Thứ Hai, 25 tháng 1, 2010

Ninh Bình: cố đô Hoa Lư





Cố gắng biết rỏ đất nước hơn:
Thô thiễn lạm bàn về tỉnh Ninh Bình, cố đô Hoa Lư, Đinh, Tiền Lê…

G S Tôn Thất Trình

Có ông Bộ Lĩnh họ Đinh
Con quan thứ sử ở thành Hoa Lư.
Khác người tự thuở còn thơ
Rủ đoàn mục tử mở cờ bông lau.
Dập dìu kẻ trước người sau….
Vị trí , lảnh thổ
Ninh Bình là một tỉnh nhỏ, rìa phía Nam và Tây Nam Đồng bằng sông Hồng.. Tây Bắc giáp Hòa Bình, ( ranh giới chung dài 66 km ). Tây Nam giáp Thanh Hóa ( 79.km ), Đông và Đông Bắc giáp Nam Đinh và Hà Nam ( 84 km ), Nam là Vịnh Bắc Bộ, với chiều dài đường biển là 16.5km.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 1387,3 km2 . Năm 1992 , khi tái lập tỉnh Ninh Bình từ tỉnh Hà Nam Ninh, dân số chỉ có 802600 người. Dân số năm 1999 là 891 500 người. Mật độ dân cư là 637ngừời/km2 , thưa nhất các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Năm 2005 tăng lên 918 500 người. Ninh Bình là địa bàn xuất cư. Năm 1995 và năm 1996 đã vận động được gần 10 000 người đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tuy nhiên, việc di dân ít có ý nghĩa đối với sự hạ thấp tỉ lệ tăng trưởng dân số. Vì vậy muốn thật sự giảm mức tăng dân số, trước hết tầm quan trọng hàng đầu là giảm tỉ lệ sinh. Nhờ vận động kế hoạch hóa gia đĩnh, tỉ suất sinh đã giảm được 5.39 phần ngàn từ năm 1991 đến năm 1997. Tuy nhiên cần đẩy mạnh cuộc vận động giảm tỉ lệ sinh hơn nữa, ngay cả ở hai thị xã Ninh Bình, Tam Điệp và huyện Hoa Lư, những nơi có tỉ suất sinh thấp hiện nay. Đáng quan tâm là các huyện có tỉ suất sinh từ 2.3% đến 2.5% như Kim Sơn, Nho Quan và Yên Khánh.
Người Kinh chiếm 98.37 % dân số toàn tinh. Phần còn lại thuộc 23 tộc dân, đông nhất thuộc 2 tộc dân Thái và Mường , tập trung cư trú và sản xuất ở Nho Quan với 14 668 người, chiếm 1.63 % dân số toàn tỉnh và 9.9 % dân số huyện.

Ninh Bình nằm án ngữ con đường giao thông huyết mạch ( quốc lộ 1A ) nối liền vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc , trong đó có thủ đô Hà Nội, với duyên hải miền Trung và Tây Nguyên , luôn cả thành phố Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long ), liên lạc trực tiếp và ngõ giao lưu của các tỉnh phía Nam với vùng Tây Bắc giàu tiềm năng về tài nguyên, nhưng thiếu nhân lực tay nghề, thiếu vốn, thiếu kỷ thuật.

Phân chia hành chánh.
Ninh Binh nguyên là đất phủ Trường Yên vào đời Lý. Thời Lê sơ chia làm hai phủ : Trường Yên và Thiên Quan. Đời Lê Trung hưng là Thanh hoa ngoại trấn. Năm 1806 đổi là đạo Thanh Bình. Năm 1821 đổi là đạo Ninh Bình. Năm 1829, đổi là trấn Ninh Bình. Năm 1831 đổi là tỉnh Ninh Bình. Tháng 12 năm 1975, sáp nhập với tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, Ninh Bình được tách ra từ tỉnh Hà Nam Ninh .

Ninh Bình có 2 thị xã , 6 huyện với 125 xã và 11 phường, thị trấn. Thị xã Ninh Bình là tỉnh lỵ, trung tâm chánh trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh; nằm ngay trên quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc - Nam, cách thủ đô Hà Nội 90 km. Thị Xã Tam Điệp chạy dài dọc theo quốc lộ 1A là cửa ngõ Ninh Bình sang thành phố Thanh Hóa. 6 huyện của tỉnh là Nho Quan , Gia Viễn, Hoa Lư, Yên Mô, Yên Khánh và Kim Sơn. Nho Quan là huyện có diện tích lớn nhất, nhưng số dân chỉ đứng thứ hai, sau huyện Kim Sơn. Huyện có số dân ít nhất là Yên Mô. Huyện có mật độ dân cư cao nhất là Yên Khánh.

Chút ít địa hình , thủy văn, khí hậu
Địa hình Ninh Bình nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam , từ vùng núi Nho Quan,Tam Điệp tới miền đồng bằng Hoa Lư ,Yên Khánh rồi thấp dần ra vùng biển Kim Sơn . Đông bằng chiếm phần lớn diện tích, còn vùng đồi núi chỉ khoảng 20% diện tích tòan tỉnh . Phía Tây và Tây Bắc của tỉnh là khu vực cacxtơ xâm thực Cúc Phượng, tiếp đó là giải đồng bằng tích tụ xâm thực Nho Quan , kéo tới Đồng Giao - Tam Điệp. Khu vực lớn nhất là vùng đồng bằng tích tụ trũng Gia Viễn . Hoa Lư và đồng bằng tích tụ ( cao ) Yên Khánh . Vùng ven biển Kim Sơn là đồng bằng duyên hải được bồi tụ do sông - biển, quá trình bồi tụ phát triễn mạnh mẽ, hàng năm tiến ra biển với tốc độ lớn ( 80 đến 100 m một năm) .

Sông ngòi Ninh Bình có lượng nước khá dồi dào, dòng chảy trung bình đạt 30l/giây / km2. . Mạng lưới sông suối của tỉnh phân phối tương đối đều , gồm hàng chục con sông lớn nhỏ, với tổng chiều dài khoảng 1000 km. Những con sông chánh là sông Đáy , sông Bôi , sông Nho Quan, sông Hoàng Long, sông Đằng, sông Vác, sộng Vân . Độ sâu trung bình 1.0 m và và độ rộng lòng sông trên10m. Sông Hoàng Long và sông Đáy là đường giao thông thủy quan trọng nhất, nối liền các vùng trong tỉnh và mở rộng giao thông với các tỉnh xung quanh, đặc biệt với đồng bằng sông Hồng. Ngoài hệ thống sông, Ninh Bình còn có nhiều hồ đầm, cảnh quan đẹp nằm ngay chân các núi đá vôi như đầm Cút ( Gia Viễn ) , hồ Thường Sung , hồ Đồng Liêm ( Nho Quan ), hồ Đông Thái, hồ Yên Thắng ( Yên Mô ) .

Khí hậu Ninh Bình chia ra 2 mùa , mùa đông từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau , mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 . Mùa đông có gió mùa Đông Bắc lạnh , làm cho 2- 3 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 18 độ C . Khu vực đá vôi Cúc Phương lạnh hơn cả, nhiệt độ trung bình có tháng dưới 15 độ C. Lượng mưa trung bình là 1870mm, mùa mưa chiếm 86- 91 % lượng mưa cả năm, Độ ẩm trung bình là 85 % . Trở ngại lớn nhất cho sản xuất là mùa mưa bảo . Năm nào mùa này cũng xảy ra úng lụt , ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải, và sinh hoạt nhân dân, đặc biệt ở vùng trũng Nho Quan, Gia Viễn và Hoa Lư . Ngoài úng lụt, Ninh Bình cũng thường xuyên chịu ảnh hưởng một số ngày nóng nắng, khô kiểu gió Lào vào mùa hè .

Xuôi dòng thời gian
Những trang sử không tên tuổi lịch sử Việt Nam, kể từ khi con người xuất hiện trên Trái Đất cách đây 2- 3 triệu năm, cũng đã kéo dài hàng chục vạn năm, mở đầu bằng người vượn nay hóa thạch tìm thấy trong hang động Bắc Sơn, những sơ kì đá cũ Núi Đọ ( Thanh Hóa ), ở lưu vực sông Đồng Nai , cho đến những di tích thời đại đồng thau. Di tích người vượnThẩm Khuyên và Thẩm Hai ở dãy núi đá vôi theo quốc lộ số 13, từ Lạng Sơn đi đến huyện lỵ Bình Giả, sau 2 năm khai quật 1964- 64, tìm thấy 10 chiếc răng người hóa thạch, có những nét đặc trưng gần với người vượn Bắc Kinh ( Sinanthropus ), cùng với nhiêu răng của đười ươi ( Pongo ), gấu tre ( Ailuropoda ), voi răng kiếm ( Stegodon ) và vượn khổng lồ ( Giganthopithecus ) v.v… , niên đại trung kỳ Pleistocene cách ngày nay chừng 300 000 năm. Đây là di cốt người vượn biết sớm nhất trên đất nước ta ( theo các giáo sư Phan huy Lê , Hà văn Tấn , Hoàng xuân Chinh, Hà Nội năm 1989 ). Nhắc lại là châu thổ sông Hồng, mà Ninh Binh là một thành phần, chỉ mới bắt đầu lồi từ từ ra khỏi mặt biển chừng 7000 năm nay thôi. Cũng vì vậy, Ninh Bình không có được nhiều di tích văn hóa tiền sử nước ta thuộc thời đại đồ đá và đầu thời đại kim khí : như văn hóa Sơn Vi công cụ đá cuội quartzit đồi gò Trung du , văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn ( các nhà khảo cổ Pháp phát hiện những năm 20 thế kỷ thứ 20, nơi tộc dân Mường , một tộc dân còn khá đông ở Ninh Bình , đuợc xem là người Việt cồ, ngôn ngữ rất gần với tiếng Việt cồ, cư trú chánh ở núi rừng tỉnh Hòa Bịnh.

Tiếp theo văn hóa Hòa Bình- Bắc Sơn là văn hóa Sông Hồng , diễn biến liên tục từ giai đoạn Phùng Nguyên, mở đầu với những công cụ và vòng trang sức dá mài tinh xảo cũng những mảnh xỉ đồng; qua giai đoạn Đồng Dậu - Gò Mun với những đồ đá đẹp bên cạnh bên cạnh một số lượng đáng kể công cụ sản xuất nhỏ bằng đồng;đến đỉnh cao Đông Sơn, với sự vắng mặt công cụ đá và sự xuất hiện hàng loạt công cụ vũ khí và đồ dùng bằng đồng kích thước lớn, hoa văn độc đáo, mà tiêu biểu là trống đồng, tháp đồng , rìu xéo … Các nhà khảo cổ học gọi là văn minh Sông Hồng của người Việt cỗ.miền Bắc . Tương đương niên đại với văn hóa Sa Huỳnh ( niên đại xác nhận như văn minh Sông Hồng bằng đồng vị phóng xạ C14 ) ở các tỉnh ven biển miền Trung đến miền Đông Nam Bộ. Hay văn hóa lưu vực Đồng Nai, trên các đồi đất đỏ trung du miền Đông Nam Bộ ven sông Đồng Nai , sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ. Quá trình phát triễn diễn ra từ cuối thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên đến buổi đầu công nguyên, phản ảnh hình thành nhà nước đầu tiên dân tộc ta là nước Văn Lang của các vua Hùng.

Từ thời đại các vua Hùng , đến thành Cổ Loa , cố đô Hoa Lư
Thời đại các vua Hùng ( Hùng Vương ) tổ tiên chúng ta đã xây dưng một nền văn minh cao, trước khi bị văn hòa Hán ( Tàu, Trung Hoa ) xâm nhập. Khởi đầu thời đại này theo truyền thuyết, huyền thoại cách đây 4000 năm,đã được xác định kỳ thú, theo phương pháp than phóng xạ C14. Đặc điểm là cư dân thời đó sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước , giống lúa hột tròn , phần lớn là nếp . Đã khảo cổ tìm thấy những chõ đồ xôi bằng gốm , phần nồi đựng nếp gắn liền với phần nồi đáy đựng nước . Ban đầu làm ruộng bằng cuốc đá . Đến đỉnh Đông Sơn dùng cày, lưỡi đúc bằng đồng sức kéo là trâu bò , gặt bằng dao đá hay đồng. Cư dân thời các vua Hùng cũng đã biết nuôi chó, gà heo, trâu, bò, voi, nhưng chưa tìm thấy dấu vết của ngựa. Nghề săn bắn và đánh cá đã xuống địa vị thứ yếu. Các nghề thủ công đa dạng và phát đạt. Nghề làm nông cụ đã phát triễn trước giai đoạn Đông Sơn, sau đó chuyễn thành nghề làm đồ trang sức. Nghề làm đồ động đã phát triễn cao trong giai đoạn Đồng Dậu. Đến giai đoạn Đông Sơn, đã có những đồ đồng lớn, đẹp như thạp đồng, trống đồng. Nghề rèn và đúc sắt bắt đầu thực hiên. Nghề gốm khá thịnh vượng, nhưng hết thời đại này, vẫn chưa có đồ sành sứ. Nghề mộc và đan lát để lại nhiều dấu vết, với nhiều kiểu đan lóng một, lóng đôi, lóng thúng, lóng nia… giống hệt ngày nay. Con người thời đại vua Hùng đã biết làm mắm, nấu rượu làm các loại bánh như bánh chưng, bánh dầy. Đời sống tinh thần phong phú. Để chơi nhạc , tổ tiên chúng ta thời này đã biết trống đồng lớn, trống da nhỏ, khèn ngắn, khèn dài sáo , cồng, chuông , lục lạc. .. biết nặng tượng, biết vẽ, biết khắc lên nhà, lên thuyền, lên đồ vật , lên cả mình mẫy . Dần dần các cộng đồng đã nảy sinh sự phân hóa giàu nghèo. Qua những ngôi mộ Đông Sơn, sống chết cũng có thân phận khác nhau. Bắt đầu có phân tầng xã hội. Văn hóa Đông Sơn phân bố trên một vùng rộng lớn hơn trước đó, chứng tỏ một sự thống nhất văn hóa trên quy mô quốc gia. Thế thống nhất chính trị trong thời đại các vua Hùng đã tạo ra sức mạnh to lớn cho dân tộc Việt để có thể trường tồn qua những thể thức ghê gớm, dưới ách thống trị nghìn năm của người Hán sau đó.

Cổ Loa đô thị thủy lợi miền châu thổ,”Mỵ Châu - Trọng Thủy- mất nước vì thật bụng tin người” .
Sau cuộc kháng chiến lâu dài chống nhà Tần xâm lược, bành trướng, Thục Phán lên ngôi thay vua Hùng, đổi tên nước là Âu Lạc, dời đô từ vùng Bạch Hạc - Việt Trì xuống vùng Cổ Loa, di chuyễn trung tâm chính trị từ miền trung du xuống miền châu thổ, khai phá thêm thành miền trồng lúa phát triễn cao. Thục Phán cho xây đắp ở Cổ Loa trên bậc thềm đất cổ cuối cùng mở xuống một đồng bằng phù sa mới một tòa thành nổi tiếng. Một đô thị thủy lợi, kết hợp một quân trấn của bộ binh giỏi cung nỏ với một quân cảng của thủy binh dùng thuyền, bản sắc quân sự thủy bộ của người Âu Lạc .Ở Cỗ Loa , khảo cổ học đã tìm thấy hàng vạn mủi tên đồng, hàng trăm lưỡi cày đồng các loại và mấy chiếc trống đồng.Trống đồng Cổ Loa phát hiện năm 1982, được xếp cùng trống đồng Ngọc Lũ , trống đồng Hoàng Hạ thành bộ ba trống đồng to và đẹp nhất trong dòng trống đồng Đông Sơn. Đây là tòa thành cổ nhất và lợi hại bậc nhất hiện biết ở nước ta. Cổ Loa là quê hương truyền thuyết Mỵ Châu -Trọng Thủy. Triệu Đà đánh vua Thục Phán ( An Dương Vương ) ở thành Cổ Loa , mấy lần không thắng , lấy kế sai con trai là Trọng Thủy sang làm “ con tin” giữa hai đối phương, mượn cớ cầu hôn con gái vua Thục Phán là Mỵ Châu, ở rễ ba năm tại Cổ Loa, điều tra tình hình Cổ Loa và nội bộ Âu Lạc , rồi trốn về nước, báo vua cha xuất quân đánh chiếm Cổ Loa và Âu Lạc . Nước ta mất vào tay giặc phương Bắc từ đó, vào năm 179 trước công nguyên. Truyền thuyết “ thật bụng tin người , bị người làm hại “ của Mỵ Châu, đánh dấu một chặng đường bi tráng lịch sử Việt Nam cổ đại . Sau chiến thắng vĩ đại sông Bạch Đằng năm 938 sau Công Nguyên , Cổ Loa lại trở thành kinh đô đầu tiên của nước Việt phục hồi quyền tự chủ, từ thế kỷ thứ 10 .( Theo Trần Quốc Vượng - 1989, Hà Nội )

Cố Đô Hoa Lư, kinh đô trong 41 năm,968- 1009,12 năm thời nhà Đinh

Hoa Lư thời Đinh Tiên Hoàng ( 924- 979 )
Cổ Loa hướng về phát triễn đồng bằng phù sa Ninh Bình phía cực nam châu thổ phù sa sông Hồng này. Hoa Lư mới thật là một cố đô, thuộc Ninh Bình. Năm 944, Ngô Vương Quyền mất. Đất nước ta trải qua một thời loạn lạc , vô chánh phủ, trên 20 năm ( 944- 968 ), sử cũ gọi là “Loạn 12 sứ quân “. Đinh Bộ Lĩnh, sinh năm 924, nguyên quán động Hoa Lư, châu Đại Hoàng ( nay là huyện Hoa Lư ), cha là Đinh công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan, mất sớm Đinh Bộ Lĩnh vốn là con quan, đứng đầu một châu, thu phục nhân tâm bằng tài năng của mình và lại chiếm giữ được một vùng khe động hiểm trở, đã đứng ra đảm trách gánh vác sơn hà. Một trong những sứ quân mạnh mẽ là Trần Lãm ( Trần Minh Công ) vùng Bố Hải khẩu ( cửa biển, nay là vùng thị xã Thái Bình ) đã liên kết với ông. Đinh Bộ Lĩnh đã dùng mưu tình cảm thu phục 2 sứ quân khác là Ngô Nhật Khánh, chiếm giữ Đường Lâm ( nay thuộc huyện Bà Vì , ngoại thành Hà Nội) và Ngô Xương Xí, con cháu Ngô Vương chiếm Bình Kiều ( Triệu Sơn , Thanh Hóa ). Nhờ dân dân giúp sức, Đinh Bộ Lĩnh đã dùng cung kiếm, mưu lược, phá tan hai sứ quân mạnh là Đổ Cảnh Thạc chiếm vùng Đổ Đông Giang ( Thanh Oai , Hà Sơn Bình ) , và Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt ( Thanh Trì , Hà Nội ). Các sứ quân khác như Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Thủ Tiệp , Phạm Bách Hổ …. đã bị đánh bại ngay từ trận đầu của Đinh Bộ Lĩnh. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh được suy tôn lên ngôi vua, lấy hiệu là Tiên Hoàng Đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Tháng 10 năm 979, ông bị nội nhân Đổ Thích giết, thọ 56 tuổi, táng ở sơn lăng Trường Yên.

Hoa Lư thời Lê Đại Hành ( 941- 1005 )
Triều đình sau khi giết Thích, tôn vệ vương Đinh Toàn, mới 6 tuổi, lên ngôi vua, cử Lê Hoàn thập đạo tướng quân - điện tiền đô chỉ huy sứ ( tống chỉ huy quân đội Đại Cồ Việt ) làm nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loạn, nhưng bị Lê Hoàn dẹp tan. Sứ quân cũ, phò mã nhà Đinh Ngô Nhật Khánh, bỏ trốn vào Nam, rước vua Chiêm Thành cùng hơn nghìn chiến thuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư , nhưng bị bảo dìm chết. Lợi dụng triều đình rối ren, Trung Quốc lộ ngay ý định thôn tính nước ta. Tháng 6 năm 980, nhà Tống họp quân bốn mặt, theo hai đường thủy bộ rắp tâm cướp nước ta. Thái hậu Dương Vân Nga, cử Lê Hòàn chọn tướng. Đại tướng Phạm Cự Lạng cùng các tướng lĩnh khác đồng thanh tôn Lê Hoàn làm vua ( Lê Đại Hành ). Mùa xuân năm 981, ông đã đem chiến thắng trở về, tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lăng lịch sử, thắng lớn trên cả hai mặt thủy bộ,: thủy của tướng Lưu Trừng gần sông Bách Đằng; bộ giết tướng Tống đầu sỏ Hầu Nhân Bảo ở ngã Ôn Châu, tiêu diệt quá nữa quân Tống, bắt vô số tù. Khiến Vua Tống phải xuống chiếu lui quân. Đại thắng mùa xuân 981, còn lớn hơn cả chiến thắng trận Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền phá quân Nam Hán, giết Hoằng Tháo, và mở đầu kỷ nguyên Đại Việt, một dân tộc phục hưng sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, bách thắng bọn xâm lược Phương Bắc.
Nhờ một phần tư thế kỷ đứng đầu đất nước, Lê Hoàn là người công đầu Nam Tiến, dù rằng vua Tống Thái Tông, Trung Quốc, quyết tâm ngăn cản Đại Cồ Việt, không cho đánh Chiêm Thành, Chămpa. Năm 982, sau khi thắng quân Tống xâm lăng, vua Lê Đại Hành cất đại quân chinh phạt Chiêm Thành , chém chết trận tiền vua Chiêm Tùy Mi Thuế ( Paramec vara Varman ), tiến phá thành bình địa kinh đô Chiêm Đồng Dương- Indrapura , Quảng Nam, chia quân đánh các nơi xung yếu Chiêm Thành đến tận thành Vijaya - Đồ ( Chà ) Bàn tỉnh Bình Định , lưu lại một đạo quân trú phòng chiếm đóng phần phía Bắc nước Chiêm Thành, từ Hoành Sơn đến mũi Đèo Cả - Cap Varella. Năm 992, vua Tiền Lê lại sai Phụ Quốc Ngô Tử An đem 30 000 người mở đường bộ từ cửa Nam Giới ( Cửa Sót, tỉnh Hà Tĩnh ) vượt Đèo Ngang và xuyên suốt châu Bố Chính đến thẳng châu Địa Lý ( miền giữa tỉnh Quảng Bình ), 77 năm trước khi Chế Cũ dâng 3 châu , Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh, năm 1069 đời vua Lý Thánh Tôn .

Tam Điệp chiến tuyến phòng thủ quân bộ, cho đại thắng Thăng Long năm 1789
Từ xa xưa , đường thiên lý qua Tam Điệp vẫn là trục đường lớn chủ yếu quan trọng nhất nối liền Nam Bắc , chạy thẳng từ Thăng Long vào Thanh Hóa. Con đường độc đạo này phải qua đèo Tam Điệp còn gọi là đèo Ba Dội , nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khen :
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo…
Nhìn từ xa mạch núi khép kín dần như cái miệng, Ngô Thì Sĩ đã coi là “ miệng đó của Trời chặn lấy cửa ải Cửu Chân “ . Địa hình đặc sắc Tam Điệp có giá trị như bức thành ngăn cách Giao Chỉ và Cửu Chân. Ở đời Lý, Trần, đây là địa đầu của lộ Trường Yên ngăn cách với đất Ái Châu hay làm ranh giới phân Thanh Hoa nội và Thanh Hoa ngoại. Cuối năm 1788, 290 000 quân Thanh tràn vào xâm lược nước ta. Quân Tây Sơn lúc bấy giờ chỉ có 10 000 quân đồn trú ở Thăng Long và Bắc Hà. Trước lực lượng quá chênh lệch , Ngô Thì Nhậm chủ trương rút quân về lập phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn. Quân thủy đóng đồn tại hải phận Biện Sơn ( Thanh Hóa ). Chuẩn bị sẳn địa bàn mai phục cho đại quân. Ngày 20 tháng chạp, đại quân Quang Trung từ Phú Xuân ra đến Tam Điệp , cho quân lính ăn Tết Nguyên Đán trước ngày. Rồi ngày năm tháng giêng năm kỷ dậu ( 30- 1- 1789 ), quân Tây Sơn kéo về đại phá quân Thanh ở Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc tiến công thần tốc, làm sáng mãi tên Tam Điệp - Ninh Bình

Phần II: phát triễn Ninh Bình :
Tổ chức ngành du lịch chưa xứng đáng với danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử

“Hạ Long cạn” núi đá vôi và hang động các xtơ nhiệt đới
Tuy vùng đồi núi Ninh Bình chiếm khoảng 20% diện tich tự nhiên toàn tỉnh, nhưng địa mạo theo dạng địa hình cacxtơ - relief karstique đặc trưng , độc đáo của Ninh Bình có ý nghĩa to lớn về kinh tế , du lịch . Độc đáo nhất là khu vực cố đô Hoa Lư và Tam Cốc - Bích Động . Nhiều người cho rằng kiểu cácxtơ Ninh Bình là cácxtơ vịnh Hạ Long hay “Hạ Long trên cạn “, trưóc đây là một vịnh biển nông, như Hạ Long ngày nay. Hạ Long trên cạn gồm hàng trăm hòn đảo xinh xắn với đầy đủ hình dạng đặc sắc, rải rác trong một vùng đồng chiêm trũng. Chân các núi đá vôi có nhiều hàm ếch và hang động ngập nước , vết tích hoạt động mài mòn của biển trước đây như khối núi đá vôi Thiên Tôn ( Ninh Mỹ ) và các núi đá vôi ven đường 12 B từ Cầu Đế đến thị trấn Nho Quan. Địa hình cacxtơ Ninh Bình là đặc trưng cácxtơ nhiệr đới gồm dạng vòm, dạng tháp ( Núi Tròn, Núi Ông Trạng - Trường Yên ), dạng đồi ( Gia Sinh , Sơn Lai ), dạng xiêng( Hoa Lư , Tam Cốc - Bích Động ), dạng phểu, dạng cánh đồng cácxtơ ( xã Ninh Hòa, Ninh Nhất , Ninh Tiến - Hoa Lư ) …Đặc biệt trong hang động cácxtơ có nhiều bồi tụ vú đá - thạch nhủ tạo cảnh đẹp huyền ảo nổi tiếng như Bích Động, Thiên Động, động Hoa Lư, Hang Dơi ( Hoa Lư ), Địch Lộng, động Người Xưa, động Trăng Khuyết ở rừng Cúc Phương …

Danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
Cố đô Hoa Lư, một kiến trúc đặc biệt nước nhà ( phỏng theo kiến trúc sư Đoàn Đức Thành, Hà Nội 1989 )
Đáng kể ở Ninh Bình là cố đô Hoa Lư. Hoa Lư được Đinh Tiên Hòang chọn làm kinh đô nước Đại Cồ Việt, thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách Hà Nội 100 km, là một di tích lịch sử lớn, có thành cổ, cung điện , đền ,chùa, lăng vua và là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng có sông ngòi, núi non, hang động. Thành Hoa Lư nằm trong thung lũng bằng phẳng, rộng chừng 300 ha, ba mặt có vách núi đá vôi của dãy Tràng An bao bọc. Mặt Tây Bắc thưa núi hơn, có dòng sông Hoàng Long án ngữ . Những đoạn trống không có núi, được chắn bằng trường thành nhân tạo nối từ chân núi này đến chân núi kia. Đoạn dài nhất 500m, đoạn ngắn nhất 65m, cao ngót 10m, rộng khoảng 15m. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những viên gạch xây thành có khắc nổi hình phựợng vờn, bướm hoa sen và dòng chữ “ Đại Việt quốc quân thành chuyên “ và “Giang Tây quân “ niên đại thế kỷ 10- 11. Hai vòng thành không lồng vào nhau mà ở cạnh nhau, liên hệ qua một ngách núi ở giữa là Quền Võng. Thành Ngoại ở phía Đông rộng chừng 150 ha , nơi xây dựng cung điện nhà vua, nay thuộc làng Yên Thành. Vua Đinh Tiên Hoàng đã dựng cột cờ ở cung điện Thành Ngoại. Thành Nội ở phía Tây, nơi hoàng gia sinh sống, nơi dạy dỗ và bảo vệ trẻ em. Hinh như cung điện nhà vua hinh chữ Vương , như Dinh Độc Lập nay là Dinh Thống Nhất ở Sài Gòn vậy ( theo kiến trúc sư Ngô Viêt Thụ ?, người họa kiểu dinh, thay cho dinh Toàn quyền, dinh Norodom cũ ?).

Theo thư tịch cỗ thì sau 41 năm dưới triều nhà Đinh và nhà Tiền Lê ở kinh đô Hoa Lư có nhiều cung điện lầu gác, đình tạ. Chính vua Lê Đại Hành mới xây dựng nhiều cung điện và làm cho Hoa Lư đẹp đẽ thêm, lộng lẫy thêm. Đẹp nhất là cung điện Bách Bảo Thiên Tuế, dát vàng, dát bạc nguy nga lộng lầy. Tiếc rằng thời gian đã hủy hoại tất cả. Nhưng sau hơn 1 ngàn năm, có lẽ chúng ta nên tim cách tái tạo những đặc sắc kiến trúc , xây dựng Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Nam cố đô Hoa Lư, như đã làm ở Huế, Hà Nội ?

Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn xuống chiếu dời đô, năm 1010, về Thăng Long ( Hà Nội ngày nay ). Dân chúng đã dựng lên ở Hoa Lư, trên nền cũ cung điện, hai ngôi đền thờ vua Đinh và vua Lê. Đền vua Đinh ở làng Yên Trung, còn gọi là đền Thượng cách đền Hạ, đền vua Lê ở làng Yên Hạ, 500m. Cả hai đền đều bố cục theo kiểu “ Nội công , ngoại quốc “ , công trình bố trí qua đường thần đạo. Đền thờ có nhà bái đường, thiên hương ( thờ các quan ) và chánh cung ( nơi có tượng vua Đinh Tiên Hoàng ). Bên trái tượng này là con cả vua Đinh Liễn, bên mặt là các tượng Đinh Hạng Vương và Đinh Toàn. Mỗi bên bàn thờ đều có hình rồng bằng đá, tương tự các hình rồng long sàng . Ngoài ra còn có nhà Khải Thánh ( thờ cha mẹ vua Đinh ), vọng lâu Ngọ Môn ( sau cổng vào này, có hình con Nghê đứng canh hai bên một long sàng, giường vua ngũ bằng đá ) , trụ cổng, sân rồng, hồ sen, vườn cảnh, bể cạn, núi giả … Đền vua Lê cũng tương tự, nhưng quy mô nhỏ hơn, có bái đường, Thiên Hương và bàn thờ vua Lê. Ở giữa là tượng Lê Đại Hành, bên trái là hoàng hậu Dương Vân Ngà, bên mặt là Lê Ngọa Triều. Từ đền vua Đinh, lần theo bậc đá lên đỉnh núi Yên Ngựa ở gần đó, là lăng vua Đinh, khiêm nhường, giản dị. Dưới chân núi Yên Ngựa về phía Nam có lăng vua Lê.

Sông núi Hoa Lư là một danh lam thắng cảnh, gắn truyền thuyết vua Đinh, vua Lê. Trên đỉnh Yên Ngựa, nhìn sang bên kia sông Hoàng Long là thôn Kim Lư, nơi Đinh Bộ Lĩnh ra đời. Nơi đây có Thung Lá, Thung Lau đã từng chứng kiến “ ông vua mục đồng “ phất cờ lau tập trận, mổ trâu khao quân. Mõm đá Ghềnh Tháp bên con ngòi Sào Khê đã in đậm hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh đứng duyệt thủy quân thuở nào. Về hướng nào cũng có thể chiêm ngưỡng những hang động và cảnh đẹp. Làng Yên Hạ có am Tiêm Động ở lưng chừng núi, bên trong có thạch nhủ hình cây tiền, cây lúa óng ánh và hang rồng sâu thẳm.

Bích Động - Tam Cốc
Năm 1773 , Nguyễn Nghiêm, cha của nhà đại thi hào Nguyễn Du, thăm viếng hang động thuộc dãy núi Ngũ Nhạc, đã đặt tên hang động này là Bích Động, động Ngọc bích Xanh biếc.Bích Động đã được nhiều nhà vua xem là hang động đẹp thứ hai, sau hang động Hương Tích, có thể trụt xuống hàng thứ ba (? ) sau khi khám phá nhiều hang động mới dài, rộng hơn ở vùng Phong Nha - Kẻ Bàng, Quảng Bình. Chùa Bích Động, tỉnh Ninh Bình, cũng được xem là chùa đẹp thứ hai ở Việt Nam, sau chùa Hương ở tỉnh Hà Tây. Chùa cách thị xã Ninh Bình 11 km, có thể đến bằng đò hay xe ô tô. Chùa này chia ra làm ba mức : Chùa Hạ, Chùa Trung cà Chùa Thượng xen trong sườn núi. Từ Chùa Thượng, nhìn phong cảnh tuyệt vời, thơ mộng trên phương diện kiến trúc và lịch sử núi đồi, sông suối vùng Hoa Lư. Vị trí chùa Bích Động được hai nhà sư lựa chọn năm 1428 , mến cảnh sông núi vùng này . Sau đó vào thế kỷ thứ 18, vua Lê Cảnh Hưng đã viết một bài thơ ca tụng phong cảnh chùa Bich Động và gọi chùa này là thắng cảnh thứ hai, sau chùa Hương.

Viếng Bích Động thì không thể bỏ qua động Tam Cốc, cách chùa 2 km và cách bến Văn Lâm 3km. Tam Cốc là ba hang động: Hang Cả, Hang Hai và Hang Ba, ở làng Ninh Hải , huyện Hoa Lư. Ngã vào duy nhất vào ba hang là đi đò sông, mất ba tiếng đồng hồ từ Đình Các ở bến Văn Lâm. Sau khi rời đường bộ, hàng trăm đò nhỏ chờ đợi đón mời du khách vào ba hang Tam Cốc. Đi đò thì du khách sẽ bị cảnh đẹp thiên nhiền núi đá to lớn dọc theo sông và rải rác những cánh đồng lúa xanh tươi thơ mộng, quyến rũ. .. Sáng tinh sương phong cảnh mù dày dặc bao phủ, khiến du khách không phân biệt đó là Hạ giới hay Tiên cảnh. Nếu cũng là buổi sáng từ Văn Lâm, du khách sẽ đến Hang Cả; nơi đây một cầu vòng trên nước chào mừng khi mặt trời lên cao trên Hang Múa, đẫy du khách ra khỏi thực tế , lạc vào mộng ảo Hư Vô. Núi đá vôi đã bị nước biển mài mòn, tạo ra một loạt hang động ở vùng này. Khi nước biển rút đi, thì còn lại hang động. Nước mưa giúp bào láng hang động và biến sông ngòi thành sông ngầm. Hang Cả dài 127 m dưới núi lớn, trải dài hai bên sông Ngô Đồng. Khi chạm núi, sông xuyên qua hang động. Hang im lặng như tờ, chỉ còn nghe tiếng chèo khua. Đò ra khỏi hang, du khách sẽ ngac nhiên thấy tuồng như một ngư phủ già râu bạc ngồi đánh cá. Trên trời cao. mây lững thửng bay. Thiên nhiên hoàn tất bằng vài nông phu thu lượm củi và vài con dê trắng gặm cỏ trên đồi. Sau đó sẽ đến gần Hang Hai, ,cũng đẹp như vùng Hang Cả . Nước sông không chút gợn sóng nào, phản chiếu chi tiết hoa, cây, đá, dọc bờ sông trên trời xanh ngắt, mây trắng lưng lờ bay qua. Hang Hai cũng đầy nước và mây bay. Cách đó 100m là Hang Ba, lạnh nhất, vì thấp nhất. Điểm hút dẫn ở đây là ánh sáng thiên nhiên trong hang do nước phản chiếu. Những tảng đá lớn, bằng phẳng ngay ở dòng sông cũng thể làm bàn dựa cho ai muốn tắm sông. Truyền thuyết gọi dòng sông là Suối Tiên, vì đã có lân bầy tiên xuống tắm. Thật hay ảo, tắm nơi vùng hoang dã, kềm theo tiếng động rừng sâu và hương thơm hoa đồng cỏ nội là một kỷ niệm khó quên. Cả ba hang đều có thạch nhũ đa dạng, đa hình óng ánh như châu báu.
Tam Điệp , một khu di tích lịch sử
Tam Điệp nay là một thị xã tỉnh Ninh Bình. Ngoài việc đóng vai trò chiến tuyến phòng thủ, Tam Điệp còn là thắng cảnh di tích, đã đi vào lịch sử và thơ văn. Đây là nơi dãy núi đá vôi xen lẫn các đồi đất chạy theo hướng Tây Bắc -Đông Nam, ranh giới hai tinh Ninh Bình và Thanh Hóa. Địa hình và cảnh trí thiên nhiên, đa dạng, hùng vĩ, khép kín, tạo ra vòng cung khu rừng nguyên thủy Cúc Phương với những núi đá vôi muôn hình muôn vẻ, vách dựng đứng , những đồi đất hiền lành chen giữa những thung lũng bằng phẳng, những dòng suối uốn quanh. Trà Tu, Tam Giao là những hang động đẹp nổi tiếng của Tam Điệp. Đại Nam Nhất thống Chí mô tả : “ mạch núi từ huyện Thạch Thành kéo đến liên tiếp chạy ngang suốt cả bải biển “. Phan huy Chú ( Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí ) nhìn địa thế Tam Điệp “ núi cao nhất, cỏ xanh tốt, đứng trên đỉnh núi thấy biển cả. Núi ở chung quanh, đường đi ở giữa, trông về hai bên tả hửu, núi như chậu úp một, chỗ gần hết núi thì hai bên như bức vách đứng thẳng lên.. . “ Từ lâu Tam Điệp đã xuất hiện trong thơ văn Lê HửuTrác, Ngô Thì Sĩ, Đoàn Nguyễn Tuấn, Thiệu Trị, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến. Ngô Thì Sĩ, khi qua Tam Điệp, đã tức cảnh bài thơ chữ Hán, so sánh với thói nham hiểm của lòng người, tạm dịch:
Núi non sừng sửng, cây im hơi
Đường đá cheo leo lên được thôi.
Duy chốn gập ghềnh không thể biết
Dầu hơn cõi thế với lòng người.
Nguyễn Du cũng có bài thơ Tái Du Tam Điệp , tạm dịch :
Chạm mây núi Ba Dội
Bên trời, khách lại qua
Mắt đưa, trùm bốn cõi
Ngoài khơi chiếc thuyền xa.
Sương tan, đồi núi trọc,
Trời lạnh , cây cỏ già .
Bồn chồn khách ngoảnh lại,
Càng thêm nhớ quê nhà.
Công viên quốc gia , rừng nguyên thủy Cúc Phương ( phỏng theo Trần Tuyền , Hà Nội, 1989 )
Diện tích 25 000 ha này tuy trực thuộc tỉnh Ninh Bình, nhưng nằm gối trên địa phận ba tỉnh là Hòa Bình, Ninh Bình và Thanh Hóa. Cúc Phương, cách Hà Nội 140 km về phía Tây Nam, cách Biển Đông 60 km, là một khu bảo tồn thiên nhiên, không phải chỉ riêng cho Việt Nam mà cho cả thế giới nữa. Rừng nguyên thủy nhiệt đới trên đá vôi Cúc Phương, chủ yếu là rừng mưa luôn luôn xanh ( vạn niên thanh ), rừng rụng lá chiếm tỉ lệ nhỏ, được phát hiện năm 1960 và trở thành công viên quốc gia hai năm sau. Rừng mưa nhiệt đới điển hình có cấu trúc thực vật 5 tầng, trong đó có 3 tầng cây gỗ. Công viên gồm hơn 2000 loài - species thực vật ( cây cỏ ) trong số trên 16000 loài thực vật rừng kiểm kê, định danh ở Việt Nam và 262 loài động vật, chim chóc và bò sát, 20 bộ côn trùng mà bướm là bộ đặc sắc nhất. Bướm địa phương hay bướm lạ bay về , nhiều đàn khổng lồ , sặc sở đủ màu bay lượn trong nắng; nhiều loài mang tên thơ mộng như bướm Nàng Tiên , bướm Phượng Hoàng , hoa văn cánh làm say mê nhà sưu tập. Tưởng cũng nên nhắc lại bộ sưu tập bướm Đông Pháp, thời bộ nông nghiệp còn dưới tên là Tổng Thanh tra Canh Nông, đã vang danh thế giới một thời.

