểu mẩu Trung Quốc, đã bảo đảm lợi lộc bằng cách áp đặt các chánh sách mình và bóp nghẹt các đối lập. Một hệ thống như thế có vẽ hửu hiệu cho vài người, nhưng theo đuổi
tăng trưởng không sá gì đến trong
sáng – transparency hay thống trị
của luật lệ, sẽ đưa Brasil trở lui về
thời kỳ bè bạn độc đóan mà dân gian Brasil chỉ mới thóat khỏi cách đây một phần
tư thế kỷ thôi. Hầu tiếp tục tăng
trưởng Brasil phải phụng sự, không phải
các qũy tránh mất mát - hedge funds , ngân hàng và doanh nghiệp lớn, mà
là no ấm - hạnh phúc của công dân Brasil.
Tổng thống Dilma Rousseff Brasil và chủ tịch Hồ cẩm Đào (HU YIN TAO) Trung Quốc |
Giáo dục và sáng tạo đổi mới
Ronaldo Ramos
Lemos, giám đốc Trung tâm về Kỷ thuật
và Xã hội của Funđaxao Getulio Vargas và
là thành viên của Trung tâm Chánh
sách Kỷ thuật Thông tin tại viện đại
học Priceton University, cho rằng Sharma
gợi ý, hầu làm vững bền thành công của mình,
Brasil phải dành riêng thêm nhiều
tài nguyên cho các dự án hạ tầng cơ sở,
giáo dục, khảo cứu và phát triễn; nhưng ông đã không lưu ý đến là nhiều năm
qua, Brasil đã cố gắng làm như vậy, tung ra một lọat chương trình sinh cường công nghệ và giáo dục kỷ thuật. Dù huy hòang mấy đi
nữa, những sáng kiến này đã thất bại, không dốc tâm vào những cải cách cơ cấu cần thiết đề xướng sáng tạo, quốc gia đòi hỏi
một cách tuyệt vọng.
Brasil khởi sự tháng tư năm
2012, một gói hàng khích lệ -
stimulus package 45 tỉ đô la Mỹ, tài trợ căn bản công nghệ. Luật pháp cũng đã bải bỏ hàng triệu đô la thuế lương bổng, tạo trợ cấp
cho vay mượn và hứa hẹn làm yếu kém đồng tiền tệ đi. Dù rằng những biện pháp này chắc chắn sẽ thúc đẩy vài tăng trưởng,
chúng thảy đều ở trung uơng, cường tính tư bản – capital intensive và cống
hiến ít ỏi cho khảo cứu và phát triễn
hay kỷ thuật, cuối cùng ra lại củng cố mô hình công nghệ lỗi thời thiết lập từ
giữa thế kỷ thứ 20. Đặc biệt, gói hàng làm rất ít để lọai bỏ cái gọi là phí tổn Brasil, một chi tiêu cọng thêm vào hàng hóa
trong quốc gia, vì lẽ thiếu hạ
tầng cơ sở, thuế khóa và các lãi xuất cao, cùng một thư lại phiền phức. Theo
Ngân hàng Thế giới, cần mất 119 ngày để khởi sự một doanh vụ tại Brasil, thời gian lâu dài này đứng hạng 5 trên thế giới. Brasil
xếp hàng là một quốc gia đắt đỏ nhất
để họat động doanh vụ. Chảng hảng sau khi công ty Foxcom đến Brasil,
để chế tạo sản phẩm cho Apple, mẽ đầu tiên điện thọai iPhones làm ra ở Brasil có phí tổn y hệt các điện thọai nhập khẩu.
Chánh phủ Brasil cũng đã cố tâm
hổ trợ công nghệ và sáng tạo trong
dài hạn, đặc biệt cải thiện giáo dục. Nhưng
các cố gắng này đã chứng tỏ là ngớ ngẩn. Tỉ như bộ Giáo dục
đã dành riêng cứ hai năm một 750 000 đô la Mỹ tài trợ những
đề nghị sách giáo khoa hay nhất. Tiến trình năm nay đòi hỏi các kẻ đấu thầu phải cột DVD vào sách,
với hy vọng là chúng sẽ làm cho kinh nghiệm giáo dục tương tác hơn. Thế nhưng bộ Giáo dục cũng gửi đến trường các bảng nhỏ tablet computer, không chạy DVD
được.
Một tí dụ khác về sự ngớ ngẩn này là chương trình Khoa học Không Biên giới-
Science Without Borders, một qũy học bổng cho các sinh viên Brasil nghiên cứu khoa học, kỷ thuật , công nghệ và
tóan ở Hoa Kỳ và các nước khác. Tuy
nhiên khi sinh viên tốt nghiệp trở về Brasil,
họ rất khó khăn tìm ra chỗ làm vì bằng cấp họ đạt ở ngọai quốc không được công nhận ở Brasil. Sinh viên
nào muốn các bằng cấp này được công nhận
phải nhọc công chịu đựng thời gian dài nhiều năm hợp thức hóa bằng cấp, trước khi được bổ
nhiệm các chức vụ mức tiến sĩ, đánh bại ngày chính mục đích của Khoa học
Không Biên Giới.
Thuyết bảo hộ giáo dục này cũng
trải rộng ra cho dân ngọai quốc muốn gia nhập các tổ chức hàn lâm Brasil. Ở viện đại học São Paulo, viện đại học lớn
nhất và quan trọng nhất xứ sở, chỉ có 2.8%
trong số 56 000 sinh viên là
ngọai quốc. Các học giả muốn lọt vào hệ
thống đại học Brasil, không có cơ chế nào giúp đở họ nạp đơn, buộc họ phải trông cậy vào các
giáo sư địa phương giúp họ có visa- hội chiếu nhập cảnh và giấy phép
làm việc.
Muốn thật sự tiến tới sáng tạo ở công nghệ và giáo dục, Brasil phải thí
nghiệm. Thay vì giữ lại
hệ thống chế tạo lỗi thời, quốc
gia phải ôm lấy những mô hình, kiểu mẩu mới từ khắp nơi trên thế giới, tỉ như phong
trào kẻ chế tạo - maker movement một lề
lối tự mình làm – do –it – yourself , khuyến khích cá nhân học tài năng khéo léo căn bản công nghệ và trao
quyền cho họ vẽ ra những họa kiểu sáng chế mới, xuyên qua
một hợp tác và những kỷ thuật nguồn
mở- open source, tỉ như in 3-D.
Brasil phải áp dụng một lọai can đảm như vậy để thám hiểm ý kiến mới về giáo dục. Brasil
phải bắt đầu chấp nhận bằng cấp ngọai
quốc và mở rộng hệ thống giáo dục cho sinh viên và giáo sư từ ngọai quốc, làm
giảm bớt thiếu thốn giáo sư tư cách và
bỏ sung căn cư tài ba của xứ sở. Sau khi đã làm điều này, Brasil có thể hổ trợ
những đuổi theo công nghệ mới, bằng cách tạo dựng một tổ chức sáng tạo quốc gia,
hành động như thể một la bô ý kiến và một
mối liên hệ giữa cá nhân, doanh nhân,
các viện đại học và chánh phủ. Và
Brasil có thể đề cao sáng tạo ngay ở cả các trường tiểu học và trung học, dạy cho học sinh những ngôn ngữ làm lập trình
và kỷ xảo căn bản cần thiết để họa kiểu
mọi điều, từ các trang web đến cách xếp vải.
Cắt bớt thuế lương bổng và trợ cấp các bảng nhỏ computer chắc chắn sẽ
giúp Brasil khỏi thụt lùi phía đàng sau. Thế
nhưng Brasil chỉ tiếp tục phồn thịnh, nếu
xứ sở ôm lấy sáng tạo và chịu lấy hiểm nguy cần thiết áp dụng các sáng tạo
.
Sharma trả lời các chỉ trích
Sharma trả
lời rằng sác xuất tăng trưởng dài hạn
của Brasil là 2. 5 % và ở thời kỳ phồn
thịnh gần đây là 4% chậm như rùa bò, sau
xa các nước nghèo khổ hơn Brasil, tỉ như Trung Quốc và Ấn Độ cũng như
các nước cùng hàng lợi tức trung bình
là Nga và Thổ nhĩ Kỳ- Turkey.
Tuy Lapper lưu ý là
Brasil đã phát triễn vượt hẳn các nước đã mở mang, suốt các cú sốc tài chánh vài năm vừa qua. Tuy vậy,
kỷ lục này không có gì là dấu hiệu thành
công cả thảy. Là một quốc gia đang trổi dậy, Brasil phải tăng trưởng mau lẹ hơn
các quốc gia giàu có hơn, nhưng nền kinh tế Brasil nay chỉ
nới rộng thêm theo một tốc độ
ngang Hoa Kỳ và kém thua xa các thị
trường đang trổi dậy. Vì lý do là Brasil vẫn tiếp tục tùy thuộc hàng
hóa: kể từ thập niên 1980s, Brasil chỉ tăng hơn sác xuất là 2. 5 % khi nào giá cả xuất khẩu hàng hóa lên vọt .
Trung Quốc chỉ là một lớp tráng
gương, không phải là kiểu mẩu mô hình cho Brasil. Thông qua
đầu tư mạnh mẽ và đồng tiền rẻ mạt, Trung Quốc đã tạo dựng mau lẹ một
nền kinh tế tăng trưởng cao và phí tổn thấp
phát triễn, nhưng nay phải đối đầu
thành quả là những mất cân bằng nguy
hiểm. Ghi chép đầu tư yếu kém và lãi
xuất cao, Brasil lại phát triễn ngược lại : tạo dựng một nền kinh tế tăng
trưởng chậm và phí tổn cao này cũng phải đối đầu những mất cân bằng, không do tốc độ mà do xơ cứng gây nên .
Không như Rohter gợi ý, tôi ( Sharma )
so sánh Trung Quốc và Brasil, nhưng không tán thành kiểu mẩu độc đóan
của Trung Quốc. Thật tế, khi nói về tăng
trưởng, các hệ thống ít quan hệ hơn là
các nhà lảnh đạo cá nhân, hiểu biết được các căn bản của cải cách kinh
tế. Trong số 124 nền kinh tế, trong
3 thập niên vừa qua, đã tăng trưởng ở sác xuất 5 % hay cao hơn, kéo dài ít nhất 10 năm, 52% là các quốc gia dân chủ và
48% là quốc gia độc tài.
Đáng tiếc là các nhà lảnh đạo Brasil không chứng minh là họ hiểu biết
cải cách kinh tế. O’Neil và Lapper đã lưu ý đến nhiều thí dụ tiến bộ, tỉ như tạo ra công ăn việc làm, cải
thiện giáo dục, một giới trung lưu tăng mạnh và đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Nhưng
như Ronaldo Lemod đã lưu ý, những cải
cách gần đây của Brasil góp phần rất ít
về điều gọi là hạ phí tổn của Brasil để
làm doanh vụ, làm cho các công ty khó lòng thịnh vượng. Báo cáo Mức Cạnh tranh Tòan cầu- Global
Competitiveness năm 2011- 12, ( về Việt Nam đã lạm bàn ở bài về tỉnh Vĩnh Phúc ) xếp Brasil vào hạng
thứ 104 trên thế giới về phẩm giá hạ
tầng cơ sở, sau xa các quốc gia có lợi
tức trung bình là Chi Lê ( thứ 32 ), Thổ Nhĩ Kỳ ( thứ 34 ) và Mễ Tây Cơ ( thứ 73 ).
Điều
đáng nói thêm là những phát triễn này đã
làm cho chánh phủ Brasil vênh váo , kênh kênh. Từ thập niên 1980, phần chúng
chia sẽ nền kinh tế đã tăng gấp đôi, lên tới 40 %, một trong những mức cao của
thế giới đang trổi dậy. Tăng trưởng kiên cố của Bolsa Familia chỉ là một thí
dụ của chủ nghĩa nhà nước nổi gai ốc. Vấn đề
không phải vì Bolsa Familia là
một trong những sáng kiến lọai lớn nhất thế giới mà là chương trình này chỉ là một mảnh của
tình trạng an sinh xứ sở đang tăng gia. Brasil
đã thấy phí tổn bùng lên mạnh khỏi bảng kê , từ hưu trí đế an ninh xã hội - social security, nay đã chiếm gần 7%
GDP .
Sự tăng gia tình trạng hạnh phúc nay làm đầy nhóc đầu tư
tư nhân, nhưng vẫn ngưng trệ ở mức dưới 20 % .
Và các nhà chỉ trích tôi ( Sharma ) đã thất bại dốc tâm nói về biện cứ thành quả: đầu tư tư nhân yếu kém như thế
là lý do chánh yếu tạo ra phí tổn
qúa cao và khả năng qúa thấp, đậy nắp tiềm năng tăng trưởng Brasil.
O’ Neil đúng lý nói là ổn định Brasil tranh đấu khó khăn là một thành tựu, đặc biệt xét tới
lịch sử siêu lạm phát tổn thương
đau đớn. Nhưng Brasil không phải là nước duy nhất đã ghì cương được nợ công
cộng. Trong thập niên vừa qua, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã làm tương tự. Dù rằng ổn định đưa tới một giảm nhẹ đau
đớn, nó cũng không cung cấp cho Brasil một lọai ưu điểm cạnh tranh nào cả.
Và nay đã có những dấu hiệu gia
tăng là ổn định bắt đầu chùn bước. Trên một cố gắng thất bại duy trì sác
xuất 4%, Brasil đã nới rộng một số lượng tín dụng to lớn. 5
năm qua, tín dụng cung cấp cho lảnh vự tư nhân, gồm cả hai cá nhân và doanh vụ,
đã tăng gấp đôi ở thành phần GDP, đến
mức 49 %. Triễn khai tín dụng mau lẹ như vậy luôn
luôn dẫn tới nâng cao thêm các món nợ ( cho vay ) xấu và làm gia giảm lòng ham muốn cho vay của các
ngân hàng, đã xảy ra rồi ở việc cho vay
mua ô tô.
Cội rễ của những vấn đề này là
Brasil phụ thuộc vào phồn thịnh hàng hóa. Quốc gia không mấy tăng thêm thể tích
xuất khẩu, có nghĩa là lợi tức xuất khẩu gia tăng phần lớn do giá cả hàng
hóa gia tăng. Dù cho Brasil đã đủ khả năng tăng trưởng, khỏi cần phát triễn một
căn bản công nghệ cạnh tranh, Brasil vẫn ở trong tình trạng là một quốc
gia đóng kín nhất trong số các quốc gia đang trổi dậy: và giá cả hàng hóa rớt xuống, đang xảy ra, sẽ làm
cho Brasil dễ tổn thương hơn. Như O’Neil và Lapper đã nhấn mạnh, Brasil đang có một giới trung lưu tăng mau. Thế
nhưng những chi tiêu của giới này, dùng nhiên liệu là giá cả hàng hóa cao và sự
góp phần vào tăng trưởng Brasil sẽ teo đi, một khi giá hàng hóa suy giảm. Và dù
bất bình đẳng cũng hạ xuống, chiếu theo tiêu chuẩn quốc tế, bất
bình đẳng vẫn còn cao, cao hơn cả ở Trung Quốc. Mất cân bằng này đã tuyễn
ra những căng thẳng giai cấp: đó là lý
do tại sao Brasil lại là một nơi tốt nhất
trên thế giới để bán xe trang bị vỏ khí.
Thành công kinh tế dài hạn tùy thuộc tăng
trưởng cân bằng xuyên qua giai cấp, các
vùng và công nghệ không bị thành kiến
nghiêng lệch về phía người giàu. Bong
bóng hàng hóa sản xuất ra kết quả ngược
lại hẳn: giá các thực phẩm nhu yếu cao, rất
tai hại cho giới nghèo khổ nhất nước trong khi đó lại xây đắp tài sản cho các tỉ
phú. Giới thượng lưu làm ra tiền của, chính
yếu là khơi đào lấy vật liệu khỏi mặt
đất, hơn là làm ra những dịch vụ mới hay các công ty, vẫn sẽ tăng trưởng được, một
khi phồn thịnh hàng hóa rời xa. Đó
là bong bóng Brasil đã tiếp hưởng và nay
Brasil cần vuợt xa trên hẳn nó.
( Irvine, Nam Ca Li, Hoa Kỳ ngày 6 tháng 8 năm 2012 )
Kính Cám Ơn Thầy đã gởi cho bài viết này. Hay quá. em tâm đắc nhứt là câu : Muốn cho kinh
Trả lờiXóatế tăng trưởng được vững bền, chánh phủ phải lo cho trẻ em, người già và các người kém
may mắn. Đúng quá. Hoan nginh Thầy Trình trở thành một nhà bác học. Em lưu trử những bài
viết của Thầy vào một External Hardrive để đọc đi đọc lại.
Kính,
Trần nhu Long