Cập nhật hướng tiến bộ ở một ngành công nghệ quan trọng cho phát triển đất nước, ngành khoa học vật liệu- materials science :
Xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, từng nguyên tử một mỗi lúc
GS Tôn
thất Trình
Khi các nhà khoa học vật liệu nhìn
vào bảng bảng tuần hòan các nguyên tố,
họ không thấy một đồ biểu đầy các ký hiệu hay con số; họ thấy một phòng chứa
thực phẩm rộng lớn phân tử , giúp làm ra
vô hạn đơn thuốc. Những đột kích
thành công vào phòng này có thể lợi lộc cho tất cả chúng ta. Hãy lấy thí dụ điện mặt trời. Trong vòng 113 năm giữa khám phá vật lý học đằng sau
tế bào quang điện -photovoltaic
và năm 2000, khả năng điện
mặt trời được thiết lập khắp thế giới ít hơn 1 gigawatt (một triệu kw
). Nhưng những cải thiện gần đây của cấu
tạo phân tử silicon ở các pannen quang điện- photovoltaic, đã giúp mang
lại trên đường dây – online hơn 10 gigawatt điện mặt trời mới, chỉ riêng cho năm 2011. Hay
xét đến cải thiện của các nhà máy khử muối biển- desalination plants mà
trong vòng 40 năm qua, năng lượng cần thiết để biến nước biển mặn thành nước
uống sạch muối, đã rơi xuống mất hơn 90%, phần lớn nhờ những cải thiện các máy
lọc – filters sử dụng lấy đi muối biển. Năng lượng sạch hơn và những phương
cách hửu hiệu hơn dùng nó: Khi dân số
thế giới kiên định đòi hỏi thêm nhiều tài nguyên hơn, khéo léo sáng chế của các
nhà khoa học vật liệu sẽ càng trở thành thiết yếu hơn.
Hầu hiểu rỏ hơn các sáng chế đang bộc lộ hiện nay, và những sáng chế có
thể ló dạng mai đây, nguyệt san Khám
Phá – Discover Hoa Kỳ chung sức với Tổ
chức Di sản Hóa học – Chemical Heritage
Foundation ở thành phố Philadelphia ,
tập hợp 6 chuyên viên về khoa học vật
liệu. Thomas Connelly là chánh chuyên
viên sáng chế của hảng DuPont ; ông đã
xử lý các doanh vụ Kevlar và Teflon
cho hảng này. Ryan Dirkx, nhà khoa học
vật liệu tính trạng đặc – solid state, phó chủ tịch R&D ( Khảo cứu & Phát triển ) ở Arkema
, đã họat động trên chất Plexiglas acrylic.
Mark Dorisky là xử lý viên về kỷ thuật
các dạng trung gian tòan cầu – global intermediates, đã lảnh đạo
sản xuất các khối xây dựng phân tử dùng để tạo ra những phân tử nhiều mặt, tựa dây chuyền, tên gọi là polymers. Nhà hóa học Greg Nelson là chánh chuyên viên kỹ thuật của hảng Eastman Chemical. Chris
Pappas là chủ tịch Styron, một
hảng phát triễn plastics, latex và cao su tổng hợp ( nhân tạo ). A.N. Sreeram là phó chủ tịch R&D
của ban Vật liệu Tiên tiến –
Advanced Materials của hảng Dow, đã
họat động ứng dụng các vật liệu mới cho
ngành y tế và các ngành máy móc tự động. Ivan Amato, tác giả sách : Cái
Ngữ : Vật liệu làm ra Thế giới- Stuff :
The Materials the World Is Made Of, điều hòa buổi họp .
Vậy chớ Cách nào Khoa học Vật liệu Thay đổi Thế giới Ngày nay ?
A.N. Sreeram cho rằng câu trả lời hay nhất là nhìn vào điện tử cá nhân. Nhưng ngành khoa
học vật liệu đã làm ra các sáng chế năng nổ ở những nơi khác thuộc lãnh vực căn bản cực
trọng hơn cho chúng ta, tỉ như chỗ ẩn nấp. 48% của dấu chân năng lượng Hoa
Kỳ dùng để cho các không gian chúng ta sinh sống được hâm nóng lên mùa đông và mát lạnh mùa
hè. Chúng ta phải bảo tồn năng lượng này . Nếu chúng ta cách ly- cách
nhiệt tốt đẹp nhà cửa chúng ta, chúng ta
đã tiết kiệm được rất nhiều. Những sản
phẩm như bảng polystyrene xanh dương, song song với các vật liệu khác để
đóng kín các bệ ( bậu ) cửa sổ nhà chúng ta đã
giảm bớt mất mát, thóat ra đáng kể năng lượng từ nhà cửa chúng ta.
Theo Chris Papaas, dân gian nghĩ là sáng chế tạo
ra những điều mới mẽ. Nhưng nếu bạn lấy
những phân tử căn bản và xếp đặt chúng theo một cách đứng đắn, bạn đã làm ra rất nhiều với những gì đã có. Bạn có thể áp dụng điểm này vào một cái gì, tỉ như lốp ô
tô : bạn có thể thay đổi các đặc tính vật lý học của cao su
để cho lốp xe có thêm khả năng quay tròn, không bị mòn- wear lốp
làm mất, không bị mất vì ẩm ướt ăn
chặc – wet grip. Nay đã có một lọai cao su tên gọi là cao
su styrene butadiene hòa tan, ăn
chặc được tốt đẹp khi trời mưa nhưng lại
không bị mòn mau lẹ. Lốp xe của những
công ty chung sức với chúng tôi hiện
đang họat động hầu cải thiện số xăng
cho dặm đường đi – gas mileage đến 10%, chỉ duy nhất bằng cách thay các lốp
xe, vì lẽ các lốp xe này quay chạy với kháng cự ít hơn.
Theo Mark
Doriski , song song với những dòng vừa kể, chúng tôi có một chất dầu nhớt- nhờn
– bôi trơn tổng hợp, tên gọi là SpectraSyn Elite , giúp chúng tôi cải
thiện hiệu năng nhiên liệu cả ở nhiệt độ thấp, tỉ như khi bạn mở máy đầu tiên trên bất cứ máy nào (chẳng
hạn trên ô tô ), lẫn ở nhiệt độ cao. Nếu bạn lấy tòan thể xe ở Hoa Kỳ, nghĩa là
hơn 200 triệu ô tô, và hóan chuyễn 1/3
số xe này từ dầu nhớt qui ước qua dầu tổng hợp, bạn sẽ lợi- tiết kiệm hơn 2%
hiệu năng nhiên liệu. Như vậy bạn sẽ tiết kiệm được khỏang chừng 4 tỉ lít (hay 1 tỉ ga lông gần 4 lít ) xăng mỗi
năm ở Hoa Kỳ.Tương tự bạn bớt đi 1.5 triệu ô tô chạy trên đường xá.
Greg Nelson nói
: một phòng sạch ( ít bụi bặm, một môi trường ít vi trùng nơi các chip computer và các điện tử khác được chế tạo ) là chứa đầy nhóc các linh kiện để đẩy không khí qua các máy lọc kỳ cọ không khí . Những ứng dụng này đòi hỏi hơn 99.97% mọi hạt
tử - particles lớn hơn 0.3 micron ( 1/100 000 ngón Anh – inch )
phải được lấy đi. Như vậy có thể sử dụng nhiều năng lượng. Một kỷ thuật mới gọi
là sợi micrô – microfiber đang được thương mãi hóa , giúp chúng
ta làm được lọc cao hiệu năng hơn ở
nhiều hệ thống này và luôn thể tiết kiệm năng lượng .
Còn Ryan Dirkx cho biết là chúng ta đã có một polymer căn cứ trên dầu thực vật tự
làm lành – self healing. Bạn có thể cắt vật liệu này và đặt chúng với nhau,
và chúng sẽ trở lui lại có 100% sức mạnh nguyên thủy trong vòng 2 hay 3 phút.
Tiềm năng ứng dụng cho các vật liệu tự
làm lành gồm có dây đai chuyền- conveyor belts , các hấp thu sốc – shock absorbers ,
chất dính , sơn và nhựa đường - asphalts
Kỹ thuật nanô tiến tới đâu rồi ? ( tiếp theo bài 20 điều về kỷ thuật nanô đã lên mạng Blogs The Gift tháng 11 năm 1010 )
Vào thập niên
1990s, phát minh các xy lanh carbon kích thước nguyên tử tên gọi
là các ống nanô- nanôtubes carbon thuyết phục nhiều nhà khoa học là kỷ
thuật nanô chế tạo ra những vật liệu theo mức phân tử, đã sẳn sàng để cách mạng
vi tính – computing, y khoa và nhiều lảnh vực khác. 20 năm sau, vẫn chưa
có các rôbốt kính hiển vi làm lành được bên trong thân thể chúng ta, nhưng vài
linh kiện điện tử nanô cũng đã sẳn sàng để tung ra thị trường, và nhiều ứng
dụng suy đóan có vẽ hợp lý, đáng tin :
* Găng tay Phát điện-
Generator Glove : nhà vật lý học David Carroll, viện đại học Wake
Forest đã phát triển vải căn bản ống nanô – nanotube-base
fabric, tên gọi là Power Felt – Nỉ Điện , tao ra một điện thế, chẳng
hạn từ khác biệt nhiệt độ giữa điện
thọai của bạn và bàn tay bạn. Nhiệt lượng về một phía vật liệu làm các
electrons di chuyễn, rồi chúng sẽ chậm dần và tích lũy ở phía mát lạnh hơn, tạo
ra một điện thế. Trên những kiểu mẩu đầu tiên của Carroll, các mẩu vải Nỉ
Điện – Power Felt có thể sạc một
phần các điện thọai tế bào và đèn pin – flashlight. Carroll
ước tính là vải nỉ này có thể thị trường hóa trong vòng một năm tới .
*
Bọt biển Dầu chảy lan tràn – Oil
Spill Sponge: Joseph Wang, kỷ sư
nanô ở Viện đại học UC San Diego, bang Ca li – Hoa Kỳ, đang cố làm nhiều lọai máy nanô. Máy mới nhất là “tàu
ngầm- submarine” hình xy lanh, kích thước chừng một hồng huyết cầu ( tế báo
máu đỏ ), làm bằng vàng kim, nickel, bạch
kim – platinum và một polymer, có
thể hút - thu thập các giọt dầu nhỏ
trong nước. Những đàn “ tàu ngầm –subs” này có khả năng thu thập 10 lần hơn chính khả
năng mình, có cơ giúp làm sạch hẳn các dầu chảy tràn lan.
*
Chất liệu Tinh khôn ( thông minh ) -Smart
Matters: Ứng dụng cuối cùng của kỹ thuật nanô có thể là chất liệu lập trình được - programmable matter, một
chất có thể thay đổi hình dạng, màu sắc
hay các tính trạng khác theo yêu cầu. Một thu thập các hạt tử chứa computers kích thước nanô để điều hòa
phối hợp những biến đổi này, theo lý thuyết áp dụng được trên bất cứ hình dạng
nào. Daniela Rus, nhà khoa học robot, viện đại học MIT, đã tạo ra một kiểu mẩu
đầu tiên cho những linh kiện như thế. Những khối “ sạn tinh khôn – smart
pebbles” của bà dày 1cm, làm bằng một vi xử lý – microprocessor và
các nam châm điện – electromagnets, có thể dò ra hình dáng một vật thể làm
bằng những khối khác và nối nhau để sao chép chúng. Rus còn phát triễn ra những
sợi gương- fiberglass lập trình được, có thể tự xếp lại thành nhiều hình
dạng khác nhau, gồm luôn cả một máy
bay cở nhỏ ( hình kèm ) .
Các nhà khoa học nanô Việt Nam nghĩ sao và đang làm gì ở nước
nhà và hải ngọai ?
Thách thức kế tiếp lớn cho ngành công nghệ hóa học là gì đây ?
Thomas Connelly nói: cần làm xe hơi nhỏ bé hơn. Tôi – Connnely tin rằng xe hơi điện có một
tương lai sán lạn, nhưng chúng ta phải tìm cách
tiến tới các vật liệu mới – cho động cơ, cho tồn trử năng lượng,
những linh kiện đổi điện, và cho máy đổi
điện- inverter điện một chiều -
direct current ( DC ) thành điện xoay chiều – alternating current (
AC ) và lẽ dĩ nhiên chúng ta phải lấy bớt cân lượng xe hơi đi. Không có những sáng chế như vậy và những vật
liệu giúp chế tạo chúng, chúng ta sẽ
không đủ khả năng đạt những mục tiêu năng lượng chúng ta đề ra. Đó là một thách
thức to lớn.
Pappas cho là thắp sáng LED là một vấn đề
khoa học vật liệu chánh yếu: phổ biến
ánh sáng thật là hửu hiệu năng lượng từ LEDs, xuyên qua các vật liệu có
những đặc tính quang học chính chắn, hầu
cung cấp lọai ánh sáng chúng ta cần; đặt
những thành phần này trong một vật
liệu có những đặc tính lý học đúng cho
ảnh hưởng; giải quyết việc mòn – wear , không làm vàng đi, và v.v… Ánh
sáng LED là một kỷ thuật đang trổi dậy,
nơi khoa học vật liệu đang khởi sự đóng một vài trò lớn, hòan tất một điều gì đó cho xã hội và giảm bớt sử dụng và phí tổn năng lượng.
Theo Dirkx, một thách thức khác là
phế thải. Khi chúng ta bắt đầu họa kiểu vật liệu, chúng ta phải họa
kiểu tái chủ định, tái dụng. Chúng ta sẽ
phải họa kiểu một vật liệu khác hẳn, nếu chúng ta có trong óc nảo 3 hay 4 điều
kế tiếp , sẽ có trong đời sống chúng sau
đó . Hãy lấy trường hợp các mô đun –
modules quang điện. Thật là đồ sộ,
nếu vào đời sống thứ ba hay thứ tư , chúng trở thành các bao đổ rác, đổ phế
thải.
Nelson nói là đúng vậy, thách thức chánh là kéo dài thêm đời sống của
một sản phẩm bằng cách làm nó bền vững
hơn và sử dụng nó có một lối mòn cuối
đời. Khi chúng ta nhận lời thách đố này.
chúng ta sẽ có nhiều chỗ đứng hơn cho
các nhà tiêu thụ mới, đang đến với các thị
trường trổi dậy bước vào giới trung lưu
và là một thành phần giới này. Nếu chúng ta không nhận lời thách đố, thì
sẽ có một thế giới khó sinh sống hơn, vì
không có chỗ đứng cho tất cả mọi người,
sử dụng năng lượng theo cách thức chúng ta sử dụng ngày nay .
Vậy chớ đột khởi nào đang ở góc đường đây ?
Theo Pappas, một đột khởi
này là các ống nanô carbon đã nói trên,
có những đặc tính vật liệu và điện hấp dẫn. Nhưng chúng đã đuợc sản xuất
thành những bó rối lung tung beng và
tách riêng rẻ chúng theo phương cách có
thể sử dụng được, lại có năng xuất qúa thấp kém, chừng 2 , 3 hay 4% mà
thôi. Phần còn lại đều là phế thải –
waste. Đúng là một phí tổn qúa
cao. Tách riêng rẽ chúng với năng xuất
cao, sẽ thay đổi trò chơi. Ngay nay ,
hiện có những kỷ thuật gần kề thương mãi hóa mà tôi, Pappas, nghĩ rằng sẽ là
con đường dài tiến tới giải quyết vấn
đề. Rồi bạn sẽ thấy gía cả các ống nanô hạ
thấp, đủ để chúng hội nhập cho những sử
dụng hằng ngày-có lẽ là lốp xe chăng? - tăng thêm bền vững dài lâu.
Nelson cho rằng nguồn lớn nhất
năng lượng mới 30 năm tới sẽ là tiết
kiệm năng lượng: năng lượng chúng ta sử dụng bây giờ sẽ được tiế tkiệm, nhờ
làm chúng hửu hiệu hơn . Sáng chế
thật sự sẽ xảy ra ở đây rồi .
Connelly nói là đang có một thay đổi căn bản trên phương thức sinh học
ảnh hưởng tới khoa học vật liệu (
xem bài các máy móc sinh học bừng dậy cuối bài này ). Bạn hãy nhìn xem khả năng làm công nghệ tạo ra các
sinh vật- engineer organism sản xuất một lọat dàn trải rộng vật liệu ở nhiệt độ bình thường, áp xuất khí quyễn , môi trường nước mà không có các kim loại
xa lạ - và điều này sẽ ảnh hưởng cơ bản cách thức chúng ta chế tạo vật
liệu trong tương lai. Thêm vào đó tính
cách đặc thù tuyệt diệu của sinh học
giúp chúng ta sản xuất vật liệu phí tổn hửu hiệu hơn là tiến trình hóa học nhiệt – thermochemical processing qui ước, và để sản xuất những vật liệu mà
chúng ta không thể đơn giản chế tạo ra
bằng cách làm xúc tác – catalysis qui ước. Đây là một thay đổi
thật sự gây ra biến đổi, và việc này đang xảy ra ngay bây giờ.
Các máy móc sinh học đang bừng dậy
Phí tổn làm trình tự gen (es)
mỗi ngày mỗi gia giảm , không những chỉ cách mạng ngành sinh học. Nó cũng cung cấp cho các kỷ sư những dụng cụ để thao tác những chức năng
thiên nhiên của sinh vật, theo những phương cách không tưởng tượng nổi cách đây 10 năm, mở
toang những nguồn giàu có của vật liệu mới căn bản sinh học. Hai sáng chế tuyên
bố năm nay 2012, minh họa tiềm năng các
vật liệu này cho máy phát điện mang theo được và vi tính- computing cao
tốc.
·
Những bình điện – ác quy
virus: Seung-wuk Lee, một kỹ sư sinh học viện đại
học UC Berkeley, Bắc bang Ca Li, đã tìm thấy một virus tên gọi là M13 là một
máy phát điện thiên nhiên, phản ứng với
di động ( tỉ như một đập nhẹ bàn chân hay tiếng tim đập ) bằng
cách xây đắp một sạc – charge
điện. Khi một phim mỏng thín của M13
công nghệ hóa bị kẹp kiểu bánh mì
giữa hai điện cực và bị làm căng thẳng cơ học, nó tạo ra điện tương đương một phần tư pin ( bình điện ) AAA, đủ để thắp sáng một màn hình nhỏ LCD ( xem hình ). Vá víu di truyền thêm protein( s ) virus này, Lee tin tưởng rằng
ông có thể gây nên một sạc điện 20 lần mạnh hơn. Lee nói: “ vật liệu virus này,
ngày nào đó, có thể cấy vào được trong
thân thể chúng ta, vì chưng virus này không
độc hại gì cho con người cả. Rồi
tim đập của bạn có thể biến thành điện đó”. Ông tiên đóan
là các máy phát điện căn bản là virus
cấy vào người, sẽ có thể là
nguồn năng lượng vĩnh viễn cho máy
trợ thính – hearing aids và các điện thọai tế bào . Những kỷ thuật này có thể sống còn thương mãi trong vòng 10 năm nữa, theo lời kiên quyết của Lee.
·
Những computer thận: tại Viện Kỹ thuật
liên bang Thụy Sỉ ở thành phố Zurich , một
nhóm do kỷ sư sinh học Martin
Fussenegger lảnh đạo, đã làm công nghệ hóa các tế bào con người để thực thi những phép tính nhị nguyên –
binary calculations căn bản của
computing. Fussenegger đã tạo ra máy
tính sinh học bằng cách công nghệ hóa
một tế bào thận phôi thai, phản ứng trên hai hóa chất khác nhau : chất
erythromycin ( một thuốc kháng sinh ) và
chất phloretin( một hợp chất tìm
thấy trên cây táo tây – cây pom) . Các
tế bào phản ứng với các “ nhập liệu –
inputs” bằng cách lòe sáng –
glowing màu đỏ hay màu xanh lục –
tương đương các con số 1 và zero( số
không ) . Các mạch vòng hửu cơ, ngày nào đó,
sẽ được sử dụng như thể chính là máy computers . Đáng tò mò hơn nữa , chúng có thể đặt
nằm trong thân thể chúng ta để thực hiện
một lọat chức năng y khoa. Chẳng hạn,
Fusenegger tưởng tượng ra những
mạch vòng sinh học có đủ phức tạp để sử dụng các proteins liên hệ đến bệnh tật, như thể là nhập liệu. Các
mạch vòng này có thể giải tỏa insulin
hay các hợp chất chửa bệnh khác, mỗi khi chúng dò ra điều kiện y khoa
liên quan.
( Irvine , Nam Ca Li , ngày 10 tháng 8 năm 2012
)
Cám ơn anh Trình:
Trả lờiXóaBài Viết không phải hoang tưởng mà là một vision thực tế cho phát triển tương lai. Hiện tại COSTCO đã bán loại bóng đèn LED, với 4 watts có thể tỏa sáng tưong đương 60 watts của bóng incandescent thường dùng (giá $7.00 cho ba bóng và chỉ tốn 1/15 năng lượng).
Tôn Thất Thiều
Kính Cám Ơn Thầy Trình cho bài viết về Khoa Học Vật Liệu này.
Trả lờiXóaHay quá. Khi em đọc, đầu óc mở mang rất nhiều.
Trần nhu Long