Bộ sưu tập thực vật vừa có những tên gọi quen thuộc nước ta như kim giao , chò, gie, dẽ, mun, cẩm hương, sấu, táu, gụ, đinh … nhiều loài cổ thụ lạ, hiếm, gỗ qúy như nghiến Burretiodendron hsienmu, hoàng đàn Cupressus torulosa… ; vừa qui tụ một luồng thực vật di thực từ vùng nhiệt đới khô Ấn độ - Miến Điện đến sinh cơ lập nghiệp ở đây, như những cây thuộc họ Bàng Combretaceae : chò xanh, chò nhai; họ Gạo Bombacaceae , rụng lá mùa khô. Leo lên sườn núi, luồn lõi qua những ngách đá lô nhô ta bắt gặp cây chò cao hơn 50 m, sừng sững ngút trời xanh, gốc rộng 16 người ôm mới xuể. Chò chỉ tên khoa học là Parashorea chinensis ( chò chỉ Trung Quốc ), còn cao hơn nữa, đến 70m, thân lớn dựng đứng đến 60 m ( thân đứng này có lẽ cao hơn cả cây sao đen Hopea odorata, thân thuộc các rừng quanh Sài Gòn hay trang điểm vài đường phố Sài Gòn trước đây và có khi còn gặp ở rừng Hà Giang, Tuyên Quang hay Lâm Đồng ), xòe tàn lá một vùng, cũng đến tuổi 1000 năm, thuộc họ cây dầu Dipterocarpaceae , đặc điểm rừng mưa ẩm nhiệt đới Mã lai - Inđônêxia. Cây kim giao, bên đường mòn thân gốc xù xì cỗ kính. Kim giao tên khoa học là Podocarpus neriifolius, còn gọi là thông tre, kim giao trước ( Trúc ) đào - faux pemou, đôi khi có thể gặp ở rừng Yên Bái, Vinh Phú, Đà Lạt - Bảo Lộc. Đủa gỗ kim giao cũng như đủa gỗ mun, theo truyền thuyết có thể phát hiện thức ăn nhiễm độc ( ? ) . Còn cây gù hương Hopea mollissima còn gọi là sao mềm, sao mặt quỷ, gù táu, hoa đo đỏ bao phủ một vùng thơm ngát hương đưa. Cây sấu ( tía ) hay long cóc Dracuntomelon duperreanum , thân bạnh ra , xù xì như thành quách rêu phong, vòng gốc 60m, ngang tuổi cây chò. Có lẽ không nên quên trên 50 loài phong lan quý hiếm, màu sắc kỳ lạ, treo trên cành cao như những chùm đèn sáng một góc rừng. Có loài phong lan Cúc Phương hoa nở bốn mùa.

Cúc Phương có 255 loại động vật có xương sống, trong số này chim chiếm 140 loài, thú 64 loài, bò sát 36 loài, lưỡng thể 17 loài và một số loài cá. Động vật quý hiếm gồm có cá niếc hang, hươu sao, cheo cheo, khỉ vàng, vẹt “ quần đùi “, chồn, trăng gấm, báo gấm, gấu ngựa, sơn dương, tắc kè, khỉ, phượng hoàng đất, gà lôi, chim trĩ, công, cu li, heo rừng, hồ cáo .., và đặc biệt hai loài rất hiếm trên thế giới là sóc bay bộ cánh là làn da mỏng căng ở bốn chân và thằn lằn bay màu xanh mướt cánh như sóc bay, khiến du khách tưởng lầm là chiếc lá liệng từ những rừng cây rậm rạp la đà giữa từng không. Trăn gấm, báo gấm là những thú dữ còn rất ít ở vùng Đông Nam Á.

Cúc Phương còn mang trong lòng cả suối nước nóng. Nước Suối Thường Xung nóng trên 37 độ C. Cúc Phương còn giữ nguyên những di chỉ hoang sơ đất nước, hang động kỳ thú nhủ thạch huyền ảo, thần thoại: động Trăng Khuyết, động Vui Xuân, động Chua, động Thành Minh, động Con Moong… Đường vào động Người Xưa ( hang Đăn ) vòng vèo , cheo leo . Leo cao 223 bậc thang, đến nơi gặp gió hun hút, tạo dựng không gian sinh sống của người thời cỗ đồ đá. Du khách còn có thể nghe kể sự tích Quèn Voi , nơi vua Quang Trung cùng binh sĩ và đàn voi nghỉ chân. Vết chân voi còn như in dấu một thời chinh chiến trên thảm cỏ, trên bờ khe.

Thắng cảnh Cánh Diều hay Ngọc Mỹ Nhân - Phát Diệm
Là một dãy núi huyền thoại phía Tây tỉnh lỵ Ninh Bình, cách Hà Nội 90 km về phía Nam . Truyền thuyết là hiện thân của danh tướng phù thủy Cao Biền, nhà Đường. Người ta thường thấy ông bay như một cánh diều, do thám và phá hoại phong cảnh đẹp đẻ nước ta. Ông bị một ẩn si Lảo giáo tài năng bắn hạ và các cánh rơi rụng trong dãy núi, nên dãy núi này mới có tên là Cánh Diều. Thât ra dãy núi gồm ba đỉnh, đỉnh cao nhất nằm giữa hai bên dãn ra hai đỉnh khác như cánh diều hâu. Nhà bác học Lê Qúy Đôn ( 1726- 1784 ), quê ở Thái Bình kế cận, đã khắc một bài thơ ở vách phía Đông, ghi những đặc điểm phong cảnh dãy Cánh Diều. Năm 1821, vua Minh Mang thăm viếng Bắc Hà đã dừng nơi đây và cũng đã ghi khắc ở vách chênh lênh phía Bắc, xem phong cảnh núi như thể một bức tranh, vua cúi đầu nhìn xuống rủ “ bụi đời, phong sương “. Về lại Huế, Vua Minh Mạng đã nghĩ đến lao lực phong sương nông nghiệp vùng Ninh Bình -Thái Bình, nghĩ ra kế hoạch Dinh điền và giao phó công tác thực hiện cho Nguyễn Công Trứ. Cũng có truyền thuyết cho rằng Nguyễn Công Trứ đã lựa chọn một khu đông dân cư đặt tên là Phát Diệm, nơi phát ra Người Đẹp; vì “ khám phá “ ra một mỹ nhân trẻ tuổi, ngực trần, nằm trải lưng dài suốt dãy núi, mắt ngước nhìn trời cao vô tận, như đóng dây chuyền cả thân hình vào dãy núi. Vì vậy núi Cánh Diều còn có tên là Ngọc Mỹ Nhân, mặt đẹp mỹ nhân hướng về Biển Đông, ở vùng Dinh điền Kim Sơn, nơi phát ra diện mạo đẹp đẽ Ngọc Mỹ Nhân ( Phát Diệm )

Hai xây dựng thờ phụng tôn giáo nguy nga tỉnh Ninh Bình.
Chùa Bải Dinh (? ) đang xây cất có là chùa lớn nhất Việt Nam không ?
Ngoài các chùa Bích Động, Nhất Tự ở cố đô Hoa Lư… cũng nên viếng Chùa Cần Linh, chùa Bành Long , và nhất là chùa Bái Dinh tại làng Gia Sinh, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Chùa đang xây cất, hy vọng sẽ hoàn tất vào năm 2010, kỷ niệm một ngàn năm ngày dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Hà Nội. Tuy chỉ mới làm phân nữa chùa vào giữa tháng 9 năm 2009, mà đã có rất nhiều khách thập phương thăm viếng mỗi ngày, dưới dàn giáo 500 thợ nề làm việc ngày đêm. Một điện thờ trong chùa chứa một tượng Phật bằng đồng nặng 100 tấn, có lẽ là tượng phật đồng lớn nhất Đông Nam Á. Còn các đền khác chứa ba tượng Phật cũng bằng đồng, nhưng chỉ nặng 50 tấn. Cả 4 tượng đều do những nghệ sĩ danh tiếng tỉnh Nam Định đúc, từ đồng nước Nga chế tạo. Chùa cũng còn có thêm hai chuông đồng thau, nặng 27 và 36 tấn cũng do nghệ sĩ tài ba ở Huế đúc ra. Chuông 27 tấn đã được chuyễn đến hai năm trước và đã đặt trên đỉnh núi. Chuông 36 tấn, cao 5.4 m, là chuông lớn nhất Đông Nam Á ( ? ). Ở một cảnh đồi khác, chùa đặt 200 tượng phật la hán - arhats, mỗi tựợng cao 2m. 300 tượng la hán khác sẽ được chuyễn đến cuối năm nay. Khi hoàn tất, chùa núi Bải Dinh sẽ là chùa chứa nhiều tượng la hán nhất vùng. Một đặc điểm khác của chùa là có thêm hai đền thờ khổng lồ, cạnh núi cao 200 m. Hinh như ngày mồng 6 tháng 6 năm 2009, Phật Ngọc Buddha Saririkaidhatu, từ chùa Giác Quan - Sài Gòn, sau khi đến chùa Quán sứ Hà Nội, đã đến chùa Bải Dinh để cho hơn 10 000 tín đồ sùng bái, chiêm ngưỡng và 1000 nhà sư ngày đêm tụng niệm.

Nhà thờ Phát Diệm đã hoàn toàn trùng tu
Nhà thờ Phát Diệm cách Hà Nội 130 km về phía Nam và cách tỉnh lỵ Ninh Bình 28 km về phía Đông Nam. Xây dựng từ năm 1875 đến năm 1899, là một mạng lưới ao, hồ, nhà thờ và các động nhân tạo. Nhà thờ Phượng Đình, một thành phần cơ sở Phát Diệm khổng lồ hoàn toàn bằng đá. Rất nhiều chạm trỗ trên đá tường trong và tường ngoài. Tháp chuông chứa một chuông to lớn, đúc vào thập niên 1890, nặng gần 2 tấn. Năm 1891, nhà thờ Phát Diệm có 4 mái và sáu hàng cột gỗ lim cứng như sắt thép. Hai bên nhà thờ lớn là bốn nhà thờ nhỏ, diện mạo khác nhau. Ở cuối gốc Bắc là ba hang động bằng đá. Hang động đẹp nhất là hang động Đức Mẹ Lộ Đức. Nhà thờ Phát Diệm là Trung Tâm Thiên Chúa Giáo Cơ Đốc Bắc Việt. Nhà thờ không mấy thay đổi, kể từ khi nhà văn Graham Greene mô tả ; … những cột làm bằng chỉ một cây lim và công trình sơn mài đỏ ở các bàn thờ trông có vẽ là Phật Giáo hơn là Thiên Chúa Giáo, trong cuốn truyện cổ điển xuất bản năm 1955 “ Người Mỹ Thầm Lặng - The Quiet American “. Thật tế, với mái nhà uốn cong, đa tầng và 48 cột gỗ lim ( cột lớn nhất nặng 7 tấn ), Phát Diệm khác hẳn các nhà thờ lớn Âu Châu . Vài thiên thần đá khắc nổi, vươn lên trên các con rồng điêu khắc và chuông hai tấn của nhà thờ lại kèm theo một cồng ( chiêng ) đồng thau khổng lồ. Ở khu bao quanh nhà thờ đá và gỗ lim, trên những cánh đồng lúa, rải rác nhiều nhà thờ đá nhỏ hơn. Dị biệt với nhà thờ nhỏ do các người Âu xây cất, nhà thờ lớn Phát Diệm do Cha Sáu, người Việt họa kiểu từ năm 1875 đến năm 1899, như đã nói trên . Cha Sáu đã hô hào dân địa phương góp công xây cất nhà thờ lớn, năm nơi thờ phụng cạnh bên , ba động nhân tạo, một hồ nhân tạo và một tháp chuông. Năm hoàn tất khu nhà thờ cũng là năm cha Sáu qua đời. Dân chúng Thiên Chúa Cơ Đốc địa phương coi việc sống sót nhà thờ Phát Diệm là một phép lạ. Một trận ném bom năm 1972 đã làm sập hai nơi thờ phụng cạnh và làm chánh tòa nghiêng 20 độ. Tuy nhiên công cuộc trùng tu đã khởi sự ngay khi còn chiến tranh và nay dấu vết bom thả chỉ còn ở vài chạm trỗ điêu luyện trên đá thôi .

Dù có nhiều loại hình thái cho du lịch, ngành dịch vụ này ở Ninh Bình còn kém xa nhiều tỉnh khác. Hành hương tôn giáo chùa Nhất Tự, chùa Bích Động thua hẳn chùa Hương, các chùa Hà Nội, các chùa Huế như Từ Đàm, Thiên Mụ, Vĩnh Nghiêm Sài Gòn. Phát Diệm dù có hang Đức Mẹ Lộ Đức , quần thể kiến trúc Cơ Đốc giáo Pháp ( Âu ) Việt giao liên, còn thua nhà thờ lớn Đức Bà Sài Gòn, nhà thờ đức Mẹ La Vang Hải Lăng. Viếng thăm nghiên cứu công viên Cúc Phương không mấy hơn công viên Cát Tiên, Bạch Mã, Bản Đôn và cố đô Hoa Lư thua xa cố đô Huế trên phương diện trùng tu cung điện, đền đài, lăng tẩm, nhạc múa ( vũ ) cung đình. Hạ Long cạn- Ninh Bình thua xa Hạ Long biển- Quảng Ninh . Tổng số du khách năm 1999 là 406 000 hành khách, trong đó chỉ có 96 400 khách ngoại quốc. Tuy có mức gia tăng đáng kể những năm kế tiếp, nhưng vẫn kém cỏi, so với con số du khách đến Quảng Ninh là 2 600 000 người năm 2005 và 3 600 000 người năm 2007. Khó lòng chấp nhận một công nghệ dịch vụ dễ làm, có sức thu hút nhân lực cao, ở một tinh nhỏ dân quá đông đúc, mà năm 1999 chỉ tạo ra 346 lao động ở 6 cơ sở quốc doanh lớn của tỉnh, khách sạn Hoa Lư 2 sao, khách sạn Ninh Bình và Nhà Khách Ủy Ban Nhân dân tỉnh… Hinh như năm 2008, Ninh Bình đã nâng cấp hệ thống khách sạn tỉnh, nay đã đếm được 300 khách sạn ( năm 1999 chỉ có 25 khách sạn ), 3 (Bích Động , Hoa Lư , Tam Cốc ? ) đạt tiêu chuẩn 3- 5 sao.

Sở dĩ như vậy là vì Ninh Bình chưa tận dụng khai thác đủ các ưu điểm du lịch tỉnh nhà ( cảnh quan thiên nhiên, môi trường tự nhiên ); du lich khảo sát, mạo hiểm thể thao ( leo núi đá vôi vách đá cheo leo, xuống sâu các hang động thăm thẳm mới, cũ, khảo sát các động vật , thực vật hiếm Cúc Phương…) ; du lịch truyền thống dân tộc ( cố đô Hoa Lư , hành hương phật giáo, thiên chúa giao cơ đốc , Bich Động - Tam Cốc , Tam Điệp , khu Voi Quèn Cúc Phương …) , những quần cư nông thôn đắc sắc: “ làng đồi “ đẹp trên sườn núi hay thung lũng, rải theo các tuyến giao thông đường bộ ở Yên Mô, Gia Viễn, Nho Quan, “các làng ven biển” xây cất chắc chắn chống bảo tố, song song với bờ biển nhìn xuống các kênh ngang, các làng “ dệt chiếu cói “ , mái ngói hiên nhà rộng, có vẽ khang trang, trù phú, làng “nấu rượu nếp ( nay đã sạch, không còn chất độc ô nhiễm, nhờ trang bị dung cụ chưng cất Nhật ) vùng đất Kim Sơn… ; lịch sữ văn hóa, nghệ thuật cá tính Ninh Bình ( không rỏ lễ hội Thái Vù - Ninh Hải, Hoa Lư mỗi trăng khuyết hạ tuần tháng ba âm lịch, lễ hội Trường Yên, lễ hội Yên Cư, lễ hội Non Khê… có những gì sáng tạo văn hóa, văn nghệ địa phương ?); chưa có du lịch nghỉ ngơi, chửa bịnh ( dù có nhiều suối nước nóng , nước khoáng bổ dưỡng như suối nước nóng Kênh Gà, huyện Gia Viễn, nhiệt độ 53 độ C, phun mạnh, đều, lưu lượng 5m3 /giờ, suối nước khoáng Kỳ Phú, huyện Nho Quan 20 loại hóa chất hòa tan, có khả năng chửa bệnh … ) hay giải trí ( chẳng hạn tại sao rặng núi Ngọc Mỹ Nhân- Cánh Diều lại không tổ chức thi đua quốc tế, trong nước thả diều như Vũng Tàu, cho du khách nhảy - lượn dù giải trí như ở nhiều thị trấn du lịch Thái Lan, múa hát giữa thành phố hay ở trình diễn kịch định kỳ ở các cung điện xưa điệu tân, cổ nhạc như ở thành phố Avignon, miền nam nước Pháp và thiết lập những công viên đóng xi nê, kịch ti vi…. kiểu tiểu Hồ Ly Vọng Nam Ca Li, Cinecitta, Ý; công viên “ hí trường thể thao tiêu khiễn kiểu quốc tế ngày nay tựa các Disneyland, Disney World, nhưng nhỏ, ít phí tổn hơn và cộng thêm nhiều đặc sắc văn hóa Việt Nam .). Tóm lại, cần hình dung, quan niệm lại từ cơ cấu, tổ chức, đầu tư tân trang cận đại hệ thống đón mời, kể luôn cả mau lẹ hoàn tất tân trang giao thông đưòng sông ( 284 km, lượng luân chuyễn lớn hơn, tuy hàng hóa vận chuyễn chỉ phân nữa đường bộ vào năm 1999 ), đưòng bộ ( hương lộ và huyện lộ, tỉnh lộ, quốc lộ tổng cọng 2927 km, đường sắt ( Ninh Bình chỉ có 20km tuyến Bắc Nam từ cầu Non nước đến Dốc Xây - thị xã Tam Điệp với các ga Ninh Bình , Cầu Yên, Ghềnh , Đồng Giao ). Hầu mở rộng nối liền, chung sức khai thác các vùng chánh du lịch cùng các tỉnh lận cận hay xa xôi sang tận các nước bạn Lào, Miên, Miến Điên, Thái Lan... ( quốc lộ 1A, quốc lộ. 10, các tỉnh lộ 12A, 12B, 12C , 59…) . Việc khánh thành các trạm khang trang bên đường - road side stations năm 2008 (hình như với viện trợ Nhật JICA ? ) là một hướng mới đáng tiếp diễn ở những khía canh tăng cường, cập nhật khác tăng cường cho ngành dịch vu tạo nhiều công ăn việc làm này.

Quan niệm lại đê điều khai khẩn đất lấn biển và hệ thống “ chuyễn đổi “ nông nghiệp?
Theo lệnh vua Minh Mạng , Nguyễn Công Trứ đốc xuất dân chúng hoàn tất cuối năm 1829 , cách đây 180 năm, 14 620 mẩu ta ( một mẩu 3600 mét vuông ) lấn biển và lập ra huyện Kim Sơn ( hay là huyện Núi Vàng )..Một kỳ công tăng quỷ đất nông nghiệp cho tỉnh Ninh Bình, thiếu đất trồng trọt nặng nề. Quá trình 3 bước 1ấn biển: bước 1 dựa vào các cồn cát ven biển đắp đê, đào kênh “ chắn mặn “; bước 2 đào kênh tưói rữa măn kết hợp với trồng cói trong đồng và trồng rừng chống sóng triều ngoài đê; bước 3 đất ngọt đến đâu trồng lúa đến đó. Tiến trình xây dựng này kéo dài trên dưới 10 năm. Điển hình là nông trường Bình Minh, bắt đầu lấn biển năm 1958, 40 năm sau tạo thêm Bình Minh 2 và các xã mới. Tuy nhiên kỷ thuật áp dụng đã xưa cũ gần 200 năm rồi . Nay đã có kỷ thuật mới tinh xảo lấn biển, chống bảo lụt, ô nhiễm, lập cảng sông cảng biển, đô thị trấn hóa các làng huyện, hồ nước nhân tạo, cải thiện đất bùn phèn chuyễn đổi loại cây trồng như ở các châu thổ Hạ Hà Lan ( như công trình Delta Works đã hoàn tất năm 1997, hy sinh nhiều khía cạnh môi sinh hơn ) và châu thổ sông Mississipi (của quân đoàn kỷ sư công binh Corps of Engineers Hoa Kỳ, ít hy sinh môi trưòng hơn) ( theo tiến sĩ Trần Đăng Hồng ở tạp san Nông Nghiệp Hải Ngoại Việt Nam, Ca Li , 2007- 2008 ). Nay chúng ta đã có đủ xi măng, sẽ đủ sắt thép và nhiều vật liệu xây dựng khác, nhiều chuyên viên, nhân công thủy lợi, công chánh cập nhật và khá tinh tường kỷ thuật mới thế giới (đã thực hiện đườngTrường Sơn công nghiệp, tổng công ty sông Đà làm nhiều nhà máy thủy điện lớn.. ) ngân sách có thể đủ tiền tài trợ, đầu tư kích cầu cải thiện hạ tầng cơ sở, ít sợ lạm phát vào một giai đoạn kinh tế quốc tế, nước nhà suy thoái. Các hồ đập thủy điện thượng nguồn sông Hồng ở Trung Quốc và chi lưu chẳng hạn ở sông Đà như các đập Hòa Bình, Sơn La... cũng đã thay đổi dòng chảy, đất bồi tụ, từ của sông Đáy đến cửa Thần Phù; hệ thống đê điều quan niệm từ thời nhà Lý, e không còn bao nhiêu giá trị bảo vệ và giao thông, thêm đất lấn biển Ninh Bình… thế kỷ 21, cũng như toàn thể châu thổ sông Hồng ?

Việc chuyễn dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tạo thế cân đối giữa trồng trọt, chăn nuôi ( tính luôn cả ngư nghiệp ) và dịch vụ nông nghiệp, tuy được quan niệm từ hơn 10 năm nay, vẫn chậm rì so vói mức tiến triễn ở miền Nam và Tây Nguyên. Năng xuất lúa còn chưa đến 6- 7 tấn/ mỗi vụ/ ha, dù rằng nay đã có các giống lai cao năng tiềm năng 12- 13 tấn/mỗi vụ / ha; phân đạm hóa hoc urê - muối diêm lạnh cho lúa đã sản xuất khá dồi dào trong nước, bón ruộng thay thả bèo hoa dâu - azolla loại bèo chứa vi khuẩn có khả năng tổng hợp đạm, nhưng tổng hợp này không đủ sức cung ứng đầy đủ đạm cho lúa cao năng, siêu năng ngày nay, mà lại có cơ choáng mất đất, mất vụ. Ninh Bình cũng như miền Bắc có lạnh thích hợp cho các loài lúa Japonica cao năng, hột tròn hột dẻo và sửa soạn thị trường xuất khẩu nay mai sang Nhật, Đại Hàn, Bắc Trung Quốc… lại ít được khảo cứu.phổ biến hơn cả ở An Giang không có lạnh, đồng bằng sông Cửu Long . Năng xuất ngô ( bắp ) lai còn tệ hại hơn nữa trong khi trên thế giới tân tiến, ngay cả ở một vài vùng Tây Phi Châu, các giống ngô - bắp lai lại có năng xuất trung bình cao hơn cả lúa lai nữa. Nhóm cây công nghiệp hàng năm ( đậu phụng - lạc chưa có phát triễn các giống mới nhóm Virginia hột to , bổ sung nhóm Spanish nước nhà, mía, cói thật ra là lác chiếu- lác gon tên khoa học là Cyperus tegetiformis Roxb. , tên Anh là chinese mat grass, tuy đã tuyễn chọn được giống cói bông trắng Nhật năng xuất gần gấp đôi, phẩm giá tốt hơn các giống Kim Sơn, Thanh Hóa , Trung Quốc , Đại Hàn du nhập, đay , mè- vừng chưa cái thiện như các giống mè tân tuyễn Thái Lan, đậu tương - đậu nành, thuốc lá ) cũng không mấy cải thiện năng xuất từ nhiều năm nay, dù trên thế giới cũng đã có nhiều kỷ thuật mới cải thiện năng xuât., phẩm giá .

Mở mang thêm quỷ đất nông nghiệp, ngoài việc khai khẩn đất lấn biễn, nên tận dụng đất đai thích hợp cho cây ăn quả ( ăn trái ) và cây công nghiệp lâu năm , đặc biệt xét lại việc trồng và chế biến chè- trà, khi mà sản phẩm trà khô tỉnh nhà không có thị trường xuất khẩu. Cần tái xét đất lâm nghiệp hiện chiếm đến gần 20 % diện tích đất tự nhiên. Chương trình trồng lại rừng 5000 ha , tăng bao phủ rừng thêm, từ sác xuất 9 % đến 31 % , nên dùng cây vừa ăn trái vừa làm gỗ tốt , thay thế cây rừng chỉ công dụng làm gỗ; dưới tàn cây trồng, phát triễn chăn nuôi hay trồng cây lương thực hàng năm, chờ đợi thu hoạch cây lâu năm. Con số 4000 ha cây ăn quả năm 2000- 2001 của tỉnh Ninh Bình có thể tăng lên gấp 3 gấp 4, nếu triễn khai đại trà hơn thể thức nông truờng, lâm trường, nhiều loại cây ăn trái bán ôn đới, bán nhiệt đới,theo thế nông lâm mục đa năng , đa tầng. Vùng Cúc Phương đã nhận diện nhiều loài hồ đào như Mày Châu Carya tonkinensis , Mày Thanh Hóa Carya anamocarya, Mày Trung Quốc Carya sinensis hột ngon, tương tự các giống Carya pecan hay illinoensis Mỹ - pecan nut, sao chưa thấy khuếch trương ở các sườn đồi, vườn tượt “làng đồi Ninh Bình “ những giống pecan lai - hybrids gỗ tốt ở các tiểu bang Hoa Kỳ? Cũng không thấy nói ở vùng đồi ráo nước không úng thủy, đất vôi, trồng ngay cả dẽ bi- macadamia nut hay Úc châu kiên quả, mới đây đã thành công ở Ban Mê Thuột , Lâm Đồng, ngoài Lạng Sơn…; các giống hồ đào óc chó- walnut Ba Tư , Anh Quốc , Pháp .. các giống dẽ, sồi dẽ - chestnut ; các giống cây bơ -avovado ( cần tránh nơi đồng băng ven biển hay bảo tố vì cành bơ dễ gãy ); các cây sung ngot- ficus carica loại không cần ong đặc biệt thụ phấn, các cây kiwi dương đào ( ruột xanh , ruột vàng ) cần đôi chút lạnh; các cây hạnh nhân loại ngọt Ca Li cần đôi chút khô hạn, nơi vùng Ninh Bình gió Lào khô thổi qua. Quanh đồi núi ngoài chùa Bích Động sao không thấy bóng dáng những vườn trái mơ ( mai ) -apricots cải thiện làm ô mai mơ hay ăn trái tươi, làm mứt… như rừng mơ nhiều loại quanh chùa Hương.

Trong 3 món khoái khẩu dân Ninh Bình là Rượu Kim Sơn, Thịt dê và Cơm cháy , sao trong thế nông lâm mục vừa kể, không thấy đề cao nuôi dê giữa các hàng cây; có lẽ nên thêm các giống dê sửa nhiều thịt nhiều sửa trên thế giới hơn là giống dê Bách Thảo ? Hay nuôi “ bò mini “ Hoa Kỳ, nhất là nuôi trâu sửa Murrah, lấy sửa làm phó mát buffalo mozzarella ngon, làm sửa tươi, sửa chua yogourt, cà rem, bánh ga tô phó mát - cheese cake, dân Á Đông ưa chuộng … như ở gần thủ đô Roma , thành phố Napoli tỉnh Campania nước Ý ( tuy cần xét lại cơ cấu tại sao chăn nuôi trâu sửa ở Mộc Châu không mấy phát đạt ). Có lẽ bên cạnh thịt dê khoái khẩu nên nghỉ cách làm những món thịt thỏ hầm- civet de lapin trộn môn, khoai, hô đào, dẻ, nấm, đặc sản tỉnh nhà, vì nay ngành nuôi thỏ đã khởi xướng, đặc biệt ở Nho Quan, nhờ mới tìm được thị trường xuất khâu cả triệu con sang Nhật (? )

Lạ lùng thay, Ninh Bình có nhiều hang động ẩm thấp , lạnh lẽo lại không nghe nói tới nuôi trồng đại trà các loại nấm như nấm mỡ Agaricus sp., nấm rốn to bự Portobello, nấm kim châm, nấm đinh enoki, nấm đông cô , nấm hương, nấm cỏ dày , nấm da báo, nấm ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng ), ngoài nấm rơm, nấm mộc nhĩ ( tai mèo ) , bào ngư … nhiều nấm dược liệu là các nấm linh chi Ganoderma sp. Chuyễn đổi ngành rau đậu, hoa kiểng, ngoài việc phụ thêm các loài nhiệt đới nội địa ( như rau đay , rau sắng, rau muống, rau dền… ) phải bổ sung mạnh bằng các loài giống bán ôn đới mới mẽ nguồn gốc Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bổn và cả Bắc Ấn Độ nữa . Nếu cần thiết trồng rau hoa trong các vòm, nhà kiếng nhựa dẻo điều hòa không khí thích nghi, nuôi trồng theo kỷ thuật thủy sinh - hydroponics . Ơ các đất thấp không trồng cói nữa, hay đất trũng đầm lầy còn mặn, ngoài việc tăng cường nuôi tôm nuôi cá, các loại ngư sản khác, có lẽ cũng nên nghĩ đến các loài rong - tảo - algae mới cao năng , không chỉ để làm thực phẩm nuôi súc vật, nuôi cá, trích dâu diesel, mà còn để ăn tươi, ăn sấy khô đã thông dụng ở Nhật , Hàn Quốc … Nếu đưa được khí thải chứa CO2 , khí hâm nóng địa cầu các nhà máy chạy than đá Ninh Bình qua các hồ, ao, ruộng nuôi tảo thích nhiều thán khí này ( thay vi đưa các khí qua các mạch mỏ ngầm ) có cơ giải quyết khía cạnh ô nhiẻm các nhà máy chạy than đá dơ bẩn; dù rằng trồng thêm cây cổ thụ bóng mát đường phố, công viên thị trấn hay gây tao rừng cũng đã góp phần làm sạch vụ ô nhiễm, hâm nóng địa cầu này rồi.

Chuyễn đổi cơ cấu . loại công nghệ
Ngành công nghệ Ninh Bình cần thoát ly quản trị quốc doanh, cả đía phương lẫn trung ương, chuyễn đổi mau đến các công nghệ khai thác tri thức mủi nhọn, công nghệ liên hệ quốc phòng và tương lai hướng về biến chế dầu khí vinh Bắc Bộ nữa .

Năm 1996, công nghiệp Ninh Bình chỉ chiếm 8, 83 % lao động, đóng góp 23.63% tổng sản xuất và 17.1 GDP ( so với năm 1994 ) của tỉnh, dừ trù tăng 14- 16 % GDP trong thời gian 2001- 2010 , 33- 34 % năm 2010 . Công nghiệp Ninh Bình thuộc loại nhỏ, so với cả nước ( ngoài nhà máy xi măng Tam Điệp công xuất 1, 4 triệu tấn thiết lập năm 1999 và nhà máy nhiệtđiện chạy than đá tỉnh lỵ Ninh Bình ) hay với các tỉnh thành phố của đồng bằng sông Hồng, tập hợp thành 3 nhóm : công nghiệp chế biến , công nghiệp điện nước và công nghiệp khai thác. Toàn bộ những ngành quan trọng đều do Trung Ương quản trị, như điện, hóa chất phân bón ( phân nung chảy ) sản xuất sản phẩm phi kim loại, khai thác đá. Các ngành chế biến kim loại, sản xuất máy móc thiết bị , khai thác than qua lữa, xuất bản , in … do quốc doanh địa phương quản lý, chiếm 19,8 % công nghiệp toàn tỉnh. Công nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm giữ vai trò đáng kể trong hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở cấp huyện, tuy mảng công nghiệp nhỏ nhưng lại rất linh hoạt,tạo ra nhiều sản phẩm và thu hút nhiều lao động trẻ. Chẳng hạn ngành tiểu thủ công nghệ ở Yên Khánh đã đẩy mạnh chế biến cói, thêu ren , chế tác đá mỹ nghệ… Phải khích lệ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khai thác các khoáng sản như than nâu , than mỡ, than bùn ở Đồng Giao , Thạch Bích , Sơn Hà ( Nho Quan ), đá vôi có cường độ chịu lữa và tinh nguyên khối cao làm đá ốp lát trang trí các xây dưng; đôlômít phong hóa làm gạch không nung cưòng độ chịu nén cao ở Hoa Lư và Tam Điệp, bột màu xây dựng ở Văn Phú ( Nho Quan ) , khai thác các nưóc nóng hay nước khoáng tốt chữa bệnh hay làm nước đóng chai uống giải khát, các lò gạch ngói ở những nơi có nguồn đất sét làm gạch ngói tốt ở Sơn Hà, Xích Thổ ( Nho Quan ) Đồng Giao, Ghềnh (Tam Điệp), khai thác cát vàng, cát đen ở các bải bồi và lòng sông dùng cho xây dựng, cát trắng với hàm lượng ôxyt silic cao thích hợp sản xuất thủy tinh, gạch ngói silicat ….Cân thêm nhiều cố gắng đẩy mạnh đầu tư tư nhân, tư bản ngoại quốc vào hai khu công nghệ Tam Điệp ( 62 .2 ha ) ở thị xã Tam Điệp và nhất là khu công nghệ Ninh Phúc ở huyện Yên Khánh diện tích đến 350 ha.

Tương lai công nghiệp Ninh Bình phải duyệt xét các ngành sản xuất cơ khí ( từ lâu máy bơm đã không xuất khẩu được ?), điện tử và hóa chất bổ sung bằng những công nghiệp phục vụ quốc phòng diện địa đã có truyền thống lịch sử ( và vì Ninh Binh không có nhiều bờ biển làm quốc phòng bảo vệ Biển Đông ), những công nghiệp phục vu trang trí thiết bị nhà cửa theo đà đô thị hóa và tiện nghi hóa gia cư khang trang, đúng vệ sinh, ít phá hại môi sinh hơn, cũng như tiết kiệm năng lượng, công nghệ dược phẩm cả âu dược tân tiến ( sản xuất thuốc chủng, thuốc tương thích chung -generic ) lẫn Nam - Bắc Đông Y, công nghiệp viễn thông, truyền thông, bưu điện máy computer , phần mềm phần cứng , robot , nanô … Giải quyết mau lẹ tranh chấp vấn đề khai thác 7 bồn trũng khí dầu Vịnh Bắc Bô đã khám phá, hay cố tìm cho được giếng khí dầu gần lảnh thổ, lảnh hải Ninh Bình - Thái Bình hơn, hầu hình dung một cụm công nghệ điện khí đạm như đã làm ở Phú Mỹ - Bà Rịa , Cà Mau hay chung sức nới rộng cụm phức tạp lọc dầu, chế biến sản phẩm lọc dầu Nghi Sơn, Thanh Hóa kế cận ?

( Irvine ,Ca Li ngày 16 tháng 6 năm 2009 )



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét