Khi nào vùng cao Việt Nam được ăn sa pô chê – hồng xiêm trái bự ( quả to) ?.
G S Tôn thất Trình
Giữa thập niên 1950 , khi chúng tôi tốt nghiệp Pháp , viếng thăm lai Cần Thơ sau nhiều năm du học , đến chợ thấy bán giữa các hàng trái cây , chen lẫn những thúng hột vịt trắng. Ông cán sự Canh nông già địa phương hướng dẫn thăm cây cỏ , hoa trái Tây Đô giải thích cho biết đó là những trái sa pô chê ( hay sa bô miền Nam, miền Bắc gọi là hồng xiêm ) , dú cho chín mềm bằng cách bọc một lớp vôi theo kiểu dân Căm Bốt .
G S Tôn thất Trình
Giữa thập niên 1950 , khi chúng tôi tốt nghiệp Pháp , viếng thăm lai Cần Thơ sau nhiều năm du học , đến chợ thấy bán giữa các hàng trái cây , chen lẫn những thúng hột vịt trắng. Ông cán sự Canh nông già địa phương hướng dẫn thăm cây cỏ , hoa trái Tây Đô giải thích cho biết đó là những trái sa pô chê ( hay sa bô miền Nam, miền Bắc gọi là hồng xiêm ) , dú cho chín mềm bằng cách bọc một lớp vôi theo kiểu dân Căm Bốt .
Thật sự duới danh từ dân da đỏ Cotchitzapotl Nam Trung Mỹ, có nghĩa là trái cây giúp ngũ – sleeping producing sapote , ruột mềm , cây cho trái thương mãi sa pô chê , Việt hóa từ tiếng Pháp sapotillier , thuộc ba họ thực vật khác nhau :
- họ Hồng Xiêm Sapotaceae có ba lòai trồng trọt là sapôchê chính danh, tên loài là Achras sapota L. hay Manilkra zapotilla Gilly , Sa pô chê ruột ( thịt ) hồng ma mây, tên la tinh là Calocarpum sapota Merr. hay Calocarpum mammosum ; cây sa phô chê trái vàng cam canistel , tên la tinh là Pouteria campechina Baehni , hay Lukuma nervosa D.C., tên Việt là cây trứng gà hay lê ki ma . Họ hồng xiêm còn có 4 lòai có trái ăn được trong số 64 lòai họ này nhân diện ở Việt Nam. Đó là lòai cây găng neo Châu Đốc Manilkra kauki L. . trái cở trứng chim cút; loài cây găng neo Côn Sơn Malnilkra hexandra Dub. , đại thụ trái tròn nhỏ , ruột màu vàng, lòai cây sến dứa Madhua pasquieri H . J . Lam tìm thấy ở núi rừng từ Quảng Ninh tới Vinh, đại thụ trái nhỏ chừng 2cm mà phần lớn là hột ; lòai cây sến gang Xantolis cambodiana Dub, tìm thấy ở Hà Sơn Bình , Bắc Cạn , Thái Nguyên , Phú Yên , Khánh Hòa , Ninh Thuận ở rừng cao 400m , trái nhỏ bầu dục hột dài và dẹp.
- họ cà phê ( Cam Qúit ) Rutaceae là lòai sa pôchê trắng , nhưng thật sự có nhiều giống vỏ xanh , vỏ vàng , ruột trắng , ruột vàng , dù tên Anh là white sapote.. Tên lòai là Casimiroa edulis , nguồn gốc Nam Mỹ , trồng khá nhiều trước đây ở Ca Li , nay ở Florida và Texas .
- họ thị Ebenaceae, họ của các lòai giống thị ( thị sen Diospyros lotus, thị hồng Thanh Hóa Diospyros roxburghii .. trong số 5 lòai có trồng trọt của 69 lòai tông Diospyros đếm được ở Việt Nam, ) và đặc biệt giống hồng ăn trái tên Anh là Kaki hay Persimmon , tên Pháp là plaqueminier tên la tinh là Diospyros kaki L. f. . Lòai hồng nhung Mabola trồng ở vùng thành phố Sài Gòn, trái đỏ cam , phủ đầy lông , tên la tinh là Diospyros philippensis Gurke , du nhập từ Phi Luật Tân . Còn hồng xiêm - sapôchê đen nhung – black sapote ,tên La tinh là Diospyros digyna Jacq ( Diospyros obtusifolia Humb. ), trái nhăn nheo , khi ruột chín mềm ăn ngon, bán nhiều ở Mexicô và Trung Mỹ Châu , thì có lẽ chưa du nhập vào Việt Nam ( ? ) . .
Sa pô chê – hông xiêm ruôt hồng hay ma mây
Đây là những trái sa pô chê – hồng xiêm to , bự nhất , Trung bình trái nặng 0. 75 đến 6. 0 cân Anh ( hay 0.3 – 2.7 kg ). Trái giống sapôchê chính danh, tuyễn chọn ở bang Florida mới đây là giống Tikal , nặng trung bình chỉ 0.3 kg ( 300 gr ) , vỏ mềm , ruột vàng , thay vì màu sô cô la như các giống sa pô chê Xiêm Tiền Giang , Xiêm Cần Thơ , Lồng mứt hiên nay, không như có cát , ngọt ,không có vị chát . Trái Tikal không bị gìòi trái cây đục , kháng hạn han giỏi , chịu đựng hơi gió biễn măn , như các loại Na- Mảng cầu giai Tân Thành - Gò Công trước đây. Tikal lại cho trái sớm và cây rất sai trái. Mỗi cây có thể cho đến 200 kg trái . Nhưng khó thụ phấn ra trái, nếu trồng riêng rẽ; cho nên trong vườn phải có vài ba cây Tikal . Hình như các chuyên viên Viện Cây ăn Quả Long Định đã du nhập , thử nghiệm giống Tikal ( ? ) .
Sa pô chê ma mây là cây xứ nóng , nhiệt đới , nhưng trồng ở cao độ còn tốt hơn là sa pô chê chính danh nhiều , miễn là nhiệt độ không xuống dưới 0 độ C. Khác với Tikal , trái mamây ỏ cứng , dày , màu rỉ nâu . Trái chín ruột mềm,.màu đỏ nâu , màu hồng , ngọt và mùi vị được dân Trung Mỹ Châu rất ưa chuộng , nhất là dân Cuba . Sa pô chê mamây cũng không đòi hỏi gì nhiều về đất đai , sinh trưởng trên đất cát hay đất sét nặng đều tốt , ngọai trừ đất úng thủy , ngập nước làm cây dễ bị bịnh thối gốc Pythium spp .Trồng bằng hột , cây cần 7- 8 năm mới ra trái và cây hột thường có trái phẩm chất kém cỏi . Cây tháp ( ghép ) chỉ cần 3 năm . Nhưng khác Tikal rất dễ tháp , mamây rất khó tháp . Cần nghiên cứu cải thiện cách tháp , thời tiết mùa tháp , gốc tháp..mamây . Nhất là với giống Magana , bang Florida du nhập từ El Salvador , cho trái phẩm chất cao . Các giống mamây khác trồng tốt ở khí hậu Florida là Pantin , Pace , Tazumal … ) Nên trồng nhiều giống trong một vườn, để có trái ma mây chín rộ , nhiều suốt năm .
Sa pô chê ruột trắng mới thật là hồng xiêm- sa pô chê vùng cao , mát mẽ.
Đây là một cây vạn niên thanh – evergreen, dù đôi khi ở đỉnh cao quá lạnh, có thể là một cây rụng lá – deciduous, mùa đông . Nếu không xén tỉa mỗi năm , Casimiroa edulis, sa pô chê ruột trắng là một đại thụ to lớn , cao 12- 15 m, tàn lá dày dặc sum soe . Muốn sa pô chê trắng cao bao nhiêu cũng được, thì bấm đọt cuối , xén các cành bên dưới thân cây, cây mọc rộng theo hình lọng dù . Lá xanh láng bóng phân chia ra thành 3 – 7 tiểu diệp hình thuẩn , dài 7- 12 cm . Cây mọc mạnh , lại chịu đựng lạnh hơn mọi giống cây bơ-avovado nữa . Tuồng như sa pô chê ruột trắng mọc tốt ở những nơi nào chanh vàng – lemon mọc tốt ( Xem phân biệt các lòai chanh ( vỏ ) vàng - lemon với các loài chanh giấy , chanh (vỏ) xanh - lime , ở Sách cây ăn trái … cho vùng cao V N của Tôn Thất Trình, xuất bản ở Sài Gòn, cuối năm 2004). Là một cây bán nhiệt đới, nguồn gốc Mexicô và Trung Mỹ châu , nhưng nay nhiều giống trồng tốt ở Bắc và Nam Ca Li. Trái sa pô chê hồng xiêm này trông tựa các trái mận tây – plum xanh chưa chín . Trái trung bình cở 8- 11 cm , tròn trịa , vỏ xanh lợt hay vàng . Thường giống nào trái chín vỏ xanh, thì ruột trắng vàng lợt, còn trái chín vỏ vàng thì ruột vàng . Vỏ rất mỏng . Ruột mềm , ăn có mùi vị nữa đào lông ( đào tiên – peach ) nữa chuối hay táo tây ( apple ). Coi chừng những giống không tuyễn chọn . có thể đắng hay hơi chát . Phải hái trái trước khi chín cây và để trên bàn bếp một hay 2 ngày cho mềm mới ăn . Ruột đã lấy hột ra rồi ( trái có 1-5 hột lớn ) hay cơm, đem nghiền nhỏ làm đông lạnh thì tồn trữ được cả năm . Cây rất nhiều trái , mọc đầy cành, ở gỗ mới . Một nhà trồng một cây mùa chín rộ ăn không xuể . Đáng thay thế cây hồng xiêm Xuân Đỉnh, vùng Hà Nôi . ở các vùng đồi núi Trung du , Thương du Bắc Việt, vùng ngược, dân tộcThanh Hóa , Nghệ An và Tây Nguyên . Trong các giống khuyến khích thử nghiệm ở Việt Nam đã kể trong sách nói trên , nên chú trọng đến hai giống , hình dáng không khác gì nhau mấy. Ở miền Bắc Ca Li gần thị trấn San Luis Obispo trồng giống Suebelle , tuy rằng do bà Susan Hubbel tìm thấy vào năm 1930 ở vùng Nam Ca Li Encinitas . Suebelle không có mùi vị thóang chút đắng của giống Vista , do Miller Well tìm thấy vào thập niên 1950 ở vùng Vista. Suebelle còn cho trái chín rải rác rất lâu trên cây, trong vòng 6 tháng trời . Ít khi có cây trái nào mà có trái chín cây để lâu trên cây như vậy cả . Muốn có cây ra trái sớm hơn, vào năm thứ hai sau khi trồng, thì chọn giống Cuccio , trái chín vỏ xanh , năng xuất lớn.
Hai điểm trồng trọt cần lưu ý thêm về sa pô chê ruột trắng . Thứ nhất cần tránh những vùng mua qúa nhiều như các vùng Trường Sơn từ Huế, Quảng Trị đến Quảng Nam , Bắc Kontum .. Thứ hai là cây trồng hột không những lâu năm mới ra trái ( 5- 8 năm ). Trong khi cây tháp hay cây chiết cành, chỉ 3 –4 năm ( hay ít hơn ở giống Suebelle ) là đã có trái rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét