Cập nhật về Gồi Mâm Xôi (
Dum- Ngấy- Ré- Thuần … ) đen , đáng phát triển ở vùng cao Việt Nam như dâu tây vậy
G S Tôn thất Trình
Chúng tôi đã đề cập đến tông Rubus ( tên cũ là Eubatus ) ở họ hoa Hồng Rosaceae
, họ của nhiều trái cây cần ít nhiều lạnh để sản xuất trái lớn, không méo mó
như đào lông , mận tây , mơ- mai, táo tây – pom , ngay cả lô quát ( tì bà- sơn
trà Nhật bổn- nhót … ) Eriobotrya
japonica , dâu tây Fragaria sp. Việt Nam điểm danh được 4 lòai Fragaria hoang dại: nilgerrensis, vesca, chiloensis, và moschata
ở các vùng Lào Cai, Lai Châu, có thể Đà Lạt -Lang Bian ( Lâm Viên ), dùng trên thế giới lai tạp chủng cải
thiện thành các giống lai
dâu tây trái to, kháng nhiều bệnh cây , năng xuất cao ngày nay , và các
giống mâm xôi ( gồi, dum , ngấy, ré ,
thuần… ) hoang dại hay lai giống
tuyễn kháng sâu , kháng bệnh, cao năng trồng trọt. Việt Nam chưa thấy thử
nghiệm ở nhiều vùng cao thích hợp (
các sường đồi -núi cao rừng thưa, trảng cỏ hoang hai phía Hòang liên Sơn, Trường Sơn
Tây, Trường Sơn Đông v.v… ) các giống mâm xôi đỏ vàng kim , đen… mà mấy
năm nay , đặc biệt từ thập niên 1980, đã
phát triễn nhiều ở các xứ Vùng Địa Trung Hải ( xứ Serbia) , Chi Lê (Chí Lợi – Chili) , Úc châu , Á Châu …, như đã thành công trồng và xuất cảng thanh
long nguồn gốc Trung , Nam Mỹ Châu ở Phan Thiết, Phan Rang… sau thập niên 1980.
Đôi chút thực vật học về Mâm Xôi
Rubus alceaefolius |
Ở Việt Nam, giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã định
danh hơn 54 ( ? ) lòai – species của tông chi Rubus khắp nước từ Nam ra Bắc, một con số lòai của Rubus
sp. đáng kể so với trên số 375 lòai tông này kiểm kê tòan cầu , kể cả dạng sinh
sản vô phối lòai vi tiểu- apomictic
microspecies nguồn gốc địa phương
tìm thấy ở ở các vùng ôn đới Bắc và
Nam Bán Cầu Châu Mỹ . Tên chung theo tiếng Anh là bramble và theo tiếng Pháp là framboise
( mu^res , nếu là hoang dại ). Từ mâm
xôi chỉ thấy dùng độc nhất ở Việt Nam gọi lòai cây Rubus alceaefolius ( tên khác là dum ngấy hay đùm đũm) có
trái đỏ, ăn được, vị chua chua, lá dùng như trà, giúp tiêu hóa, trên rừng
còi khắp cao độ từ Bắc Cạn đến Đà Lạt. Đa
số là dây bụi leo , bụi trườn mọc trên cao độ 800 – 3000m nước nhà . Ngọai
trừ lòai dum bụp( ? ) Rubus
malvaceus tìm thấy ở Thừa Thiên – Huế, một lùm bụi có nhánh đầy lông
vàng và gai cong, có trái nhỏ màu đỏ, ăn được , và các lòai dum đảo Mô luýc Rubus moluccanus var moluccanus, một bụi leo , nhánh lông xám
, đầy gai trái tròn đỏ chói, ăn chua
chua tìm thấy ở Phú Quốc, lá làm lợi kinh,
nhưng ăn nhiều làm lạc thai, trị được đái dầm cho trẻ em; hay dum có cạnh R. moluccanus var angulosus, một bụi trườn nhánh đầy lông xám , gai ít ,nhỏ cong trái đỏ, tìm thấy cũng ở Phú Quốc. Dum góc
tà R. moluccanus var obtusangulus , một bụi trườn, nhánh có gai nhỏ lông mịn dày màu rỉ sét tìm
thấy ở vùng rừng thưa núi cao Lào Cai và dum đổi màu R. moluccanus var discolor
, một lùm bụi , nhánh đầy lông mềm gai
thưa , cũng mọc ở núi cao Lào Cai, Thừa Thiên, ( Bạch Mã ) , Quảng Nam. Dum
Nam Bộ ( còn có tên là Ngấy hương
hay Ngủ Gia Bông )
Rubus cochinchinensis, một bụi trườn , nhánh lông trắng, có trái đỏ
ăn được tìm thấy ở rừng còi từ bình nguyên đến 1000m, từ Cao Bằng -Lạng Sơn
xuống đến Bảo Lộc.
Riêng 4 lòai mâm xôi đen trên thế giới chưa thấy giáo sư Phạm Hòang Hộ ghi danh ở sách Cây Cỏ
Việt Nam . Đó là lòai giống thường trồng trọt R.
fructicosus , R. ursinus , R. argutus và R. ulmifolius. Và hàng trăm
các lòai vi tiểu -micro species
cũng thuộc tông phụ subgenus
Rubus( trước đây tên là Eubatus ) , kể cả lòai mâm xôi ( gồi
, dum ) giọt sương -dewberry khác
biệt các lòai mâm xôi khác , vì trái phủ đầy
một lớp sáp trắng và trái cũng nhỏ hơn, tên khoa học là Rubus ceasius. Vài lòai mâm xôi đen du nhập vào Úc Châu, Chi Lê , Tân Tây Lan
– New Zealand và vùng Thái Bình Dương Tây Bắc, Bắc Mỹ Châu, nhưng lâu ngày thành cây cỏ địa phương như các lòai R.
armeniacus ( hay R. procerus “Himalaya ”), và R. laciatus vạn niên thanh – evergreen( không rụng
lá mùa lạnh ), được xem là những giống
cỏ dại xâm lấn ruộng đồng nghiêm trọng,.
Nhiều giống mâm xôi đen và giống
lai được nông dân tài tử hay nông dân thật sự trồng trọt ở Âu Châu và Hoa Kỳ. Marionberries là một giống lai khá quan
trọng, vị thơm ngon giữa các gồi – mâm
xôi “Chehalem” và “mâm xôi Olallie”. Còn mâm
xôi Olallieberry cũng đã là giống
lai tuyễn chọn ở bang Oregon – Hoa Kỳ( (
do chương trình lai tuyễn mâm xôi đen của Viện sở khảo cứu nông nghiệp
bộ nông Nghiệp Hoa Kỳ USDA- ARS tại Viện
đại học Oregon State University tại Corvallis), nhưng lại trồng nhiều hơn ở bang Ca Li ,
giữa loganberry và youngberry. Loganberry là một
giống xưa cũ của bang Ca Li – Hoa Kỳ, tìm thấy
ở quận Santa Cruz, Bắc Ca Li vào
thập niên 1880 và cũng đã là một giống lai tuyễn chọn giữa mâm xôi đỏ, vàng kim- raspberry và mâm xôi đen -blackberry rồi.
Marionberries |
Mùi vị của các gồi – quả mọng ( berries ) mâm xôi hay quất đào mân việt – cran berry đã được trình
bày rồi hay quất đào xanh dương – blueberry , cùng tông thực vật Vaccinium ( thường là lòai Vaccinium
corymbosum) với quất mân việt
tuy rằng đối với vài tác giả lại thuộc tông phụ
Cyanococcus , khác biệt nhau tùy ít hay nhiều độ chua . Olallieberries và
loganberries chua nhất .
Mâm xôi đen khá nổi danh nhờ chứa nhiều chất dinh dưỡng cao như sợi
kiêng cử- dietary fiber, sinh tố C , sinh tố K , acid folic ( là một
sinh tố B ) và kim lọai cần thiết là
manganese. Mâm xôi đen cũng được liệt
vào hạng trái cây nhiều chất kháng ôc xy hóa – antioxydants , đặc
biệt các hợp chất polyphenolic dày
đặc tỉ như acid ellagic, tannins ,
ellagitannins, acid gallic , anthocyanins và cyanidins. Gía trị ORAC ( khả năng hấp thu gốc oxygen ) là 5346 cho 100gr,
đặt mâm xôi đen vào hạng đầu sổ các trái cây ORAC.
Cách trồng trọt và các giống thương mãi hiện hửu
Mâm xôi đen cũng như các mâm xôi khác là những cây đa niên ( sống lâu
ngày ) điển
hình phát sinh hoa trái nhị niên ( hai năm một lần ) từ
những “ thân gậy – canes” phát
xuất từ hệ thống rễ đa niên. Năm đầu tiên, một thân mới gọi tên là “thân gậy
đầu tiên – primocane” mọc mạnh mẽ dài 3- 6m ( có nhiều giống mọc dài đến 9m ) cong vòng hay trườn thẳng
dài trên mặt đất, lá rộng lớn có hình lá cọ - palmate gồm 5 – 7 tiểu diệp và không phát hoa nào cả
. Qua năm thứ hai , thân gậy mới trở thành thân gậy hoa – floricane và thân ( gậy ) không dài ra thêm nữa, nhưng các mầm ngang
mọc lên sản xuất cành – nhánh
ngang có hoa ( lá cành nhỏ hơn chỉ 3-5 tiểu diệp là cùng ).Các chồi năm thứ nhất và năm thứ
hai thường có lông gai – prickles ngắn cong và rất nhọn , thường lầm với gai – thorns thật sự. Nhiều giống không lông gai đã được phát
triễn. Mới gần đây, Viện đại học Arkansas đã phát triễn
các giống mâm xôi đen có thân gậy đầu ra hoa sinh trái năm đầu tiên
như các giống gọi là giống muà thu- fall bearing hay luôn luôn
sinh hoa ra trái- everbearing như các giống mâm xôi đỏ vậy đó. Các cây
mâm xôi đen trưởng thành không chăm sóc làm thành một mớ thân cong vòng quấn chằng chịt vào nhau , vì các cành nhánh
ngọn đâm rễ ở nốt chóp khi chúng bắt đầu trồi lên mặt đất. Cành mọc mạnh và mau lẹ biến thành thân gỗ, bụi rậm, ở đồi núi, rào dậu.
Các bụi rậm mâm xôi đen chịu đựng được
nhiều lọai đất đai nghèo nàn ,mau lẹ xâm chiếm đất hoang, hố hào , và các
lô đất bỏ trống. Ở các xứ ôn đới, hoa phát xuất cuối mùa xuân
hay đầu hạ trên các chùm hoa ngắn, ở ngọn cành ngang. Mỗi hoa đường kính
chừng 2- 3cm với năm cánh hoa trắng hay
hường lợt. Các quả hạch nhỏ - drupelets
chỉ phát triễn quanh nõan sào và phát
triễn không đầy đủ thường do do thiếu “ ong bướm” thăm viếng. Ngay cả một thay đổi nho nhỏ các điều kiện tăng trưởng, tỉ như một ngày
mưa hay một ngày quá nóng nực cho ong hoạt động sau sáng sớm tinh sương, có thể
tai hại cho phẩm giá trái mâm xôi đen . Quả hạch nhỏ không phát triễn đầy
đủ cũng có thể là dấu hiệu dự trữ
các dưỡng liệu của các rễ cây đã tiêu xài hết , rễ kiệt sức hay bị virus lây
nhiễm phá hại, tỉ như virus làm bụi lùn mâm xôi đỏ, vàng kim- raspberry bushy dwarf virus. Trên phương diện sinh thái ở các nước ôn đới,
mâm xôi đen là nguồn thực phẩm cho vài sâu bướm, vài lòai vật có vú ăn cỏ
như hươu nai. Sâu
của bướm núp Alabonia geoffrella tìm thấy ăn bên trong các chồi mâm xôi đen đang
chết. Khi trưởng thành, các hươu nai,
chồn… cũng như vài lòai chim, ăn trái và
phân tán hột .
Những lọai mâm xôi khác nhau |
Các giống
mâm xôi đen Trung tâm Corvallis, bang Oregon USDA-ARS giải tỏa trồng
trọt gần đây nhất là các giống không
gai lông – prickle-free cultivars “ Kim Cương Đen – Black Diamond”,
“ Ngọc Trai Đen- Black Pearl” “ Đêm Đến – Nightfall” cũng như các giống chín rất sớm “ Đá vỏ chai –
Obsidian”” Metholius “. Vùng Tây
Bắc Thái Bình Dương Bắc Mỹ Châu hiện trồng nhiều giống “ Kim Cương Đen” nhất. Những giống khác do Trung tâm Cornvallis tuyễn
chọn và giải tỏa là “ Waldo” , “
Siskyou”, “Black Butte ”,
“ Kotata” , “ Pacific” và “Cascade” . Nhũng giống mâm xôi đen trườn
dài – trailing mọc rất vạm vở thành
ngọn đọt, cần làm giàn leo nâng đở và ít chịu đông lạnh hơn là các
giống thẳng đứng – erect hay thẳng
đứng nữa vời – semi erect. Ngoài vùng Tây Bắc Thái Bình Dương Hoa Kỳ, những
giống này mọc tốt ở những vùng khí hậu tương tự tại Vương Quốc Anh, Tân Tây Lan
, Chi Lê và các nước Địa Trung Hải. Các giống mâm xôi đen thẳng đứng nữa vời
được phát triễn trước tiên ở Trung tâm John Innes tại Norwich ,
Vương Quốc Anh- UK
và sau đó ở trung tâm USDA- ARS Beltsville, bang Maryland .
Chúng là những chồi ngọn , rất vạm vở , và cũng cần có giàn nâng đở . Các giống trồng trọt là “ Black Satin “, “ Chester Thornless”, “ Hull
Thornless”, “ Lochness” , “LochTay”, “Merton
Thornless”, “ Smoothstem”, “ Triple Crown” . Mới đây xứ Serbia , nguyên là một nước của Nam
Tư Lạp Phu – Yougoslavia thời trung lập Tito tuyễn chọn giống “ Cacanska
Bestrna ( còn có tên là Cacak
Thornless ) và trồng trong xứ có đến
mấy ngàn hecta. Viện Đại học Arkansas cũng tuyễn chọn
được nhiều giống mâm xôi đen thẳng đứng . Chúng mọc không mạnh mẽ như các giống
nữa vời và sản xuất ra các gậy từ dấu mầm rễ ( như thế chúng cũng lan tràn dưới
đất như thể mâm xôi đỏ và vàng kim ).
Chúng là những giống có lông gai hay không lông gai gồm “
Navaho”, “Ouachita”, “Cherokee”, “ Apache”, “Arapaho” và “Kiowa”. Chúng cũng là nguồn gốc phát
triễn nhũng “ thân gậy đầu tiên – primocane”
ra hoa, cho trái mâm xôi đen tỉ như” Prime
–Jan” và “Prime- Jim”.
Mâm xôi vàng |
Ở ngành trồng mâm
xôi đỏ hay vàng kim – raspberries,
nhưng giống này gọi là primocane ra trái , lọai ra trái mùa thu – fall fruiting hay lọai luôn
luôn có trái- ever bearing . Prime-
Jan là giống mâm xôi đen đầu tiên giải tỏa ra năm
2004. Chúng mọc tương tự các
giống thẳng đứng vừa nói trên ; tuy nhiên thân gậy trồi lên mùa xuân sẽ nở hoa giữa mùa hè và ra trái cuối
mùa hè hay vào mùa thu. Trái mùa thu có
phẩm giá cao, nhất là khi chín ở những vùng tương đối không có lạnh gắt , mát
mẽ ôn hòa ở các bang Ca Li và Tây Bắc Thái Bình Dương . “ Illini
Hardy” một giống thẳng đứng nữa vời
do viện đại học Illinois
du nhập vào vùng khí hậu lọai 5 ( của USDA- bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ ) nơi sản xuất mâm xôi đen thường bấp bênh và
các thân gậy không sống sót được mùa đông lạnh lẽo. Trái mâm xôi đen có khuynh hướng giữ màu đỏ khi chưa chín ( giai
đọan non xanh – green phase ), cho nên có câu chơi chữ “ là mâm xôi đen lại ra trái đỏ khi chúng còn xanh , còn non”. Tại nhiều vùng Hoa Kỳ , các giống mâm xôi đen
hoang dại đôi khi có tên là” Mũ Đen – Blackcaps ,một từ ngữ thường dùng
để chỉ tên loài Rubus occidentalis.
Rubus occidentalis
|
Mâm xôi đen trồng nhiều nhất như đã nói là ở
bang Oregon, Hoa Kỳ. Oregon đứng đầu sản xuất mâm xôi đen thế giới , gần 21 triệu kg trái ở diện tích gần 2500 ha năm
1995 ( ngjĩa là trung bình năng xuất là
8000 kg/ha ) và 28 triệu kg ở
diện tích 2800 ha ( 10 000 – 1 tấn / ha )
năm 2009. Số lượng sản xuất trái mâm xôi đen thương mãi Oregon có thể đứng hạng nhất , nhưng diện tích trồng mâm xôi đen ở nước Serbia lớn
hơn diện tích trồng lọai trái này ở Oregon- Hoa Kỳ. Đáng nêu ra là sản xuất mâm xôi
đen đã tăng trưởng đáng kể ở xứ Mexicô thập niên vừa qua. Như nước Chi lê về mâm xôi raspberries đỏ - vàng kim
phát triển mạnh từ năm 1980. Trước
đây, Mexicô chỉ trồng
giống “Brazos” , một giống
thẳng đứng phát triễn ở bang Texas ,
Hoa Kỳ. năm 1959. Nay Mexicô trồng nhiều nhất là giống Brasil “ Tupi” giải tỏa vào thập niên 1990. Cha mẹ
của giống Tupi là giống mâm xôi đen thẳng đứng “ Comanche” và giống mâm xôi đen hoang dã Uruguayan (một nước Nam Mỹ ) . Vì lẽ Uruguay
không có các lòai mâm xôi đen địa phương
cho nên nhiều nhà thực vật học nghi rằng
giống đực làm cha lai giống là giống lòai“ Boysenberry” trồng nhiều ở Uruguay . Một điểm khác đáng nêu ra là nhiều vùng
Mexicô mùa đông không đủ lạnh –
chilling winter để khích lệ phát
triễn mầm hoa , Mexiô đã phải dùng hóa
chất làm rụng lá- chemical defoliation và áp dụng các chất điều hòa sinh trưởng- growth
regulators đễ giúp các cây mâm xôi
đâm hoa, nở hoa.
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa Kỳ ngày 27 tháng 6
năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét