Cập nhật hiểu biết tiến bộ về khoa học thần kinh – neuroscience và tâm lý học – psychology :
( tiếp theo bài hệ gen biểu sinh đã lên mạng trang Blog The Gift tháng 6 năm 2010 )
Tính trạng chống lại Số phận
G s Tôn thất Trình
Quán rượu này ở thủ đô Madrid – Tây Ban Nha nơi có
cuộc thảo luận quốc tế tại trung tâm nghiên cứu sinh học thần kinh -
neurobiology hàn lâm lâu đời nhất là Viện Cajal Institut . Moshe Szyf , một
nhà sinh học phân tử và di truyền học
của viện đại học McGill – Montreal, Canada , chưa bao giờ nghiên cứu tâm lý học hay khoa học dây thần kinh cả, nhưng đã nghe một đồng nghiệp khuyên nên
tham dự, vì công trình ông có thể có vài ứng dụng. Tương tự, Michael Meaney,
một nhà khoa học dây thần kinh cũng được đồng nghiệp khuyên là các khảo cứu của
Meaney về các mô hình động vật các bà mẹ lơ đảng, cũng có lợi theo nhãn quan của Szyf.
Kể từ thập niên 1970, các nhà khảo cứu đã
biết là bên trong nhân mỗi tế bào là những
cuộn quấn khít nhau DNA đòi hỏi một cái gì phụ thêm, để nói chính xác với chúng gen ( es ) nào cần phiên mã – transcribe , dù đó là một
tế bào tim, tế bào gan hay tế bào nảo. Yếu tố phụ thêm này là nhóm mê til ( methyl), một thành
phần cấu tạo thường thức của những phân
tử hửu cơ. Nhóm mê til như thể
một kẻ có địa vị - placeholder trong một sách dạy nấu ăn, dính
vào DNA bên trong mỗi tế bào, hầu tuyễn
chọn những thực đơn, là những gen (es ) cần thiết cho các protein của tế bào đặc biệt. Vì các nhóm mê til dính vào
gen( es ), cư ngụ bên cạnh nhưng tách rời xóan ốc kép làm mã số DNA, phạm vi họat động này được gọi tên là di
truyền biểu sinh học– epigenetics, phát nguyên của tiền
tố - prefix epi ( theo tiếng Hy
lạp có nghĩa là trên, bên ngòai, phía trên …) .
Nguyên thủy, những thay đổi biểu sinh này chỉ
được xem là chỉ xảy ra khi phát triễn bào thai. Nhưng những nghiên cứu tiền phong cho thấy rằng đồ hàng cũ linh tinh có thể chêm thêm vào DNA lúc trưởng
thành, làm ra một thác lũ thay đổi tế
bào tạo thành ung thư. Đôi khi các nhóm mê til dính vào DNA nhờ thay đổi chế độ
ăn uống ; vài khi khác, phô bày trên vài
hóa chất tuồng như cũng là nguyên nhân nữa. Szyf cho thấy là sửa sai các thay đổi biểu sinh với thuốc
men có thể chửa lành vài lọai ung thư trên động vật.
Các nhà di
truyền học đặc biệt kinh ngạc tìm thấy là thay đổi biểu sinh có thể
truyền lại từ cha mẹ xuống con cái, thế hệ này đến thế hệ kế tiếp. Một nghiên cứu của Randy Jirtle viện đại học
Duke trình bày là khi các chuột cái được nuôi bằng một chế độ giàu các nhóm
mê til, sắc tố các bộ lông con cháu sẽ thay đổi vĩnh viễn. Dù không làm bất cứ một thay đổi DNA nào, các nhóm mê til
có thể cọng thêm vào hay trừ đi, và những thay đổi sẽ di truyền không khác gì mấy một đột biến
trong một gen.
Bài học vỡ lòng biểu sinh học 101
Một dạng thay đổi biểu sinh xảy ra khi các cơ cấu phân tử tỉ như các nhóm
mê til, dính vào gen ( es ) thay đổi mức biểu hiện chúng. Số lượng các nhóm mê
til( methyl ) có thể tăng hay giảm vì lây nhiễm, phơi bày trên môi trường hay
kinh nghiệm đời sống. Một nhóm mê til ( Me ) là một hợp chất
hửu cơ gồm có một nguyên tử carbon nối
kết với 3 nguyên tử hydrogen ( CH3 ). Khi một nhóm mê til dính vào một baz nucleotide
cytosine, khi đó DNA đã được mê til hóa –
methylated. Các nhóm mê til có thể
dính vào DNA suốt đời, làm thay đổi
họat động bất cứ gen nào liên hệ. Các tính trạng cư xử liên quan tới các gen này cũng thay đổi như
vậy và cũng có thể di truyền qua nhiều thế hệ. Các nhóm mê til dính vào DNA, vấn quanh một cuộn phân tử tên
gọi là histone. Histones là những đơn
vị làm ra chromatin ; chromatin cũng gồm luôn cả DNA và các proteins không-
histone nữa. Khi chromatin đóng kín, phiên mã DNA - transcription nghỉ luôn
và sản xuất protein cũng chấm dứt. Khi chromatin mở ra, tổng hợp protein
làm lại.
Khắc sâu một bản phác họa – Etch A Sketch
Ở quầy rượu
thủ đô Madrid ,
Szyf và Meaney duyệt xét một giả thuyết vừa
không chắc sẽ xảy ra, vừa sâu sắc. Nếu chế độ
ăn uống và hóa chất có thể gây ra những thay đổi biểu sinh, vậy chớ vài
kinh nghiệm - tỉ như trẻ em bị bỏ rơi, lạm dụng ma túy
hay các căng thẳng nặng nề khác -
có thể nào gây ra những thay đổi biểu sinh cho DNA bên trong nơ ron –
dây thần kinh ở nảo một người nào đó không ? Câu hỏi này trở thành căn bản
của một lảnh vực mới, gọi là biểu sinh học cư xử - behavioral epigenetics,
nay đã sinh động đến nổi đã sinh ra vài tá nghiên cứu và gợi ý làm ra nhiều
chửa trị mới, giúp nảo lành mạnh lại.
Chiếu theo
những hiểu biết sâu sắc về ngành di truyền học biểu sinh cư xử-
behavioral epigenetics , các kinh nghiệm chấn thương quá khứ chúng ta hay
quá khứ gần đây của tổ tiên, để lại những vết sẹo phân tử dính vào DNA chúng ta. Các dân Do Thái mà ông bà cố bị đuổi khỏi các làng xưa ở Nga Đông Âu ; dân Trung
Hoa ông bà đau khổ vì Cách Mạng Văn Hóa,
các di dân trẻ tuổi từ Phi Châu
cha mẹ sống sót sau những cuộc tàn sát
thảm khốc, các người trưởng thành của mọi sắc tộc sinh trưởng với cha mẹ nghiện
rượu hay đối xử tàn tệ; tất cả đều mang
theo không phải duy nhất là trí nhớ. Tỉ như các trầm tích đất thịt ở những vấu ( răng ) một máy móc điều chỉnh
tốt đẹp sau khi nước biển một sóng
thần – tsunami rút lui, những kinh nghiệm chúng ta, và của tiền nhân chúng ta,
không bao giờ mất hẳn đi, dù chúng ta đã quên bẳng chúng. Chúng đã trở thành các thành phần chúng ta, một sót lại - cặn bả phân tử
dính chặc vào giàn giáo di truyền chúng ta. DNA vẫn như cũ, nhưng các khuynh hướng tâm lý và cư xử đều là di sản
thừa hưởng. Bạn có thể được thừa hưởng, không phải chỉ là đầu gối đầy
bướu của bà ( nội , ngọai ) mà luôn cả tổ bẩm ( khuynh hướng ) trầm kha
gây ra, vì bà bị bỏ rơi đau đớn lúc bà mới sinh.
Hay không phải
như vậy. Nếu bà của bạn được cha mẹ nuôi chăm sóc, bạn có thể thích thú thụ hưởng phần bổ sung bà nhận
được từ tình yêu và hổ trợ của họ. Các cơ chế
di truyền biểu sinh cư xử đặt dưới, không phải chỉ những thiếu thốn và
yếu kém mà cả luôn sức mạnh và độ dai dẳng- đàn hồi nữa. Và những ai không đủ
may mắn thừa kế từ ông bà khốn nạn hay dấu diếm
trổi đây sau các chửa trị ma túy, cũng có thể đặt lại không những tâm
trạng mà luôn cả các thay đổi biểu sinh di truyền nữa đó! Giống như bộ áo dài kiểu cỗ của bà, bạn có
thể mặc hay sửa đổi. Hệ gen từ lâu đã
được biết là bản vỗ của đời sống, thế nhưng hệ gen biểu sinh- epigenome
lại là khắc sâu một bản phác họa : lắc nó đủ mạnh là bạn có thể giủ sạch lời nguyền rũa của gia đình rồi.
Di truyền học yêu thuật
Hai mươi năm
sau khi giúp làm nổi bật một cuộc cách mạng, Meaney ngồi sau một bàn gỗ hồ đào
óc chó làm bàn việc cho ông. Một giông tố
tháng giêng chất đầy ngòai cửa sổ gần 15
cm tuyết ở Viện Douglas, bệnh viện thần
kinh thuộc McGill. Ông có một cái nhìn tốt nhưng gồ ghề và bộ tóc bù xù muối tiêu của ai đó trên sườn núi trượt tuyết - ski, nơi ông dự tính sẽ đến cuối
tuần. Ở sàn nhà, trải ra những trái banh
helium theo nhiều giai đọan xẹp hơi. “ Mừng ông thọ 60 tuổi “ , ai đó tuyên bố.
Ông nói : “ tôi
luôn luôn thích thú về những gì làm
người này khác người kia. Cách nào chúng
ta hành động, cách nào chúng ta cư xử, vài người lạc quan, vài người bi quan.
Vậy cái gì đã sản xuất các biến thiên này ?
Tiến trào lựa chọn độ biến thiên
nào thành công nhất, nhưng cái gì sản xuất ra hột nghiền cho máy xay ?”
Meaney đeo
đuổi câu hỏi về khác biệt cá nhân bằng các nghiên cứu cách nào những thói quen
nuôi nấng của chuột mẹ đã gây ra những thay đổi suốt đời con cái chúng. Khảo
cứu từ thập niên 1950 đã cho thấy là chuột do
người gìn giữ chừng 5 đến 15 phút một
ngày trong ba tuần lễ đầu mới sinh, tăng
trưởng bình tĩnh và ít phản ứng với các môi trường căng thẳng hơn, so sánh với
các chuột cùng lứa tuổi không được người
giữ. Meaney và những người khác thiết
lập là lợi ích không phải do người giữ đem lại.
Mà vì người giữ đơn giản khiến các chuột mẹ liếm và làm sạch sẽ các chuột con hơn, và
thường có một cư xử tên gọi là nuôi
dưỡng còng lưng – arched –back nursing, trong đó chuột mẹ cho chuột con thêm nhiều khỏang trống để
bú dưới bụng mẹ. Meaney nói : Đây hòan tòan là kích thích xúc giác – tactile stimulation.
Ở một bài bản
cột mốc năm 1997 ở tập san Khoa Học – Science, ông trình bày là các biến
thiên thiên nhiên trên số lượng liếm và làm sạch sẽ nhận vào thời niên thiếu,
đã có một ảnh hưởng trực tiếp cách nào
hormone căng thẳng gồm cả corticosterone, đã được biểu hiện khi trưởng thành. Bé em càng được liếm nhiều, các hormone căng
thẳng càng ít đi khi khôn lớn. Tuồng như
chuột mẹ đã liếm mất đi ở một nút làm mờ điện di truyền – genetic dimmer
switch vậy đó. Nhưng bài báo không
giải thích cách nào điều này lại có thể xảy ra.
Meaney tiếp : “ điều chúng tôi đã làm đến điểm này theo thời gian là đã
xác định các săn sóc của mẹ và ảnh hưởng nó trên các gen (es ) đặc biệt.
Nhưng lúc đó di truyền biểu sinh học là một đề tài tôi không biết gì
nhiều cả. Rồi ông gặp Szyf.
Di hưởng sau khi sinh
Còn Szyf cười nói: “ tôi đang cố gắng trở thành nha
sĩ” . Gầy gò, tái nhợt và sói đầu, ông
ngồi trong một phòng làm việc nhỏ đàng sau la bô ầm ỉ, một phòng mộc mạc đến nổi chỉ có một hình chụp duy nhất, một ảnh của hai phôi trong tử cung. Vì cần viết vào cuối thập niên 1970 cho bằng
tiến sĩ răng ở Viện đại học Do Thái – Hebrew University ở thủ đô
Jerusalem, Szyf lân la gặp một giáo sư trẻ tuổi tên là Aharon
Raxin, mới rạng danh khi đăng tải những
nghiên cứu đầu tiên của Razin trên vài tạp chí khoa học hàng đầu thế
giới. Cách nghiên cứu này cũng là lần
đầu tiên trình bày là họat động các
gen(es ) cũng có thể mô đun hóa- biến điệu
bằng các cơ cấu tên gọi là các nhóm mê til, một đề tài Szyf không biết gì hết. Nhưng ông lại cần một cố vấn
làm tiến sĩ và đó là Razin.
Szyf bị hướng qua tiền tuyến của
khoa mới mẽ là di truyền biểu sinh và
không bao giờ bỏ lảnh vực này nữa.
Trước khi có
những nhà khảo cứu như Razin, đường
hướng căn bản câu chuyện cách nào các gen được phiên mã trong một tế bào rất rỏ ràng và đơn giản. DNA là mã số chủ yếu
, nằm bên trong nhân của mọi tế bào. RNA phiên mã mã số, xây đắp bất cứ những protêin nào tế bào cần. Rồi vài đồng nghiệp Razin cho thấy là các nhóm mê til có thể dính vào cytosine, một baz hóa học ở DNA và RNA. Nhưng chính Razin, họat
động cùng nhà sinh hóa học Howard Cedar
đã trình bày là những mối dính này không phải là chuyện ngắn ngủi, vô
nghĩa. Các nhóm mê til có
thể hợp hôn vĩnh viễn với DNA, được sao
chép song song ngay với DNA, xuyên qua một trăm thế hệ. Hơn nữa, cũng như trong mọi hôn nhân tốt đẹp,
việc các nhóm mê til dính vào thay đổi
một cách có ý nghĩa hành vi của bất cứ
gen nào chúng hợp hôn, ức chế phiên mã nó, không khác chi mấy một kẻ ghen tuông. Nó
làm như vậy, theo Razin và Cedar trình bày, bằng cách thắt chặc sợi DNA khi sợi
này vấn quanh cuộn phân tử, tên gọi là histone, bên trong nhân tế bào. Càng vấn
chặc bao nhiêu thì lại càng khó khăn sản
xuất proteins từ gen liên hệ.
Hãy xét đến
điều này nghĩa gì : không có đột biến
của chính mã số DNA , các nhóm mê til dính vào gây ra thay đổi dài hạn, di
hưởng được chức năng gen. Các phân tử
khác gọi là các nhóm acêtil cũng cho
thấy là chúng đóng vai trò đối nghịch lại, mở vấn DNA ra
quanh cuộn histone, và như thế
giúp cho RNA làm phiên mã dễ dàng
hơn cho một gen nào đó.
Lúc Szyf
đến McGill vào cuối thập niên 1980, ông
đã trở thành một chuyên viên về cơ chế
của thay đổi di truyền học biểu sinh .
Mãi cho đến khi gặp Meaney, ông chưa bao giờ nghe được bất cứ ai đã gợi ý những thay đổi như
thế, có thể xảy ra ở nảo bộ, đơn giản vì
săn sóc của mẹ. Szyf công nhận : Đây,
trước tiên tuồng như là yêu thuật. Đối với một
nhà sinh học phân tử, bất cứ điều
gì không theo lối mòn phân tử rỏ rệt thì không phải là khoa học nghiêm túc. Nhưng càng nói chuyện lâu dài, tôi càng nhận
thức là săn sóc của mẹ có thể đủ khả năng gây ra thay đổi trong việc mê til hóa
chuyện này, có vẽ điên cuồng. Cho nên tôi và Michadel quyết định là chúng
tôi phải thí nghiệm thêm để tìm cho ra .
Thực tế, họ đã làm một lọat thí nghiệm phức tạp. Với
sự trợ giúp của các nhà khảo cứu hậu tiến sĩ , họ bắt đầu lựa chọn các chuột mẹ
, những con hoặc rất chú tâm săn sóc
hoặc những con rất lơ là. Một khi chuột con trưởng thành, nhóm quan sát hippocampus ( phần nảo hình cá ngựa ) , một
vùng bộ nảo khẩn thiết cho việc điều hòa phản ứng căng thẳng. Ở các chuột con các bà mẹ lơ là – không chú tâm ,
họ tìm thấy những gen điều hòa sản xuất
các chất nhận – receptors glucocorticoid, chất điều hòa mức nhạy cảm với các hormon căng thẳng, đã được mê til hóa cao. Ở các
chuột con của chuột mẹ rất chú tâm , các gen cho chất nhận glucocorticoid rất ít mê til hóa.
Mê til hóa chỉ làm hồ
vải – gum up cho công trình mà thôi , vì thế càng ít mê til hóa càng tốt khi cần phiên mã gen bị liên hệ. Trong ca này , mê til hóa liên quan đến các
chuột mẹ khốn nạn ngăn ngừa số lượng
bình thường chất nhận đựợc phiên
mã ở hippocampus chuột con. Vì thiếu
không đủ số các chất nhận glucocorticoid, các chuột con lớn lên trở thành những sụp đổ thần kinh.
Hầu chứng minh là
những ảnh hưởng này thuần túy do cách cư
xử của bà mẹ , chứ không phải là các gen mẹ, Meaney và các
đồng nghiệp thực hiện một thí nghiệm thứ
hai . Họ lấy chuột con sinh từ các chuột mẹ lơ là và đưa chúng cho các chuột mẹ chú tâm và ngược lại.
Như họ tiên đóan, các chuột con sinh từ các chuột mẹ chú tâm , nhưng lại do chuột mẹ lơ
là nuôi dưỡng, đã lớn lên với những mức chất nhận glucocorticoid thấp ở vùng
hippocamous và cư xử rất dễ hỏang sợ. Tương
tự, những chuột con sinh từ các chuột mẹ xấu xa, nhưng lại được các chuột mẹ
tốt nuôi dưỡng, lớn lên thì lại bình
tĩnh, can đảm và chứa các chất nhận glucocorticoid ở mức độ cao.
Trước khi đăng tải khám phá, Meaney và
Szyf làm thêm một thí nghiệm khẩn thiết thứ ba, hy vọng làm tràn ngập các
kẻ hòai nghi đang đứng dậy đặt câu hỏi cho các thành quả. Xét cho cùng, có thể biện chứng rằng, nếu
như thay đổi di truyền biểu sinh quan sát ở nảo chuột không phải trực
tiếp do các thay đổi cư xử ở chuột trưởng thành gây ra ,
nhưng chỉ đơn giản là cùng xảy ra ? Freud chắc chắn là đã biết rỏ
sức mạnh dai đẳng của các mẹ xấu
xa để làm hư hết mọi đời sống con cháu.
Rất có thể các ảnh hưởng xúc
động đã không liên hệ gì đến thay đổi di truyền biểu sinh cả.
Để thử nghiệm khả dĩ này , Meaney và
Szyf dùng một lứa đẻ
chuột khác do các chuột mẹ xấu xa nuôi
dưỡng. Lúc này, sau khi tai hại thường
lệ đã xảy ra, họ
truyền vào các bộ nảo chất
trichostatin A, một lọai thuốc có thể lấy đi các nhóm mê til. Nhưng chuột này
không còn trình bày những thiếu thốn cư
xử thường thấy trong con cái và bộ nảo chúng cũng không trình bày một thay đổi
di truyền biểu sinh nào cả. Szyf nói: “
thật là điền rồ nghĩ rằng tiêm nó thẳng vào nảo bộ, lại có thể thành
công, nhưng nó đã thành công thật sự .
Không khác chi mấy khởi động lại máy computer.”
Dù có
chứng cớ rành rành như vậy, khi hai ông viết ra bài bản, một kẻ duyệt xét ở
trên một tạp chí khoa học hàng đầu thế giới
từ chối không chịu tin, nói rằng ông ta chưa bao gìờ thấy chứng cớ là cư
xử của mẹ , lại có thể gây ra thay đổi di truyền biểu sinh .Szyf trả lời: Lẽ dĩ nhiên là ông ta chưa thấy . Chúng tôi
sẽ không hòai công báo cáo nghiên cứu, nếu nó đã được chứng minh rồi.
Cuối cùng ,
bài bản cột mốc “ lập trình di truyền biểu sinh
do cư xử mẹ “ đã được xuất bản tháng 6 năm 2004 ở tạp chí “Khoa học Dây
Thần kinh Thiên nhiên – Nature
neuroscience”.
Meaney và Szyf
đã chứng minh một điều không thể tin nổi. Gọi đó là di hưởng hậu sinh-
postnatal heritance: không có thay đổi mã số di truyền , các
chuột bé con tuy vậy đã thêm các dính di truyền do cách nuôi nấng duy nhất,
nghĩa là các cộng thêm di truyền biểu sinh của các nhóm mê til, dính như dù che
ở các cửa thang máy các histones chúng, hồ vải các công trình và sửa đổi chức năng nảo
bộ.
Công trình tiếp theo
Hai ông
Meaney và Szyf tiếp tục xuất bản thêm chừng 12
tá bài bản , tìm ra các chứng cớ
dọc theo cách thay đổi di truyền biểu sinh cho rất nhiều gen tích cực trong nảo . Chẳng hạn năm 2008 , họ đã so sánh những bộ nảo của những ai đã tự tử với nảo bộ những ai chết bất ngờ vì nhũng thừa tố
khác tự tử. Họ tìm thấy là ở hippocampus các nảo người tự tử , quá thừa
mứa mê til hóa các gen (es ). Hippocampus là một vùng cực trọng cho thu nhận trí
nhớ và phản ứng căng thẳng. Nếu các nạn nhân tự tử đã bị hành hạ khi còn là trẻ em, họ tìm thấy là bộ nảo của chúng được mê til
hóa nhiều hơn.
Lẽ
dĩ nhiên là thường không thể làm mẩu các nảo bộ
các người đang sống. Nhưng khám xét các mẩu máu của con người là thủ tục thông lệ và Szyf đã cố
tìm kiếm dấu chuẩn – makers cho mê til hóa di truyền biểu sinh. Năm
2011, ông báo cáo là một phân tích các mẩu máu làm hệ gen rộng rải, lấy từ 40 đàn ông gia nhập một nghiên cứu Anh
Quốc cho ai đã sinh ra năm 1958. Mọi
người này đều có những cực đoan kinh tế xã hội, hoặc qúa giàu hay quá nghèo, ở
một điểm nào đó trong đời sống họ, kéo dài từ thuở nhỏ dại sớm sủa đến trưởng thành. Szyf đã nghiên cứu tất cả là chừng 20 000 gen của họ. Trong số này, 6 176 gen ( es ) thay đổi có ý nghĩa , căn cứ trên nghèo khổ
hay giàu có. Đáng ngạc nhiên nhất là
khi tìm thấy những gen này, tuồng như
cho thấy thay đổi mê til hóa hai lần nhiều hơn căn cứ trên lợi tức gia
đình vào tử thời trẻ em sớm sủa, chống lại tình trạng kinh tế vào lúc trưởng
thành.
Nói cách khác,
tính theo thời gian đáng lưu ý. Cha mẹ bạn thắng xổ số hay bị phá sản khi bạn mới 2 tuổi, sẽ ảnh
hưởng đến hệ gen biểu sinh – epigenome
ở nảo bạn và các khuynh hướng xúc động thành quả, mạnh hơn là tiền của rơi bao nhiêu vào túi, lúc bạn
trung niên. …
Dấu vết của Cain
Thông điệp là tình thương của
mẹ có thể làm ra khác biệt ở đời sống
con trẻ không có gì là mới mẽ cả. Nhưng khả năng thay đổi di truyền biểu sinh tồn tại xuyên qua nhiều thế hệ vẫn còn là một đề tài tranh cải. vậy chớ mê til hóa truyền trực tiếp qua một
trứng thụ tinh, hay là trẻ em sơ sinh được sanh ra rất thuần nhất, nghĩa là một
trinh nữ đã được mê til hóa, với các
nhóm mê til dính vào, tiêu phí vô tội
duy nhất do các cha mẹ sau khi
sanh?
Eric Nestler , nhà khoa học dây thần kinh
trường y khoa Icahn ở Mount Sinai- thành phố Nửu Ước, đang cố tìm giải đáp nhiều năm nay . Trên một
nghiên cứu , ông phô bày các chuột đực bị những
chuột lớn hơn , năng nổ hơn, hiếp đáp 10 ngày . Cuối thí nghiệm, chuột bị hà
hiếp có vẽ bị đắm mình xa lìa xã hội. Hầu thử nghiệm xem là những ảnh hưởng
này có tuyền qua thế hệ kế tiếp không,
Nestler dùng một nhóm chuộc khác bị hà
hiếp và cho chúng giao cấu với chuột cái, nhưng giử không bao giờ cho chúng gặp
con cái . Dù không bao giờ tiếp xúc với
các cha chúng mắc bệnh trầm kha, con cái lớn lên rất nhạy cảm với căng thẳng.
Ông nói: “ đây không phải là một ảnh hưởng tế nhị; con cái một cách đáng kinh
ngạc , lại dễ bị phát triễn các dấu hiệu trầm kha.”
Ở
những thử nghiệm sau đó , Nestley lấy
tinh trùng của các chuột đực bị đánh bại và cho thụ tinh chuột cái qua thụ thai nhân tạo ơ
ống nghiệm . Con cái không phơi bày ra đa số các bất bình thường, gợi ý rằng
truyền đi di truyền biểu sinh học, có thể không phải là ở căn nguyên . Thay vào
đó, Nestler đề nghị: chuột cái có thể biết
là đã làm tình cùng một kẻ thua cuộc. Nó
biết là đã làm tình cùng một chuột đực
có vết dơ , cho nên nó đã săn sóc chuột con một cách khác” , để tính tóan các thành quả .
Mặc dù khám
phá này, không một nhất trí nào trổi dậy
. Chứng cớ cuối cùng nhất , đăng tải ngày 15 tháng giêng năm 2013 ở tạp chí
Khoa Học, gợi ý rằng những thay đổi di truyền biểu sinh trên chuột thường bị
xóa bỏ, nhưng không luôn luôn như thế. Xóa bỏ có thể không hòan tòan , và đôi khi
các gen (es ) bị ảnh hưởng có thể xóa bỏ đi ở thế hệ kế tiếp, đặt ra một giai
đọan truyền đi các tính trạng sửa đổi
trên con cháu nữa.
Điều gì kế tiếp đây ?
Các nghiên
cứu tới tấp . Một đường hướng khảo
cứu theo dấu mất trí nhớ lúc về già vì
các sửa đổi di truyền biểu sinh trên các nơ ron nảo. Một đường hướng khác nối kết rối lọan căng thẳng hậu chấn thương vì mê til hóa gen làm mã số cho một thừa tố kích
thích dây thần kinh – neurotrophic, một protein điều hòa tăng trưởng các nơ ron nảo . Nếu những
thay đổi di truyền biểu sinh thành các gen tích cực ở vài vùng nảo làm ra thông minh tri thức và
xúc động của chúng ta - nghĩa là khuynh hướng chúng ta tỏ ra bình tĩnh hay sợ hải, khả năng chúng ta
học hỏi hay quên đi- là đúng sự thật, thì sẽ nêu lên một câu hỏi : Tại sao
chúng ta lại không dùng thuốc thang để rửa sạch các nhóm mê til không mong
muổn? như một thanh xà phòng Cô Ba xa
xưa ?
Săn bắt đang
tiếp diễn . Các công ty dược phẩm khổng lồ hay các hảng kỷ thuật sinh học nhỏ
hơn đang cố tìm kiếm các hợp chất di truyền học biểu sinh tăng cường học hỏi và
trí nhớ. Không một ai không biết là các
thuốc chửa trị di truyền biểu sinh có cơ
thành công chửa trị trầm kha- phiền muộn, lo âu và biến lọan căng thẳng hậu
chấn thương mà các thuốc men bệnh tâm thần hiện nay đã thất bại.
Nhưng đó phải
là một bước nhảy vọt . Tại sao chúng ta
lại có thể chắc chắn là các thuốc men di
truyền học biểu sinh chỉ có thể cào
sạch những dấu chuẩn nguy hiểm, chừa lại nguyên vẹn các nhóm mê til ích lợi, có
khi rầt cần thiết ? Và khi chúng ta có thể tạo ra một viên thuốc đủ uy vũ
rửa sạch lớp diệp thạch di truyền
biểu sinh tòan lịch sử đã viết ra ?Nếu như một viên thuốc này có thể làm tự do, giải thóat các gen(es ) bên trong
bộ nảo chúng ta về những rác rưới di truyền biểu sinh do các chiến tranh, các hiếp dâm , các từ bỏ và lừa đảo
thiếu thời của tổ tiên chúng ta gây ra, bạn có thể nuốt viên thuốc này
không ?
(Chiếu theo
Dan Hurley, một cộng tác thường xuyên
của Khám Phá – Discover số tháng 5 năm 2013 . Sẽ xuất bản tháng 12 /2913 sách Thông minh hơn : Khoa học mới Mới của
Thông Minh Lõng – Smarter : The New Science of Fluid Intelligence.”
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ ngày 30 tháng tư
năm 2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét