Hiểu biết rõ hơn về ngành công nghệ than đá thế giới hiện nay
G S Tôn thất Trình
Theo báo cáo quốc tế tháng 5 năm
2012, than đá chiếm 20 % tiêu
thụ năng lượng nội địa VN , hơn cả khí
dầu thiên nhiên ( 11 % ) và thủy điện (
10 % ) . Việt Nam cũng là nước xuất khẩu
anthracit- than “gầy” sạch nhất ( ít tro, ít phosphorus và sulfur ) và cao năng nhất trong các lọai than
đá, năm 2007 đã đứng hàng nhất thế giới , trên hẳn Nga ( xuất khẩu 9 triệu tấn anthracit ) và
Trung Quốc ( 5 triệu tấn ). Việt Nam
thường xuất khẩu anthracit cao phẩm sang
Nhật, Hàn Quốc – Nam Hàn và Trung Quốc .
Trung Quốc dần dần trở thành nước nhập
khẩu than gầy Việt Nam lớn nhất những năm gần đây. Những dự trử anthracit
và các than đá lọai khác thật là rộng lớn ở Việt Nam . Các dự trữ antracit mênh mông,
đặc biệt ở tỉnh Quảng Ninh miền Đông Bắc
Việt Nam ,
gần biên giới Trung Quốc. Mỏ anthracit
khai thác lộ thiên hay ở các vĩa quặng
dưới đất. Các mỏ anthracit chánh yếu là ở
các vùng Cẩm Phả
, Cao Sơn, Cốc Sâu, Đèo Nai, Đông Triều, Hạ Tứ ( ? ), Hồng Gai, Khe Châm, Mạo Khê,
Mông Dương và Uông Bí. Dự trữ anthracit Việt Nam ước lựợng là 3.5 tỉ tấn
từ mặt đất xuống sâu 300 m và trử lượng sẽ cao hơn nữa, nếu xuống sâu
thêm. Ngành công nghệ quặng mỏ hiện chiếm 5% GDP xứ sở . Và xuất khẩu hai hàng hóa chánh công nghệ này là dầu lữa
và anthracit đem vể cho Việt Nam
chừng 20% tổng số ngọai tệ hàng
năm. Vì vậy tưởng cũng cần biết thêm thế
giới than đá đang đi về đâu .
Từ Thủ phạm Khí hậu đến Giải pháp : Hãy làm Sạch hẳn than đá đi ?
Sau đây là quan điểm của Richard K. Morse, Giám
đốc Khảo cứu cho các thị trường Than đá và Carbon của Chương trình Năng lượng và Phát triễn Bền
vững ở Viện đại học Stanford , miền Bắc
bang Ca Li , Hoa Kỳ, đăng tải ở số tháng
7- 8 nguyệt san Ngọai giao -Foreign
Affairs .
Than đá, lọai đá đốt làm nhiên liệu cho thời đại công
nghệ, một lần nữa đang tái thiết viễn cảnh năng lượng tòan cầu. Thập
niên qua, trong khi thế giới đứng nhìn sửng sờ những xoay tròn các thị trường dầu lữa, niềm hứa hẹn năng
lượng thay thế, mức phồn thịnh của khí dầu rẽ mạt, thì than đá lại đưa mọi lọai năng lượng khác vào trong đống
bụi than mình, chiếm ở tổng số năng
lượng của nền kinh tế tòan cầu gần
như bằng
mọi nguồn năng lượng khác phối hợp lại.
Tăng gia nổ bùng sử dụng than đá
không phải do thế giới đã mở mang, nơi yêu cầu
đã đến giai đọan phẳng lì, không
lên xuống nữa gây ra, mà là do thế giới đang
mở mang chậm tiến, nơi nhiên liệu này rẽ nhất
và là nguồn đáng tin cậy sản xuất
điện. Năm 2012, thị trường than đá trao đổi thương mãi tòan cầu dùng phát ra điện hy vọng đạt 850 megaton ( một mega – 106 , 1
triệu ), nghĩa là gấp đôi năm 2000. Nếu khuynh hướng hiện tại tiếp diễn, theo Cơ
quan Năng Lượng Quốc tế - the International Energy Agency ( IEA) , riêng
hai nước Trung Quốc và Ấn Độ sẽ xài 75% tăng
trưởng yêu cầu than đá trước năm 2035, và than đá sẽ trở thành nguồn
năng lượng duy nhất lớn lao thế giới, trước năm 2030.
Nhưng khi than đá đang tái tạo các thị
trường năng lượng, than đá cũng tái tạo
khí hậu . Đốt than đá là
nguồn gốc phát thải carbon dioxide – CO2
lớn nhất thế giới, gần 13 tỉ
tấn mỗi năm. Hầu so
sánh, dầu lữa phát thải 11 tỉ tấn và khí
dầu thiên nhiên 6 tỉ tấn. Với yêu
cầu than đá bành trướng mạnh ở Á Châu, giữa năm 2010 và 2035, phân nữa tổng số
tăng gia phát thải carbon dioxide
tòan cầu từ các nhiên liệu hóa thạch, sẽ là từ việc dùng than đá trong
vùng Á Châu. Nói một cách khác, vấn đề
khí hậu là vấn đề than đá.
Về hai thập niên vừa qua, các nhà kinh tế và ngọai giao có khuynh hướng ưa thích một giải pháp cho
vấn đề : đặt một giá cả cho phát thải carbon dioxide, giúp thị trường tìm ra
con đường rẽ nhất làm nguội mát khí hậu. Nhưng cách làm có vẽ như là tối hảo
kinh tế như vậy, đã tỏ ra bất khả thi về phương
diện chánh trị trên đa số các nền kinh
tế quốc gia. Một chiến lược khác, đề xướng
điện tái sinh, là một phần cần thiết
giải quyết vấn đề khí hậu, nhưng chíến lược này lại không đủ gì cả. Các nền kinh tế đang phát triễn thảy đều xây
thêm nhà máy điện than đá ở một kích thước vẫn còn làm lùn hẳn phần năng lượng
tái sinh đóng góp, và các nhà máy này
vẫn tiếp tục xay ra càng ngày
càng nhiều hơn phát thải, trong những thập niên tới.
Than đá, dù cho các chánh sách
năng lượng sạch lan tràn, không tan biến mất đâu thời gian tới. Năm 2010 ( năm mới nhất có được dữ liệu ),
30 % năng lượng sử dụng trên thế giới là từ than đá, đứng hàng thứ hai chỉ sau
dầu lữa là 34 %. Đa số than đá
này dùng ở khu vực điện, nơi than đá
chiếm hơn 40% khả năng tạo điện, chia phần lớn nhất trên
hẳn mọi dạng năng lượng khác.
Vì rằng than đá ngự trị cao xa, một trong những
phương cách chống trả nạn hâm nóng tòan cầu hứa hẹn nhất là làm cho than đá phát thải ít carbon
dioxide hơn, một giải pháp ít lẫn
tránh hơn là chúng ta thường tưởng. Chỉ đơn giản thiết lập những kỷ
thuật tốt nhất hiện có ở các nhà máy than đá tại thế giới đang mở mang là đã có
thể cắt bớt mỗi năm giải tỏa hàng tỉ tấn
thể tích
carbon dioxide, giảm thiểu nhiều
hơn trên căn bản hàng năm phát thải của điện
gió, mặt trời, địa nhiệt cọng chung lại. Và những
kỷ thuật tiên tiến hiện đang thi công
ngày nay, ngày mai nào đó sẽ giúp cho than đá được đốt cháy, mà không giải tỏa tí nào carbon dioxide vào khí quyển .
Muốn các sáng kiến này thể hiện,
các ngân hàng đa quốc gia sẽ phải cung ứng tài chánh, các chánh phủ cá nhân sẽ
phải tài trợ khảo cứu và khuyến khích đầu tư tư nhân. Cố gắng làm sạch hẳn than
đá không phải là để thay thế một chánh
sách khí hậu tòan diện hơn, gồm luôn cả đặt một giá cả ( đánh thuế ) trên
carbon và đề xướng năng lượng tái sinh.
Ngòai sự cố thình lình nhất trí tòan
cầu khó xảy ra là đánh thuế carbon
dioxide, chúng là những phương thức thực tiễn nhất làm ra tiến bộ tức thời trong công cuộc chống trả nạn hâm nóng địa cầu.
Cơn sốt than đá
Hầu đối đầu vấn đề than đá, thật quan trọng
hiểu rỏ trước tiên tại sao nhiên liệu này
lại trở nên phổ thông như vậy. Dù
rằng than đá thường bị gán tên là côn đồ - vô
lại môi sinh ngày nay, cách đây chỉ 40 năm tuồng như là một giải đáp rỏ rệt,
cho vài thách thức chánh trị và kinh tế
cấp bách nhất của thế giới đã mở mang.
Nhưng khủng hỏang dầu lữa vào
thập niên 1970 cho các quốc gia đã công
nghệ hóa làm gián đọan cung cấp dầu lữa, có thể gửi tới những làn sóng sốc không những chỉ xuyên qua các hệ thống chuyên chở mà cũng còn xuyên qua
những khu vực điện, vì lẽ nhiều điện
được phát ra bằng cách đốt các sản phẩm
dầu lữa . Cho nên họ vội vã thay thế dầu
lữa các carten – cartel kiểm sóat bằng than đá rẽ tiền và phong phú.
Giữa năm 1980 và 2000, các quốc gia hội viên của Tổ chức Hợp tác
và Phát triễn Kinh tế- Economic Cooperation and Development ( OECD) tăng
gia sử dụng than đá để phát ra điện
khỏang 61% và giảm đi 41% sử dụng dầu
lữa ở khu vực này ; trước đó phân tán
theo từng hốc thị trường các vùng địa phương, thương mãi quốc tế than đá tăng
mau lẹ thành một trao đổi hàng hóa tòan
cầu phức tạp và kích thước lên 4 lần hơn. Các mạng lưới nhà cung cấp ổn định và đa
dạng cống hiến cho các quốc gia nhập khẩu than đá phí tổn năng lượng thấp và tăng
cường an ninh năng lượng. Giá điện không còn dễ tổn thương vì bất
ổn ở Trung Đông. Chuyễn
đổi từ dầu lữa qua than đá trả tiền lời cỗ phần rất cao .
Tuy nhiên, đến thập niên 1990, khí dầu thiên nhiên đã trổi dậy như thể là một cạnh tranh thay
thế phát xuất điện ở thế giới đã phát triễn và cơn sốt than đá làm các thủ đô Tây phương bị băng giữ chặc, khởi sự
lui dần. Giữa năm 2000 và 2008, sử
dụng than đá làm ra điện ở các quốc
gia OECD
chỉ tăng 4 % , trong khi sử dụng
khí dầu thiên nhiên tăng 55 % . Tương
lai than đá ở các nước đã mở mang trông có vẽ mờ tối thêm mỗi năm. Ngày nay,
các chuyên viên tiên đóan là yêu cầu
than đá ở các xứ OECD sẽ vẫn phẳng lì, e có cơ teo lại, từ nay đến
2035. Ở Hoa Kỳ, đe dọa chánh cho than đá
đang mất thêm phần thị trường cho khí dầu thiên nhiên mới rẽ tiền , thành quả của phồn thịnh khí dầu diệp thạch
– shale gas) và các điều hòa liên
bang khe khắc hơn. Ở Âu Châu, đe dọa chánh là từ các chánh sách
môi sinh. Đá chốt vòm cuốn chánh
sách khí hậu Âu Châu- EU , Hệ
Thống Trao Đổi Phát Thải -EU Emisions Tradings System,
tung ra năm 2005, đã khiến các quốc gia chuyễn qua khí dầu thiên nhiên sạch
hơn. Trong lúc đó, các mệnh lệnh năng lượng tái sinh đã bắt đầu đẩy than đá ra khỏi thị trường.
Thế giới còn lại chạy lẹ về hướng trái ngược. Khi các quốc gia
đã công nghệ hóa trước đó đã ôm chồm
than đá hầu đa dạng các cung cấp năng lượng
vào thập niên 1990, thế giới chậm tiến- đang mở mang xoay qua than
đá để giải đáp một vấn đề hòan tòan
khác : nghèo khổ. Các nền kinh
tế tăng trưởng mau lẹ càng cần thêm
nhiều điện và than đá là phương cách rẽ
nhất và thực tiễn nhất để sản xuất
điện.Than đá không phải là nguồn năng lượng sạch nhất, nhưng các quốc gia đang
mở mang xem ô nhiễm là một phí tổn đáng giá phải chịu đựng, hầu có được lợi lộc của một nền kinh tế cận đại.
Rajendra Pachauri, nhà kinh tế Ấn Độ, chủ tịch Tổ chức Pannen Liên Chánh phủ cho Thay đổi Khí hậu, đã tự hỏi : « Ai lại có thể tưởng
tượng 400 triệu người không có một bóng
đèn điện trong nhà họ ? ». Ông tiếp : « Không thể một ai ở một thể chế dân chủ, lại
có thể quên bẳng vài thực tế này …Chúng
ta không có lựa chọn nào khác hơn là
dùng than đá » .
Và khi thế giới đang mở mang duy trì
tăng trưởng, than đá vẫn là nhiên liệu đáng lựa chọn. IEA mong
đợi là yêu cầu than đá ở các quốc gia , không
phải là OECD, sẽ tăng gần gấp đôi đến
năm 2035, nếu những chánh sách hiện hửu
tiếp diễn, yêu cầu của Trung Quốc
và Ấn Độ sẽ chiếm hơn 80% tăng trưởng này. Inđô
nêxia,Việt Nam và phần lớn Á Châu còn lại, cũng sẽ xây cất mau lẹ những
nhà máy điện than đá mới. Như vậy ,
các thị trường than đá Á Châu nằm ngay trong
thâm tâm của vấn đề hâm nóng tòan cầu đó.
Ca
của Trung Quốc, nơi phát thải carbon lớn
nhất thế giới, chứng minh rỏ ràng là thật khó lòng bỏ nhiên liệu than đá. Trông
cậy của Trung Quốc vào than đá cáng ngày
càng tỏ ra qúa đắt giá. Trong 5 năm qua, khi yêu cầu than đá tăng cao và nguồn
cung cấp cố gắng thõa mãn , giá cả than đá
ở Trung Quốc tăng vọt đến trời
xanh. Trong lúc đó giá điện điều hòa mạnh mẽ ở Trung Quốc không
cho phép giá điện tăng theo song song
. Giá cả trở nên méo mó nhiều ở nhiều nơi ; giá một tấn than đá cao hơn giá trị
điện nó có thể tạo ra. Tùy thuộc Trung Quốc vào than đá , không những
là một thói quen đắt tiền và cũng là một hiểm nguy môi sinh nữa. Thêm vào phát thải carbon dioxide và sulfur dioxide, đốt than đá tạo ra các đống núi tro độc
hại, cuốn thành giông tố và chất độc hạt tử trùm phủ mền chăng lên các thị trấn - đô thị.
Ô nhiễm này mỗi ngày mỗi làm tăng cơn thịnh nộ của dân gian Trung Quốc và
đã tạo ra những biểu tình phản đối.
Trung Quốc đã làm đủ mọi cố gắng đá xa đi thói quen dùng
than đá. Chánh phủ đặt mục tiêu làm
ra 15% năng lượng xứ sở, từ các nhiên liệu không hóa thạch –
nonfossil fuel ( con số hiện nay là 8% ) năm 2020 với điện hạt nhân và thủy điện, để đạt phần lớn khác biệt ở khu vực điện.
Trung Quốc đã trợ cấp hào phóng điện gió và điện mặt trời, những công nghệ tiến mạnh những năm gần đây. Bắc Bình cũng tụ điểm cải thiện hiệu năng của phát điện đốt than đá bằng cách tài trợ các khảo cứu công nghệ đúng nghệ thuật và
đóng cửa các nhà máy than đá cũ kỷ và dơ bẩn hơn. Thành
quả là trung bình các nhà máy than đá
Trung Quốc hửu hiệu hơn trung bình các
nhà máy than đá Hoa Kỳ.
Những chánh sách này đã bắt đầu bẻ cong cơn
nghiện ngập than đá của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc đang phải
chống trả một cuộc chiến đấu khó khăn
mỗi ngày mỗi tăng gia về yêu cầu năng lượng. Thành phần than đá ở khả năng phát
điện Trung Quốc rơi xuống từ 81 % năm 2007 xuống 64% năm 2010,
nhưng con số cho năm 2011 lên lại
65%, chứng tỏ rằng con đường hướng về các nguồn năng lượng thay thế sẽ không thẳng
hàng đâu. Năm ngóai, hạn hán đã làm giảm
bớt sản xuất thủy điện, gây ra cúp điện nặng nề. Các nhà kế họach Tàu trung ương chắc chắn sẽ
xem các nhà máy than đá là phương cách duy nhất có được để duy trì ổn định mạng
lưới điện, đặc biệt khi xứ sở trông cậy nhiều về điện gió và mặt trời mà sản xuất
rất là ngắt quảng, khi có khi không.
một người thợ mỏ trung quốc đang tắm sạch lớp than đen sau khi từ trong hầm than ra, hình chụp ở Sơn Tây, Trung Quốc, tháng năm 2009 |
Hơn nữa,
các kỷ thuật mới có thể chuyễn hóa than đá thành những nhiên liệu lỏng
đáng giá, khí dầu thiên nhiên và hóa chất
có thể cản trở tiến bộ hướng
về tương lai không than đá. Khi gía cả
dầu lữa lên cao, Trung Quốc đã ve vản các đầu tư đại trà trên những kỷ thuật
này. Dù cho các nhiên liệu thành quả có
thể ít thân thiện cho môi sinh hơn là xăng, ở một thế giới mà giá một thùng dầu là 100 đô la Mỹ, kinh tế học mỗi năm lại càng bị các kỷ
thuật mới than đá quyến rũ thêm.
Nếu Trung Quốc duy trì các cố gắng đa
dạng nguồn cung cấp năng lượng của mình,
thành phần than đá chia sẽ ở khả
năng điện tổng cộng, có thể bớt đi chừng1 đến 3 % một năm, trước năm 2020. Sau đó, nó còn có thể rơi xuống mau lẹ hơn nữa,
khi điện hạt nhân và khí dầu thiên
nhiên chen chân mạnh mẽ hơn. Ngay cả lúc đó, cũng sẽ thật là khó khăn cho
Trung Quốc sản xuất điện từ than đá ít hơn 50%
tổng số vào năm 2030. Dù thích dù ghét, than đá sẽ duy trì địa vị là nhiên liệu chủ trì ở Trung Quốc, cũng như ở các nền kinh tế Á Châu đang trỗi dậy, một thời
gian khá lâu !
Điện hửu hiệu
May thay, tương
lai đốt than có thể làm sạch hơn. Muốn
ngăn cản không cho phát thải tăng nhanh
như yêu cầu than đá, các quốc gia đang mở mang cần thiết lập các kỷ thuật than
sạch tiên tiến ở kích thước lớn. Muốn vậy, họ sẽ cần các nước đã mở mang giúp đở. Các quốc gia
OECD phải họat động cùng các tổ chức
quốc tế tỉ như IEA và Ngân Hàng Thế Giới cung cấp chuyên môn về các kỷ thuật than sạch mới mẽ nhất và tài trợ trả tiền chúng. Trong ngắn hạn, họ
phải tụ điểm giúp thế giới đang mở mang
nâng cấp các nhà máy than đá hiện hửu và
xây cất thêm các nhà máy mới hửu hiệu hơn.
Những nhà máy than đá hiện hửu trên thế giới là những trái cây treo lỏng
lẻo. Chỉ đơn giản cải thiện tu bổ căn
bản và thay những cánh quạt tua bin cũ, là có thể tăng hiệu năng các nhà máy than đá này lên 2% và
giảm phát
thải carbon dioxide xuống 4- 6 lần ít hơn . Những giảm thiểu này có thể cọng chung
nhau. Nếu Trung Quốc chỉ làm cho các nhà máy than đá ít hửu hiệu của
mình 2% hửu hiệu hơn, Trung Quốc cũng sẽ cắt bớt phát thải ước lượng 120
megaton mỗi năm, gần bằng phát thải của Vương Quốc Anh hàng năm.
Cơ hội nâng cấp đơn giản đã chín mùi khắp Á Châu và những cải thiện này điển hình tốn ít thời gian thanh tóan cho
chúng. Muốn đặt chúng vào tại chỗ, những
gì các nước đang mở mang cần từ phần còn
lại của thế giới là hiểu biết công nghệ -engineering know- how và tài trợ khiêm tốn. Các tổ chức
quốc tế tỉ như Trung Tâm Than
Sạch – Clean Coal Center IEA , một
viện khảo cứu cống hiến chuyên
môn cách nào giảm bớt cho đủ khả năng lo liệu phát thải nhà máy than đá, phải nới rộng thêm
phạm vi hoạt động. Các quốc gia đã mở
mang cần xem xét những cố gắng này, coi đây là một phần chiến lược ngọai viện .
Cơ hội lớn kế tiếp là thay đổi lọai nhà máy than đá mới mẽ để
xây cất. Phần lớn thế giới vẫn còn xây cất
cái mà ngành công nghệ gọi là các nhà
máy” chưa tới giới hạn – subcritical” , họat động ở áp xuất và nhiệt độ thấp và như thế thiếu hửu hiệu. Thành
quả là trung bình hiệu năng của các nhà
máy than đá thế giới nay chừng 30% , có nghĩa là 70% tiềm thế năng lượng của than đá mất đi , khi than đá chuyễn hóa thành điện. Các nhà máy than đá “
siêu giới hạn – super critical” hửu hiệu hơn có thể đạt các mức độ hiệu năng chừng 40- 41
% ; ngay cả các nhà máy “ cực siêu – ultrasupercritical” có thể đạt các mức 42- 44% . Trong vòng 10 năm tới, các nhà máy tiên
tiến có thể họat động ở nhiệt độ cao hơn
sẽ được tung ra thị trường đạt các mức độ hửu hiệu gần 50%. Như vậy các nhà máy mới bằng cách làm khí hóa than đá trước khi đốt
cũng sẽ tăng cường hửu hiệu tương tự. Không rỏ mỏ than Bắc Việt( báo KHKT thông
tin) cách đây mấy năm, được Nhật giúp đở
làm khi hóa dưới đất, đã đi đến kết quả nào ?
Thay thế những nhà máy than đá xưa cũ bằng các nhà máy
đúng nghệ thuật – state-of –the art , cũng sẽ cắt bớt phát thải carbon
dioxide một cách đáng kinh ngạc, vì rằng,
cứ tăng thêm hửu hiệu 1% là giảm thiểu hai hay ba lần phát thải carbon dioxide. Tổng thể , dù cho rằng
bao nhiêu điện thế giới đã được sản xuất
ở các nhà máy than đá lỗi thời đi nữa, những lợi lộc này rất to lớn. Nếu mức
hửu hiệu trung bình mọi nhà máy than đá
trên thế giới được tăng thêm đến 50% , phát thải từ các nhà máy điện đốt than
đá sẽ
rơi xuống bớt đi 40% . Ở các mức
phát thải hiện hửu, số lượng này là 3 tỉ tấn carbon dioxide ít hơn hàng năm,
tương đương hơn phân nữa số lượng Hoa Kỳ
giải tỏa ra mỗi năm !
Các nhà máy hửu hiệu hơn đúng là một biết điều
kinh tế dài hạn. Dù cho một nhà máy cực siêu
công xuất là 750 megawatts , tốn khỏang 200 triệu đô la Mỹ cao hơn nhà máy siêu giới hạn cùng cở , nhưng nhờ
tiết kiệm than đá, các công ty điện có thể thu hồi lại phí tổn qua hết đời sống nhà máy. Kinh tế
cho một sự giảm thiểu carbon
dioxide như thế , cuối cùng tự mình trả lấy phí tổn ; và nếu ai đó tính phí tổn hủy bỏ- abatment cost, nó
sẽ là 10 đô la Mỹ mỗi tấn. Hầu so sánh,
theo hệ thống đội nắp và giao thương – cap and trade system ở bang
California, các công ty đã phải trả khoảng 15 đô la Mỹ để phát thải một tấn carbon dioxide.
Tuy nhiên, vấn đề các sở tiện
nghi ở thế giới đang mở mang là thiếu tiền mặt, không đủ tài chánh trong tay
để thực hiện những lợi lộc này qua nhiều
thập niên. Các ngân hàng phát triễn đa
quốc gia có đủ tài chánh, nên họ phải
bước vào tài trợ phí tổn thêm tư bản xây
cất những nhà máy than đá hửu hiệu cao. Lợi tức tăng thêm, thành quả xài phí
than đá ít hơn, lớn hơn sẽ trả tiền vay nợ xây cất.
Nếu các ngân hàng phát triễn không muốn tài trợ các nhà máy mới, các cơ sở tiện nghi có thể
quay sang phía thị trường cầu mong giúp
đở. Các dòng lợi tức tăng thêm
có thể gói trọn thành những “chứng
khóan – securities xanh – green”
thương mãi được và bán cho các nhà đầu
tư tư nhân, họat động như thể những bông phiếu quốc trái- bonds . Các
nhà đầu tư sẽ cho vay tư bản trung thực up-front, hầu trả tiền cho các nhà máy hửu hiệu hơn,
tạo ra những lợi nhuận cao hơn .
Đổi lại, khi các thỏa hiệp bán điện dài hạn
cho nhà máy được cơ cấu hóa, các nhà đầu tư sẽ lảnh một phần lợi nhuận có thêm. Hầu tối đa các lợi lộc môi sinh, bất cứ một
chương trình cho vay nào cũng không được tài trợ những nhà máy ít hửu hiệu
hơn các nhà máy cực siêu - ultra
super critical plants .
Các
nhà chỉ trích có thể biện cứ là tài trợ
bất cứ lọai than đá nào cũng là một chánh sách môi sinh xấu xa. Cách tính tóan có phần phức tạp hơn và nó tùy thuộc các phản sự
kiện . Ở những nơi tài trợ điện than đá
sẽ kéo ùa đi các nguồn năng lượng sạch hơn, các ngân hàng phát triễn sẽ cố kìm
hãm một hành động như thế. Nhưng đa số các quốc gia đang mở mang, bị
ngân sách eo hẹp và thay thế giới hạn cho tạo điện đại trà cản trở, phải trực
diện một lựa chọn, không phải giữa than đá và năng lượng tái sinh, mà là giữa
các nhà máy than đá không hửu hiệu
và các nhà máy hửu hiệu. Ở những nơi
này, thật đúng nghĩa lý tài trợ các nhà
máy hửu hiệu, vì chúng sẽ giảm
thiểu phát thải đáng kể. Trong những ca khác, thực tế sẽ đâu đó nằm giữa hai lựa chọn này và các ngân hàng phát
triễn phải tài trợ những gói năng lượng
tái sinh, song song với than đá sạch hơn.
Chính cách thu xếp này đã được Ngân Hàng Thế Giới đạt được ở Nam Phi năm 2010, khi xứ này trải qua
một thời gian thiếu điện tê liệt.
Một thúc đẩy cho sự hửu hiệu có
thể đem tới quyền lợi kinh tế và môi sinh các quốc gia đang mở mang bố trí
thẳng hàng. Dù rằng Trung Quốc đã năng
nổ thay thế các nhà máy lỗi thời với các nhà máy hạng nhất thế giới, các quốc
gia khác không đủ sức để vượt qua các rào cản
khoa học và tài chánh ( kể cả Viêt Nam ? ) hầu tăng cường cho hửu hiệu. Thiếu tiến bộ
này thể hiện một mất mát cơ hội to lớn, ngăn ngừa hàng tỉ tấn carbon dioxide làm ô
nhiễm khí quyễn.
Than đá không carbon
Trong tương lai, khi các nhà máy than đá thế giới đạt những giới hạn của sự hửu hiệu và kinh
tế năng lượng tái sinh trở thành thuận
lợi hơn, các nhà máy than đá tiên tiến
sẽ đến giai đọan đường cong lợi tức
thu hẹp lại- diminishing return.
Nhưng vì lẽ than đá quá rẽ và quá
phong phú, nó sẽ là một pha trộn chánh
năng lượng thế giới vào khỏang thời gian
đang tới. Rồi trong dài hạn, mục đích sẽ
là phát triễn khả năng sản xuất
điện từ than đá không giải tỏa bất cứ
một phát thải nào. Những
kỷ thuật cống hiến mức khả thi
này đã bắt đầu trỗi dậy. Nhưng
muốn trở thành sống còn thương mãi được,
chúng cần được các chánh phủ hổ trợ và điều hòa.
Một trong những kỷ thuật dẫn đạo than đá sạch là chụp bắt và kiềm hãm
– carbon capture and sequestration ( CCS) , nơi đây carbon dioxide được ống xi phông từ phát thải nhà máy điện
rồi bơm xuống dưới đất. Ngay bây giờ, tiến trình còn quá đắt tiền, tốn chừng 50
đô la đến 100 đô la cho mỗi tấn carbon
dioxide tồn trử. Nhưng vì lẽ carbon di oxide từ các nhà máy than đá là một
trong những nguồn phát thải lớn nhất, tiến trình này đáng lưu ý để cố tâm kéo
các phí tổn này hạ xuống. Để làm như thế, các chánh phủ
nay đã đở đầu khảo cứu CCS, kể cả
ở Úc, Trung Quốc, Hiệp hội Âu Châu và Hoa Kỳ, cũng cần tăng thêm tài tài trợ.
Kỷ thuật dẫn đạo than đá sạch : chụp bắt và kiềm hãm |
Cho đến nay, tổng cọng tiền hổ trợ công chúng tòan cầu cho các dự án
trình diễn CCS chỉ mới đạt 23 tỉ đô la
Mỹ. Các quốc gia phải phối hợp những cố gắng mình hầu gia tốc các sáng kiến về CCS , dự
tính trình diễn cố gắng nhiều nơi, tỉ
như ở Trung Quốc quốc gia đã cống hiến phí tổn thấp và ít rào cản điều hoà hơn.
Thêm vào đó, các chánh phủ phải chấp thuận
điều hòa mau lẹ hơn – fast track regular approval cho những dự
án sử dụng chụp bắt carbon dioxide để làm sống lại các bồn trữ dầu lữa cũ đã cạn
kiệt, một thủ tục làm cho kinh tế CCS hấp dẫn thêm.
Một
kỷ thuật than đá sạch cách mạng hơn nữa là giúp cho các công ty năng lượng chụp bắt năng lượng than đá, không cần đem than đá lên mặt đất. Khí
hóa than đá dưới đất – underground coal gasification hay UCG liên hệ
đến nổi lữa các vĩa mỏ than đá dưới xa mặt đất, biến chúng thành khí rồi bơm
lên mặt đất làm nhiên liệu cho các nhà máy phát điện hay tạo ra các thay thế cho dầu diesel. Như vài mỏ than Quảng Ninh( ?) đang làm
với viện trợ Nhật đã nói trên . Kỷ thuật này đang trải qua một làn sóng đầu
tư mới, nhờ những tiên tiến mới về khoan giếng dầu và làm kiểu mẩu computer mới, làm hạ giá phí tổn. UCG để lại phần lớn ô nhiễm liên quan đến đốt than đá dưới đất, đặc biệt
khi tiến trình được phối hợp với CCS.
Kỷ thuật UCG chưa được thương mãi
hóa rộng rải, nhưng các dự án dẫn đạo khắp thế giới, đã giúp cho các kỷ sư hòan
thiện các kỷ thuật khoan và đốt cháy; cho
nên phí tổn có thể hạ bớt trong tương lai. La Bô Quốc Gia
( Hoa Kỳ ) Lawrence Livermore ước lượng là khí UGC tạo ra có thể trên phương diện môi sinh tương đương với khí dầu thiên nhiên và giá là
khỏang 6$ đến 8$ cho một triệu BTU. Rặng
giá cả này cao hơn các giá cả khí dầu thiên nhiên Hoa Kỳ hiện nay, chao đảo từ 2 $ đến 3$, nhưng chỉ bằng phân
nữa Trung Quốc và Ấn Độ trả cho thị
trường quốc tế về khí dầu thiên nhiên. Khí dầu từ UCG
cũng sẽ rẽ hơn dầu lữa tính theo đơn vị năng lượng và có thể chuyễn qua
thành nhiên liệu chuyên chở, cạnh tranh trực tiếp dầu lữa .
Các chánh phủ phải cung cấp vốn
cho khảo cứu kỷ thuật đầy hứa hẹn này, có thể sản xuất ra nhiều lợi
nhuận lớn lao cho an ninh môi trường và năng lượng. Các công ty ở Úc và Trung Quốc đã tiếp tục đeo đuổi các dự án UCG tiên
tiến. Theo các nhà khoa học La Bô Quốc Gia Hoa Kỳ Lawrence Livermore, nếu chánh phủ Hoa Kỳ chi tiêu 122 triệu đô la
vào chương trình nội địa khảo cứu, Hoa Kỳ sẽ
thực hiện việc phát triễn một kỷ thuật tiên tiến có cơ sống còn thương
mãi .
Vào thời kỳ thuế khóa khắc khổ,
những sáng kiến đáng giá giảm thiểu phát thải này có lẽ sẽ không được
chánh phủ tài trợ, ít nhất là tài trợ đủ cho chúng trở thành sống còn thương mãi hóa được. Cho nên các nhà sáng kiến sẽ cố hút dẫn chừng một ngàn tỉ đô la Mỹ qua các nhóm cổ phần không lãi cố định tư
– private equity và các hảng tư
bản hiểm nguy – venture capital. Các chánh sách thuế khóa thông minh có thể làm cho nhiệm vụ
này dễ dàng hơn. Ở Hoa Kỳ , Quốc
Hội cần lập ra một lọai thuế mới cho quỹ
cổ phần không lãi cố định và các tư bản
hiểm nguy , đầu tư vào sáng kiến năng
lượng. Rồi thì phải cống hiến cho các
nhà đầu tư, tỉ như ở hưu bổng và ở thiên tư , những tín dụng thuế khóa – tax credits để quy tư bản
vào những quỹ này. Thành quả sẽ là tạo dựng một hạng
tòan thể tích sản, giúp cho các
thị trường tìm kiếm các sáng kiến năng
lượng có thể đưa lại vừa các lợi nhuận
mỗi trường, vừa cả những lời lãi lớn nhất .
Một tương lai sạch hơn, mát lạnh hơn
Tăng trưởng yêu cầu than đá ở các
nước đang mở mang đơn giản là một tái
diễn quá khứ công nghệ của chính các nước đã mở mang. Các xã hội nghèo khổ trước đây, nay la hét đòi hỏi những cơ hội và xa xỉ phẩm
tương đương với các đối giá giàu
có hơn , đã thụ hưởng nhiều chục năm và
họ trở qua than đá, có thể dơ bẩn thật đó, để làm nhiên liệu cho triễn khai, cho
nới rộng. Như một chức quyền chánh
thức Tàu phát biểu trong một hội nghị về năng lượng ở Viện đại học Stanford, năm 2011, thanh niên trung bình ở Quảng Châu
, thủ phủ tỉnh Quảng Đông , Trung Quốc “ thà bị ngẹt thở hơn là bị chết đói”.
Những nguồn năng lượng thay
thế sạch hơn đã bắt đầu thỏa mãn
thèm khát than đá của các nước
đang mở mang, nhưng cần nhiều thập niên
trước khi họ dời đổi có ý nghĩa
thành phần chủ trì của than đá ở
trộn lẫn điện tòan cầu. Bất cứ một chiến lược năng lượng và khí hậu nào trong tương lai cũng phải chấp thuận sự kiện này. Nuông chiều những cái nhìn hào
hiệp viễn vông cho một thế giới không than đá
là một giải đáp thiếu mạch lạc
và không thích ứng cho vấn nạn hâm nóng
tòan cầu.
Dù ai đó nghĩ gì về than đá đi nữa, điều sau đây đã rỏ ràng : làm sạch than đá phải là trọng tâm của mọi chiến lược khí hậu . Nếu các chánh
phủ, các thể chế đa quốc gia, và các thị
trường tài chánh ở thế giới công nghệ, thảy đều giúp thế giới đang mở mang nâng cấp các nhà máy than đá hiện hửu và bảo đảm không những là các nhà máy sạch
nhất được xây cất, ảnh hưởng trên khí hậu
sẽ sâu đậm. Nói hết ra, các chánh sách thông minh sẽ hạ bớt phát thải carbon dioxide cho mỗi megawatt điện chạy than đá hơn 40 %, trước năm 2050. Và nếu CCS và UCG có thể trở nên sống còn thương mãi
được, thể tích phát thải có thể còn giảm bớt thêm .
Tiến trình UCG |
Cuối cùng, những biến đổi này sẽ tốn tiền , và đa số phải chi tiêu ở thế giới đang mở mang, nơi các phát thải dâng
cao nhất. Phương cách hay nhất để trả
tiền cho điều này sẽ là qui định một giá cả carbon căn bản thị trường xuyên qua một chương trình đậy nắp và trao đổi – cap and trade program ,
các chánh sách thuế khóa hay những thay thế khác , rồi thì cho phép thị
trường tài trợ những nguồn rẽ tiền nhất làm giảm thiểu carbon dioxide. Nhưng sau các cuộc đàm
phán Thể thức Kyoto Protocol đã chứng
minh, muốn cho các quốc gia thỏa thuận
nhau trên ý kiến này, thật vô vàn khó khăn. Điều tốt đẹp về một chiến lược
làm than đá sạch hơn là nó không đòi hỏi một giá cả carbon hay một thỏa
thuận khí hậu tòan cầu.
Thiếu thốn một giá cả trên carbon sẽ làm khó khăn hơn việc tài trợ vài
kỷ thuật than đá sạch, và sẽ ảnh hưởng đến những chiến lược nào nhiều hứa hẹn
ngắn hạn nhất. Đăc biệt, tính cách lời
lãi của kỷ thuật CCS tùy thuộc vào các chánh phủ qui định một giá cả cho carbon dioxide. Nếu không, có
rất ít khích lệ để chụp bắt khí, giá trị
gần như không có gì. Nhưng các chiến lược khác giải quyết sử dụng
than đá ở thế giới đang mở mang, là các
nhà máy than đá hửu hiệu cao và các kỷ
thuật UCG , vẫn còn có thể thành công ,
vì chúng đứng cùng hàng với chính những
khích lệ các nước đang mở mang, để đưa
tới năng lượng rẽ tiền và an tòan. Cắt bớt phát thải từ than đá không đòi
hỏi một giá cả carbon và không có lý do chờ mong một giá cả
này.
Khi yêu cầu than đá leo cao đến những đỉnh mới, và khi nhiệt độ tòan cầu tiếp tục dâng lên, thế giới không
thể chịu đựng bỏ qua một cơ hội làm nhiên liệu sạch hơn. Chiến lược này trình bày một
phương cách thực tiển để cắt bớt
phát thải carbon dioxide nhiều tỉ
tấn một năm. Nhân lọai đã đi xa kể từ
Cuộc Cách mạng Công Nghệ, khi trời đầy
khói mù sương làm dấu hiệu cho tiến bộ
kinh tế. Khi thế giới đang mở mang công nghệ hóa, đã đến lúc cần xét lại viễn
cảnh than đá, không những chỉ là nguyên nhân lảnh đạo thay đổi khí hậu mà cũng là một cơ hội đầu đàn, để chống trả
nó !
( Irvine, Nam Ca Li – Hoa Kỳ , ngày 19 tháng 7 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét