Định hướng tương lai Khoa học, Kỷ thuật ? theo :
Quan điểm khác thường của nhà Tóan học, Vật lý học Lý thuyết và Tương lai học Freeman Dyson
G S Tôn Thất Trình
Freeman Dyson là giáo sư danh dự - professor emeritus Viện Nghiên cứu Tiên tiến , viện đại học uy tín Princeton, bang New Jersey , Hoa Kỳ. Đã có vài người Việt Nam tốt nghiệp hay làm hậu tiến sĩ khảo cứu plasma nguyên tử ở đai học Princeton này.
Giáo sư Dyson đã nghiên cứu các lò khảo cứu hạt nhân, Vật lý trạng thái rắn đặc – solid –state physics ,từ tính sắt , vật lý học thiên thể - astrophysics và sinh học. Ông đã thống nhất ba dịch bản về điện động lực học hạt lượng – quantum electro dynamics, do ba nhà khoa học phát minh là Peynman , Schwinger và Tomonaga . Ông cũng đã họat động ở Dự án Orion , nghiên cứu du hành giữa các hành tinh bằng phi thuyền ,chạy nhờ bùng nổ hạt nhân . Đề nghị của ông Cầu tròn Sinh học nhân tạo , thường được mệnh danh là cầu tròn Dyson Sphere , thu gọp năng lượng của một ngôi sao và cung cấp cho chúng ta một chứng cớ hiện diện của “ Đời sống Ngòai địa cầu – Alien Life “. Đề nghị này đã cảm hứng nhiều truyện khoa học ảo tưởng, phim xi nê , trò chơi , và ngay cả một đoạn “ Lối mòn Ngôi Sao- Star Trek “ trong đó sự nghiệp thuyền sao – starship enterprise đối đầu với một dích bản ti vi của “ Cơ cấu Mega Lý thuyết “ Dyson nghĩ ra . Lúc rày, Dyson đang nghiên cứu một vấn đề ông nghĩ rằng ông sẽ không hòan tất được . Dyson năm nay 84 tuổi đời . Theo ông đó là một vấn đề tốt đẹp cho một ông già, một cái gì chưa thấy có ai làm . Đó là câu hỏi đặt ra xem các ( hạt ) graviton có quan sát được không ? Chúng ta biết các làn sóng trọng lực – gravity waves đã hiện diện và nhiều làn sóng trọng lực đã du hành qua không gian . Những điều này đã được Einstein tiên đóan . Theo lý thuyết Einstein , trọng lực sẽ phải du hành theo những lượng – quanta nhỏ bé là hạt tử trọng lực - gravity particles. là gravitons . Một làn sóng trọng lực thật ra chỉ là một đám gravitons . Điều này cũng chỉ là lý thuyết. Chưa một ai thấy được môt graviton nào cả . Câu hỏi Dyson nêu ra là : liệu có thể nào trên nguyên tắc, quan sát được một graviton duy nhất không đây ? Đây là một thí nghiệm tưởng tượng , làm bằng một thiết bị tưởng tượng . Bạn sẽ có hai tấm gương . Bạn đang nhìn ánh sáng nảy lên , rơi xuống giữa các gương . Khi có một làn sóng trọng lực nhập vào , khỏang cách , cách ly giữa hai tắm gương thay đổi đi đôi chút .
Quan điểm về J. Robert Oppenheimer, giám đốc dự án Manhattan :
Oppemheimer là thủ trưởng của Dyson , sau thế ,chiến thứ hai. , nhưng ông không chú tâm gì mấy đến công việc Dyson làm vì ncho rằng khảo cứu không đủ cơ bản lý thuyết gì mấy và ông ta có một cái nhìn rất hẹp về khoa hoc. Rất khó nói chuyện với Oppenheimer . Ông không phải là người lắng tai nghe giỏi dang vì lý do này . Ông sẽ luôn luôn cắt ngang và khởi sự nói về một điểm gì khác . Ông có thói quen luôn luôn hút thuốc . Ở hội thảo ông không bao giờ ngồi yên , và ông sẽ luôn luôn đứng lên , ra đóng hay mở cửa sổ . Như thể một đứa bé lên ba vậy đó . Tuy nhiên , rỏ ràng là Oppenheimer đang tập trung tư tưởng. Khi ông tự dẫn mình đến vấn đề , ông sẽ tụ điểm rất hay , nhưng ít khi Dyson thấy như vậy . Oppenheimer là một chủ tịch ủy ban rất khéo léo và chính ông đã hòan tất dự án Manhattan . Ông rất tự hào về công việc ông làm . Có một kích bản viềt về Oppenheimer, như thể một cá tính trung ương, trình bày ông ta như là một cá tính đầy hối hận , tiếc thương những việc ông đã làm . Ông đe dọa kiện ra tòa nhà hát và đã làm ngưng kịch diễn . Ông ta nói bản kịch diễn tả sai lầm về ông; ông không muốn được vẽ ra như một cá tính buồn phiền.
Quan điểm về thả bom thành phố Hiroshima
Dyson đang trên đường đến Nhật , khi vụ này xảy ra . Ông rất hài lòng về vụ này . Ông đang làm việc cho Không lực Hòang gia Anh . Không lực thả bom ở Đức đã 5 năm rồi và đã có quyết định dời lực lượng oanh tạc đến Okinawa , khi Đức đầu hàng . Khi Anh sẽ phụ giúp Mỹ và thả bom ở Nhật , Dyson đang đi đến đó . Ở thời điểm này , Dyson rất khổ sở , vì tất cả chiến dịch thả bom ở Đức đã là một thất bại nảo nùng . Dyson rất vui thích, vì chỉ một quả bom là đã có thể chấm dứt chiến tranh .
Nhưng nay mọi người đã có chứng cớ gần như tốt đẹp là chính Nga Sô xâm lăng Mãn Châu , mới thật là sự cố quyết định . Wad Wilson , sống gần thị trấn Trenton đã dạy Dyson điều này, vì đã nghiên cứu chi tiết. Điểm đáng lưu ý là Hoa Kỳ oanh tạc Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm 1945. Ủy ban tối cao Nhật không bao giờ họp cả . Tuồng như Nhật không xem oanh tạc là quan trọng. Họ biết là phải xảy ra , nhưng không cho là đáng phải triệu tập Ủy Ban họp đặc biệt . Thế rồi Nga tiến vào Mãn Châu và chỉ vài giờ sau, Nhật triệu tập họp Ủy Ban , vì xâm chiếm Mãn Châu ảnh hưởng đến quân đội Nhật. Đối với Nhật, vấn đề quan trọng là quân đội . Nhật không xá gì đến dân sự cả . Thả bom qui ước thủ đô Tokyo đã giết nhiều người hơn Hiroshima , và họ đã không đặc biệt rối bấn . Giết hại dân chúng là một phần chuyện thường tình của chiến tranh. Khi họ qui họach bảo vệ Nhật, họ sắp đưa dân chúng ra các bải biển với đinh ( gậy chĩa ) ba , vì họ không đủ súng cấp cho mọi người. dân sự. Họ không để tâm vào số người chết. Điều quan trọng là chiến đấu, cầm cự càng lâu dài càng hay . Nhưng Nga Sô tiến vào Mãn Châu là chuyện khác . Họ nhận thấy rỏ là họ không thể chống trả ở hai chiến trường, quân Nga Sô ở miền Bắc và quân Hoa Kỳ ở miền Nam ( Xin nhắc lại là thuộc địa Nhật Đại Hàn , nhất là Bắc Hàn là hậu cần chiến tuyến Nhật miền Nam. Nhật đã đem việc kỷ nghệ hóa cung cấp vật liệu chiến tranh sang Đại Hàn, tránh Hoa Kỳ oanh tạc đất Nhật. Ông Kubota , cố chủ tịch công ty Nippon Koei , tọa lạc ở Osaka , người thường bút đàm chữ Hán với cố Tổng thống Ngô Đình Diệm - ông Kubota không biết tiếng Việt và ông Diệm không biết nói tiếng Nhật - phát triễn các đập thủy điện Tây Nguyên ( Cao Nguyên Trung Phần ) , sau đó khỏang năm 1973- 74 hệ thống đập dây chuyền sông Đồng Nai La Ngà, Sông Bé … miền Đông Nam Phần , nguyên là trưởng kỷ sư năng lượng thủy điện Nhật ở Bắc Hàn ) . Thế cho nên theo ý nghĩ này , thả bom nguyên tử không cần thiết !. Lẽ dĩ nhiên là chúng ta không có cách nào biết như vậy vào thời điểm đó .
…Về vỏ khí hạt nhân ngày nay
Chúng thật đáng kinh hải: một mối đe dọa năng nề nhất cho thế giới . Có đến hơn 20 000 vỏ khí hạt nhân . Hoa Kỳ có khỏang 10 000 và Nga khỏang 15 000. Còn có thêm vài nước chơi trò vỏ khí hạt nhân , nhưng số vỏ khí của họ rất nhỏ . Có nghĩa là chỉ có hai nước , Hoa Kỳ và Nga mà thôi. Đủ vỏ khí để hủy họai dễ dàng cả hai nước . Và vẫn còn có một cơ hội to lớn khiến vài ngu đần xảy ra và cả hai đều bắn lên vỏ khí . Dyson cho rằng đe dọa này lớn hơn hết mọi đe dọa khác, thế giới phải đối diện . Dân gian hầu như ,không ít thì nhiều quên bẳng vụ này đi . Đã đến thời cao điểm, chúng ta cần bỏ đi hết mọi vỏ khí hạt nhân . Không phải là vô vọng đâu; chúng ta đã có một tiền lệ, khi Richard Nixon đơn phương từ bỏ vỏ khí sinh học .
Về đe dọa của bom dơ dáy
Có vấn đề , nhưng bé tí xíu , nếu so sánh với tàng trử hỏa tiễn lớn . Dân gian không có cảm gíác đúng tỉ lệ. Một bom dơ dáy – dirty bomb tất nhiên là một chuyện bực mình . Nó có thể đem tới lợi tức cho luật gia trong một ngàn năm , nhung bom không giết qúa nhiều người đâu ; trong khi vỏ khí hạt nhân giết hàng triệu người.
Về khảo cứu khoa học
Dyson cho biết khi làm khoa học , ông chỉ viết thảo trên những tấm giấy . Đôi khi ông tính tóan trên máy computer . Ông nói ông là một nhà tóan học thời xưa , họat động theo phương trình . Những dụng cụ ông làm việc là cây bút và một miếng giấy .. Ông đã qúa tuổi thanh xuân lâu rồi . Nếu ông khởi sự làm nhà khioa học ngày nay , ông chắc chắn sẽ nghiên cứu sinh học . Ông tự xem là làm sinh học ngày nay tốt đẹp hơn trước nhiều lắm ,vì ông biết nhiều đề tài lý thuyết hơn trước. Chẳng hạn , ngày nay, bạn có thể làm sinh học rất tốt đẹp với máy computer. Khi còn niên thiếu , Dyson phải làm sinh học ướt, họat động với các đông vật thật sự. Mặt khác , ông cho rằng thiên văn cũng rất thích thú , cũng như tóan học thuần túy vậy . Ba ngành này đều là những điều ông đã khảo cứu .
Về các lỗ đen – black holes .
Chúng có ý nghĩa rất cao : Mồi thiên hà đều có một lỗ đen làm trung tâm và chúng đóng vai trò chủ yếu trong cơ cấu vũ trụ . Bạn không thể hiểu gì cả về vũ trụ học , nếu bạn không hiểu lỗ đen . Nay chúng ta đã biết chúng là trung tâm của tòan thể vấn đề, cách nào các thiên hà khai sinh và tăng trưởng . Cả hai, Oppenheimer lẫn Einstwein đều hòan tòan bỏ qua tầm quan trọng của chúng.
Về sinh quyễn , về sinh môi thí nghiệm đóng kín xây cất ở sa mạc Arizona năm 1991
Ông nhớ lại đã tham quan gặp các người sống trong sinh quyễn- biosphere ở Arizona . Họ ở bên trong, khi ông tham quan và nói chuyện với họ bằng điện thọai. Họ tự thích thú , nhưng rất căng thẳng . Khi ông thấy họ ; họ rất hăng hái . Tuy nhiên sau đó một điều tan vở . Họ phải có không khí đưa vào từ bên ngòai để khỏi bị chết ngộp , trái hẳn tòan thể ý kiến . Họ đã ở đó khoảng một thời gian cần cho một sứ mệnh đi tới Hỏa Tinh , nghĩa là một năm rưỡi . Trên phương diện khoa học , đó là một thất bại . Bạn có thể làm bắt chước – simulation kỷ thuật , nhưng không làm bắt chước con nguời được . Hai con người sẽ cư xử thế nào đối với nhau, bạn không thể bắt chước được. Khi bạn ở mặt đất, cảm giác tòan diện hòan tòan khác biệt cảm giác lúc bạn đi đến Hỏa Tinh. Dyson liên tưởng đến thám hiểm Bặc Cực và Nam Cực xa xưa . Các nhà thám hiểm phải mất 3 năm tròn, và không có liên lạc bằng rađiô . Họ đã sống sót dưới mọi điều kiện không biết được , gặp nhiều mạo hiểm đáng kinh ngạc , không một ai có thể bắt chước.
Về du lịch không gian rẽ tiền .
Du hành không gian sẽ tới , nhưng chỉ xảy ra khi yêu cầu đủ cao, khiến chúng ta phải thiết lập một hệ thống “ xa lộ không gian công cọng “ . Ngày nay muốn hổ trợ một mạng di chuyễn không khí , bạn cần có độ 1 triệu hành khách luôn luôn di dịch. Di chuyễn trên không gian cũng tương tự như thế. . Đây không phải là một vấn đề kỷ thuật thật sự mà là một lọai vấn đề kinh tế gà con và trứng gà . Dyson hy vọng là vấn đề sẽ tăng trưởng, trên lưng quân sự . Quân sự cần mọi lọai phóng được lên không gian và sẳn sàng trả tiền vụ này . Cho nên nếu có chút may mắn, một cái gì tương tự xa lộ không gian, sẽ phát triễn . Không quan hệ gì, nếu ai đó thoạt tiên trả tiền làm xa lộ này . Cuối cùng xa lộ sẽ để cho mọi người sử dụng .
Về di dân lên không gian
Mục đích chánh là cung cấp một nơi cho các tay mạo hiểm đi tới . Và họ có nhiều nguyên do khác nhau . Vài người sẽ lên không gian làm giàu . Vài kẻ khác muốn xa lánh láng giềng. Có đủ mọi lý do để lên không gian . Và các lý do này đều chính đáng . Điểm tốt là họ có thể cọng tác ít hay nhiều phát triễn hệ thống . Chúng ta cần hiểu biết thêm về sinh học , trước khi chúng ta di dân được lên một sao chổi Thật là xinh xắn trồng cây sản xuất trực tiếp ra nhiên liệu lỏng và những điều khác từ ánh sáng mặt trời. Vấn đề thật sự là nhiệt độ thấp . Bạn cần tìm ra một cây tăng trưởng một cách dài dặn từ mặt trời trong một môi trường nhiệt độ chỉ trên zero – số không tuyệt đối vài độ F thôi . Đi tới sao chổi có lẽ cần vài trăm năm nữa !.
Về tiềm năng của công nghệ ( kỷ thuật} sinh học
Tương lai sinh học rất khích lệ. và không biết . Điều chánh là thời đại phân tử chấm dứt và thời đại sinh vật đã tới . Mô hình giản hóa luận - reductionist model là căn bản sinh học ở thế kỷ thứ 20 và đã thành công lớn lao ; chúng ta đơn giản hóa mọi điều, xuống đến phân tử. Chúng ta có DNA và RNA và proteins và mọi người nghiên cứu phân tử. Chúng ta khám phá nhiều điều kì diệu . Vấn đề cho thế kỷ 21 là ráp chúng lại với nhau . Chúng ta đã biết khá rỏ khối xây dựng là gì rồi. Câu hỏi nêu lên là cách nào chúng họat động, chức năng chúng là gì ? Cách nào một hệ thống họat động đúng như một hệ thống ? Có một vị tên là Carl Woese , người đã cách mạng hóa sinh học , khám phá ra vi trùng thời thái cỗ - archaea microbes . Ẩn dụ của Woes cho sinh học là một em bé chơi dòng suối một khu rừng gỗ , thọc một gậy vào làn xóay nước. Nhưng xoáy nước luôn luôn tái lập khi bị xáo động . Đó là sinh học : một hệ thống năng động bạn không ( chưa ) hiểu . Chọc gậy vào nó ; nó sẽ phản ứng và sau đó tự tái lập .
( Chiếu theoLauren Redniss , tuần san Discover tháng 6/ 2008 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét