Tương Lai Môi Sinh Cộng Đồng Thế Giới :
(đáng cho Việt Nam
lưu ý hơn chăng ?)
Làm sao sống sót và phồn thịnh ở
một hành tinh đang bị hâm nóng thêm
G S Tôn thất Trình
Phần I (theo David Roberts, Popular Sciences tháng 7 năm 2012 )
Khí hậu thay đổi đã thực sự xảy ra
98 % các nhà khoa học khí hậu đang họat động đồng ý là khí quyễn đã nóng thêm đáp ứng cho
các phát thải khí nhà kiếng của nhân lọai
làm ra và những khảo cứu gần đây gợi
ý là chúng ta đang theo lối mòn
tiến tới kịch bản có khi được xem là “ tệ
nhất” . Vậy chớ hành tinh Trái Đất
cần hâm nóng theo bao nhiêu độ nữa mới trở thành địa ngục trần gian đây ? “ Nhậy cảm khí hậu” là một đề tài được
điều nghiên kỷ càng. Các nhà điều đình Liên Hiệp Quốc đã dàn
xếp một mục đích giới hạn carbon
dioxide- CO2 khí quyễn là 450 phần triệu – parts per
million ( ppm ), sẽ làm nhiệt độ
trung bình tòan cầu sẽ đạt đỉnh không
cao hơn các mức tiền công nghệ- preindustrial levels chừng 3.6 độ F .
Nếu nhiệt độ nóng hơn mức này, chúng ta sẽ phải đối đầu với những mức hạn hán
và giông tố nghiêm trọng, nhân lọai chưa
bao giờ thấy trước đây cả thảy. Điều này
tỏ ra đã xấu xa quá rồi và thật thế
các nhiệt độ hậu công nghệ đã tăng lên
1.6 độ F, nhưng chúng ta
còn thêm lý do tin tưởng rằng như
James Hansen và nhiều nhà khoa học khí hậu khác, đã tin tưởng là những ảnh hưởng nặng nề cũng sẽ xảy ra
dưới mức 450 ppm và dưới mức hiện nay là
396 ppm. . Hiểm nguy gần kề hơn là chúng
ta tưởng!
Chắn chắn chúng ta sẽ vượt
qúa 3.6 độ F trong mọi trường hợp. Một nghiên cứu mới tìm thấy là nhiệt độ trung bình tòan cầu sẽ tăng thêm 3.2
độ F vào cuối thế kỷ thứ 21, ngay cả khi
các phát thải carbon nhân lọai rớt xuống
zero – số không ngày mai, một
kịch bản lẽ dĩ nhiên sẽ khó lòng xảy ra. Đơn giản, giới hạn nhiệt độ tăng lên hai lần hơn mức “ an
tòan”, sẽ đòi hỏi cố gắng tòan
cầu anh dũng và vững bền, một mức cuồng
vọng không thấy rỏ ở đâu cả. Và khi nhân lọai
không làm gì để cản trở ô nhiễm khí hậu,
“đường đạn bay” hiện hửu
có thể làm tăng thêm mức này đến 10 độ F vào cuối thế kỷ này.
Chúng ta không còn nào nữa chống
trả đối mặt những thay đổi chánh yếu đang xảy ra. Cuối thế kỷ này, các mức
mặt nước biển sẽ tăng lên, hạn
hán sẽ lan tràn và hàng triệu động vật,
con người và những gì khác, cũng sẽ bị
đẩy ra khỏi gia thất mình. Các nhà khoa
học gọi tiến trình sửa sọan cho các thay
đổi này là “ thích nghi – adaptation”. Nhưng một từ ngữ đúng hơn có thể tìm ra ở thế giới kỷ thuật là gập ghềnh – gian lao đi ( ruggedizing
). Các thái quá lớn hơn sẽ đòi hỏi những xã hội cực nhọc, có tinh thần đàn hồi
hơn.
Năm 2009, các nhà khảo cứu Viện đại học Oxford, Trung tâm Tyndall cho Khảo cứu Khí hậu
Thay đổi và Trung tâm Hadley của Sở Khí tựợng Met
Office Vương quốc Anh- UK, tổ chức một
hội nghị xem thử thay đổi 7.2 độ F hay
lớn hơn là gì đây, lạ lùng thay lại là một
xem xét khoa học phối hợp lần đầu tiên về ảnh hưởng của nhiệt
độ cao như thế. Sau đây là vài kết quả: 7.2 độ F , có cơ xảy ra sớm
nhất năm 2060 có thể nghĩa là một hành tinh nóng hơn bất cứ lúc nào, trong 10 triệu năm
qua. Đến năm 2100, mực nước biển
sẽ cao thêm đến 6 bộ Anh ( 1.8m ), làm cho hàng trăm triệu cư dân sống ở bờ biển thế giới thành dân vô gia cư ,
cùng lúc với những vùng đại dương cũng trở
thành “ những khu vực chết
-dead zones”. Các vùng băng hà, sông – tảng băng và các rạng san hô sẽ mất tan ở hành tinh Trái Đất. Nhắc lại là theo
Schaefer ( năm 2003 ) thuộc Ủy Ban Quốc
tế thay đổi khí hậu -Inernational Panel Climatic Change ( IPPC ) thiết lập năm 1988 một cơ quan liên chánh phủ có 194 quốc gia thành viên, khi nước biển
dâng cao hơn 1m so với hiện nay, khỏang
40 000 km2 ( 4 triệu ha ) chừng 21.1% tổng diện tích đất liền Việt Nam, sẽ bị ngập
nước biển
Chúng ta có thể làm dịu bớt cuộc tấn công dữ dội này, nếu
chúng ta bắt đầu sửa sọan ngay từ bây giờ, xây dựng các thị trấn- đô thị carbon
thấp và tỉ trọng dân số cao xa bờ biển, triệt để cải thiện hiệu quả nước và các hệ thống năng
lượng, nâng cao khả năng giải đáp khẩn cấp địa phương và tòan cầu, điều chỉnh
lại thành lề lối đời sống ít tiêu thụ,
ít xài phí hơn. Thế nhưng dù rằng nhân lọai là một
lòai tài trí, vài thay đổi một cách đơn
giản vượt qúa bất cứ khả năng thực tế
nào cho việc thích nghi. Đe dọa thực sự,
đe dọa hiện sinh là thay đổi khí hậu sẽ
đạt quá nhiều động năng làm nhân lọai mất đi những sức lực còn lại, hầu làm
thay đổi chậm hay ngừng đi, ngay cả bằng cách giảm phát thải xuống con số
zero. Nếu thay đổi trở nên tự mình vững bền, con cháu chúng ta sẽ thừa hưởng
một khí quyễn không còn kiểm sóat quay ngựợc trở lại được nữa với nhiệt
độ tăng thêm không thể tránh được, có cơ theo một nghiên
cứu mới đây có thể biến nữa phần Trái Đất
hiện là lục địa, rỏ ràng là đã quá nóng , không chịu nổi vào năm 2030
.
Các kịch bản này phát sinh
từ các mô hình khí hậu; không có cách
nào tiên đóan xác thực là điều gì sẽ xảy
ra. Có thể nắm chặc xui khiến bất ổn này là một lý do để chờ đợi, chờ xem. Vậy chớ tại sao lại phải sửa sọan , khi chúng ta không biết đích xác là chúng ta sửa sọan làm gì ? nhưng điều không chắc chắn ở
khoa học ảnh hưởng khí hậu – có hàng vạn lọai- , có cơ làm tương lai nguy nan hơn, không phải
ít nguy nan đi. Mọi điều trông có vẽ xấu xa, nhưng nếu có một cơ hội chúng sẽ
tốt đẹp hơn là chúng ta mong đợi , thì cũng có một cơ hội chúng có thể xấu xa hơn.
Ở “ đuôi dài” đường cong sác xuất, có những cơ hội nhỏ, nhưng không phải là
không có ý nghĩa, làm ra tai hại vô giới hạn cho mọi mục đích thực tiễn. Chẳng hạn,
nếu nhiều tảng băng chánh yếu
căn bản lục địa Thế Giới kể trên tan chảy, chúng ta có thể mục kích các mực nước biển nâng lên thêm 12m ( 40 bộ Anh ) vào
các thế kỷ tới .
Đó là những khám phá bướng bỉnh
và bực bội. Trên hết, chúng gợi ý là
nhiệt độ tòan cầu phải được giữ lại càng thấp càng tốt, ở bất cứ giá nào. Nhung
chúng cũng làm minh bạch là vài thay đổi không thể tránh được . Chúng ta không
còn có lựa chọn giữa cách làm thoa dịu thay đổi khí hậu và
cách thích nghi với thay đổi khí hậu nữa. Chúng ta phải làm cả hai cách .
Khi chúng ta nói về thích nghi, chúng ta
thường tưởng tượng đến làm phù hợp một bộ điều kiện mới đặc thù: một nơi ôn đới trở nên qúa nóng
nực, một nơi lạnh lẽo trở nên ôn hòa, cho nên chúng ta di chuyễn các nông trang
chúng ta quanh đó và tiếp diễn như vậy.
Nhưng chúng ta không biết và sẽ không biết khá lâu là nhiệt độ đặc biệt nào chúng ta sẽ
giáp mặt và chúng ta sẽ còn có một nhiệt độ ổn định nữa không ? Đó không phải là một bộ điều kiện đặc thù, mà là tính cách bất trắc tự mình chúng ta
phải thích nghi .
Ngay cả khi chúng ta uyễn chuyễn, chúng ta cũng phải suy tư và họat động
trên kích thước đại trà, rộng lớn. Những dự án hạ tầng cơ sở chánh: xa lộ, đập , đê bao ngạn, các đường dây chuyễn điện , xe lữa và tàu
điện ngầm là những đầu tư cần nhiều thế hệ mới trả xong nợ. Hệ thống tàu điện ngầm- New York
City subway system nay đã cũ hơn 100 năm
rồi đó . Ngày nay không có cơ hội không
vụn vặt tí nào là phần lớn Manhattan sẽ phải chìm trong
nước biển 100 năm tới. Cách nào chúng ta còn đầu
tư được ở tương lai mờ mịt và dữ tợn như
thế ? Các nhà khoa học và các kỷ sư
đã có nhiều giải pháp kiệt xuất
và một số không kiệt xuất cho lắm có thể thực hiện. Và nay đúng là lúc chúng ta phải ra tay.
Phần II : Xây dựng những thị trấn - đô thị thông minh hơn
( tiếp theo, chiếu theo Kalee Thompson, Popular Sciences
số tháng 7 năm 2012 )
Dân số thế giới sẽ đạt 9 tỉ người năm 2016 . Vì lẽ thóai hóa môi sinh do
khí hậu thay đổi cảm ứng, các nhà khoa
học dự tính là hàng chục triệu người sẽ di chuyễn đến những thị trấn nhỏ và trung bình ngày nay. Hầu sửa sọan cho dòng di chuyễn này, theo lời
Dennis Frenchman, một kiến trúc sư và
giáo sư qui họach đô thị tại Viện MIT, các nhà họa kiểu đô thị phải làm những
quyết định ngay bây gìờ để làm dịu bớt
cuộc di chuyễn ngày mai. Những quyết
định này phải tụ điểm làm cho mọi hệ thống hửu hiệu hơn. Các mạng lưới chuyên chở cần được suy tư lại để giới hạn tắt nghẽn
giao thông. Các chánh khách phải cống hiến khích lệ cho các công ty chế tạo tái cư ở các
trung tâm đô thị, hầu giảm bớt số người đi xe vé tháng – commuters. Phát
điện và sản xuất thực phẩm cũng phải trở thành địa phương, giảm bớt truyền
điện và phí tổn chuyên chở phải giá
thấp. Hơn nữa, theo người Pháp, những
khỏang không gian chỉ sử dụng một mục đích duy nhất, tỉ như các
thương xá và phát triễn nhà cửa, phải đổi chác nhau thành vùng láng giềng lẫn
lộn chứa gia cư , các cơ sở y khoa, tiệm
tồn trữ , trường học và phòng ốc làm việc. Với nhiều dịch vụ cần thiết gói ghém
lại trong một vùng tương đối nhỏ bé , ngay cả những đô thị đông đúc cũng sẽ có cảm tưởng chỉ là một thị trấn nhỏ.
Sau đây là vài ý kiến liên hệ :
1-
Chia sẽ xe hơi điện cộng đồng
Hàng lọat người, mỗi người có xe hơi riêng, có
nghĩa là giao thông chật ních, ô nhiễm và xài phí không gian dưới hình thức những lô công viên đậu xe. Những nhà họa kiểu của kiểu mẩu
Xe Đô thị - CityCar đầu tiên của la bô MIT Media Lab nói rằng những xe vi tiểu – microcar
thôn xã, phường ấp sẽ làm giảm bớt đường
xá đầy nhóc xe. Xe CityCar hai chỗ ngồi,
chạy tòan điện, là tốt nhất dùng luân lưu từ điểm này đến điểm nọ- point –
to - point trips trong vòng bán kính
dài vài km. Khi không dùng, xe có thể gấp xếp lại và chồng chất lên các CityCars khác.
2-
Những lò nguyên tử nhỏ láng giềng
Các đường dây
điện mất đi khoảng 425 kilowatts cứ mỗi
dặm Anh (mile = 1.609 Km ) dây cáp.
Hầu giảm thiểu mất mát và giúp cho
giá cả năng lượng thấp hơn, các thị trấn- đô thị phải hội nhập
phát sinh điện vào các khu láng giềng. Một nguồn điện kiểu này có thể là những nhà
máy điện hạt nhân kích
thước vi tiểu – microsize tỉ như PRISM GE Hitachi . Các lò phản ứng PRISM sẽ dùng nhiên liệu hạt nhân tái sinh, để phát
ra 300 megawatt( một megawatt là một triệu watts hay 1000 kilowatts ), đủ để
cung cấp điện cho 240 000 gia cư Hoa Kỳ. Việt Nam có lẽ nên nghiên cứu thêm về
các lò nguyên tử vi tiểu PRISM ?
3- Nhà cửa siêu hữu hiệu
Khi dân gian chen chúc nhiều hơn vào các đô thị,
trung bình kích thước một chung cư gia
giảm, theo lời Frenxchmwen , xuống chỉ
còn 300 bộ vuông Anh ( 1 square foot
= 929.03
cm vuông ) ở Hoa Kỳ. Muốn kích thước nhỏ bé như thế có cảm giác là ít
chật hẹp, mọi không gian trong gia thất
này phải đa chức năng –
multifunctional. Chẳng hạn , bàn ghế
giường tủ phải xếp lại được không cần có tường vách và cửa sổ phải làm bằng OLED trong suốt,
tỉ như những OLED hảng Samsung đã trình bày năm 2010, có công dụng như Ti Vi hay
có thể làm cho mờ đục theo điều khiển, hầu giảm bớt chi phí làm nguội lạnh .
4-
Ăn uống thật sự địa phương
Hầu giảm bớt phí tổn chuyên chở thực phẩm, các
kỷ sư phải xây cất các nông trang thẳng đứng – vertical farms như
thể giáo sư danh dự y tế công cọng Viện
đại học Columbia Dickson Despommier đề
nghị, có cơ cung cấp sản phẩm tươi và cá
tươi cho các khu láng giềng địa phương.
Các cư dân chung cư sẽ trồng trọt những
vườn tượt cá nhân ở mặt tiền các xây cất
mình, có những pannen gieo sẳn trước hột
giống cắm phích vào các mảnh tường vách
xây cất, theo lời Kent Larson, một kiến trúc sư MIT Media Lab.
5-
Tái sinh Tất cả vào Một
Tái sinh sẽ giới hạn phế thải vật liệu , nhưng tiến trình rất cường điệu năng lượng .Tại Trung tâm tái sinh
LO2P, viễn cảnh Gael Brule và
Julien Combes họa kiểu, một tua
bin thu họach điện gió để chạy một nhà
máy tái sinh trong xây cất, trong khi carbon dioxide nhà máy phản ứng với
calcium để biến thành vôi- lime ở các buồng tắm LO2P làm kim lọai hóa. Tổ hợp Calera ở bang Ca Li, Hoa Kỳ đã phát triễn tiến trình và nay
đã dùng vôi này làm xi măng.
6 – Các xây cất đa chức năng
Ý niệm sử dụng
lẫn lộn làm căn bản cho kiến trúc sư Tòa tháp Dẹp Paul – Eric
Schirr Bonnas. Cộng thêm vào phòng sở, khu tiêu khiển và trọng tâm xe lữa
quá cảnh – rail transit , Tòa Tháp Dẹp - Flat Tower
có thể chứa đến 40 000 người. Schirr Bonnans nói là kiểu mẩu nhà chọc trời – skyscraper
qui ước – một tòa tháp không gian xanh vây quanh – dẫn dắt tới các cộng
đồng cách ly nhau. Một vùng vòng đai xanh dưới các
xây cất sẽ khuyến khích các cộng đồng tương tác cùng nhau .
Phần III : Chỉnh đốn Phương trình Thực phẩm
( chiếu theo Frederick Kaufman )
Nuôi ăn một thế giới bị hâm nóng sẽ không dễ
dàng đâu, nhưng vẫn có thể thực hiện được.
Tính tóan cho sự vững bền con người đơn giản lắm: nuôi 7 tỉ dân hành
tinh Trái Đất, các nông dân phải làm ra
ít nhất là 12 ngàn tỉ calôri thực phẩm mỗi ngày. Ngay khi dân số tăng trưởng
thế giới yêu cầu càng ngày càng nhiều hơn số calôri này , thay đổi khí hậu càng
làm chúng thêm phần khó sản xuất hơn. Vậy chớ khoa học có thể thay đổi phương trình
không ?
1-
Cọng thêm hột ( hạt ) giống
Nông dân sẽ cần các mùa màng kháng hạn hán, kháng ngập
lụt, kháng nhiệt lượng – nóng nực, kháng sâu bệnh họ có thể trồng trên đất mặn hơn và một khí quyễn đầy carbon dioxide và ozone hơn. Các nhà khảo cứu đang phát triễn hột giống
giải đáp những điều này và công cuộc sửa
đổi di truyền sẽ đóng vai trò quan trọng trong công trình họ thực hiện . Bằng cách “ Làm ra Những Hột giống Tốt hơn” ( xem
bài cách làm cho hột giống lúa mì- lúa gạo- bắp tốt hơn sẽ tiếp theo ). Nhưng vì không có một công ty duy nhất nào
lại có thể đầu cơ cho thế giới hột giống, cho nên các quốc gia phải tái xét các
luật lệ môn bài – patent laws và cưỡng bức
tuân thủ những giới hạn nghiêm khắc
về các tổ hợp xuyên quốc gia đang cố tâm độc quyền các tài nguyên di
truyền thế giới.
2- Phân chia đất đai .
Thay đổi khí hậu cũng sẽ
thay đổi đất đai nông trang theo nhiều phương cách. Một nghiên cứu mới đây kết luận là các vùng
cao vĩ tuyến ở Trung Quốc, Nga và Hoa
Kỳ có thể có thêm đất đai trồng trọt được trong khi các
vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới Nam Mỹ
Châu , Phi Châu , Âu Châu và Ấn Độ sẽ
mất bớt đi. Các thỏa hiệp thương mãi tòan
cầu sẽ trở thành một phương cách mỗi ngày mỗi quan trọng thêm để bảo đảm phân
phối công bằng cung cấp thực phẩm tòan cầu . Ở bất cứ nơi nào có đất đai
trồng trọt được, những cương vị quản lý có trách nhiệm sẽ đòi hỏi sử dụng lớn
thêm các
mùa màng phủ đất, cố định nitrogen và trồng tĩa ngoại vi, hành động để
đẩy ra xa sâu bọ và các động vật gặm
nhắm, làm giảm bớt yêu cầu thuốc trừ
sâu- bệnh -cỏ dại( dịch bệnh – pesticides) và các chất độc hại con người chế tạo .
3-
Nhân thêm nước
Then
chốt là phải làm ra thức phẩm nhiều hơn với nước ít hơn, có nghĩa là lam
cách nào cho nước làm ra nhiều công tác hơn.
Nông dân sẽ phải thu họach nước mưa tốt
đẹp hơn tái dụng nước phế thải , thay đổi máng xối và tưới tiêu kiểu phun nước – sprinkler
irrigation thành những đường ống
ngầm tưới nhỏ giọt – underground drip lines. và theo dõiĐịnh vị Tòan cầu – GPS , hầu có
được các đo lường chính xác hơn về mùa màng
tưới tiêu mỗi nhỏ giọt crop –per-drop.
4- Trừ bớt thịt và nhiên liệu sinh học
Giới trung lưu tòan cầu đang lớn mạnh có thêm
yêu cầu thịt ăn, nhưng sản xuất thịt lại
cần qúa nhiều số lượng nhiên liệu, phân hóc học, thuốc trừ dịch bệnh và nước để
tạo ra tương đối rất ít calôri, thịt
cung cấp. Cùng lúc , gần phân nữa bắp ( ngô ) sản xuất ở Hoa Kỳ đi vào “ chu
trình nhiên liệu sinh học – biofuel cycle”, cũng như với các mùa màng thực
phẩm khác, tỉ như đậu nành ( đổ tương )
và dừa. Các nhiên liệu sinh học không
còn hửu hiệu nữa để cung cấp năng lượng
cho các động cơ hơn là bò cái cung cấp năng lượng cho dạ dày. Con người phải ngừng lại, không cạnh tranh
nữa, với các động vật của mình và các máy móc về phương diện calôri.
5-
Cân bằng sổ sách
Hiếm hoi hay
ngay cả nhận thức hiếm hoi, càng làm gia tăng giá cả những cung cấp thực phẩm
thế giới. Trong số những đe dọa lớn nhất
cho an tòan thực phẩm tương lai là bong
bóng và đinh nhọn trên giá cả lúa mì –
wheat và các hàng hóa mua bán tòan cầu. Các thị trường dẫn xuất- derivatives
markets ở những
thực phẩm mua trước giao sau– food
futures , phải được sử dụng theo phương cách chúng dự tính, như thể là
những dụng cụ xử lý hiểm nguy – risk management cho những ai ở doanh nghiệp thực phẩm, không phải là đường
tắt đầu cơ cho của cải – riches.
Giải pháp : những luật lệ
xuyên quốc gia – transnational rules giới hạn vai trò các ngân hàng
đóng trên những thị trường thực
phẩm tòan cầu mua trước giao sau .
( Irvine , Nam Ca Li – Hoa
Kỳ, ngày 1 tháng 7 năm 2012 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét