Hai cây hạch quả - nut , chưa phát triễn đúng mức ở Việt Nam
1- Cây hạnh nhân vùng cao Việt Nam, có thể nào bắt chước hột điều vùng thấp không ?
Trừ hột điều vùng thấp , các hạch quả khác chưa phát triễn thích nghi , phong phú thêm cây trái khô, xuất khẩu nước nhà .
Năm 2003 , sau khi tái bản lần thứ 3 sách phổ thông nói về cây ăn trái có triễn vọng xuất khẩu ở Việt Nam , đặc biệt cho vùng thấp , đồng bằng, chúng tôi được yêu cầu viết hộ về triễn vọng cây ăn trái xuất khẩu cho vùng cao Việt Nam. Khi đó ngành trồng các hạch quả- nuts , noix hột điều hay đào lộn hột – Cashew nut hay noix de Cajou, đã bắt đầu tranh hạng nhất xuất khẩu thế giới, đang vựợt Brasil, trồng trên 500 000 ha - mẩu tây, dọc bờ biển vùng thấp từ miền Nam ra đến Quảng Bình, trên đất cát nghèo nàn vùng Đông Nam Bộ ( Nam Phần ) . Theo Hiệp hội hột điều Việt Nam Vinaca , 6 tháng đầu năm 2007 , đã xuất khẩu 62 000 tấn nhân hột điều, trị giá 225 triệu đô la Mỹ .
Một số có thể là hột điều còn trong vỏ cứng, nhập khẩu từ các nước Đông Phi Châu , trước đây là những nước sản xuất chánh hột điều thế giới , như Mozambique , Tanzania ; chúng tôi đã thăm viếng vào thập 1980-90, khi còn làm cho FAO – Luơng Nông quốc tế . Năm 2007, ViệtNam đã chiếm hàng thứ nhất xuất khẩu hột điều , vươt lên trên Ắn Độ, sau khi vượt Brasil, xuất khẩu 153 000 tấn, tăng 20.4 % so với năm 2006 , và trị giá xuất khẩu là 650 triệu đôla Mỹ . Nhân hột điều Việt Nam bán cho 40 quốc gia , 40 % cho Hoa Kỳ, 20% cho Trung Quốc , rồi đến Nga , Nhật Bổn , các nước Trung Đông . Chương trình phát triễn hột điều Việt Nam dự trù đến năm 2010 – 2020, trồng hay tháp các giống cao năng, để đạt năng xuất 500000 tấn hột điều ( hiện nay chỉ mới khỏang 500 kgrs / ha, trong khi trung bình giống cao năng hiện tại , có nơi lên đến 3000- 4000 kgrs / ha ) , đặc biệt ở Tây Nguyên và Miền Đông Nam Bộ , cố đạt 700 000 tấn năm 2010 và 820 000 tấn năm 2020 . Đồng thời cũng canh tân thiết lâp nhà máy đốt hột cứng, trích nhân, kích thước lớn hơn .
Một số có thể là hột điều còn trong vỏ cứng, nhập khẩu từ các nước Đông Phi Châu , trước đây là những nước sản xuất chánh hột điều thế giới , như Mozambique , Tanzania ; chúng tôi đã thăm viếng vào thập 1980-90, khi còn làm cho FAO – Luơng Nông quốc tế . Năm 2007, Việt
Phát triễn ngành hột điều không thua kém bao nhiêu phát triễn cà phê vối Robusta ( C. canephora ) ở Tây Nguyên . Một kết quả phi thường của nông nghiệp Viêt Nam, từ cây nguồn gốc Phi Châu ( canephora ) du nhập trồng thử ở Đắc Lắc và Pleiku thời Pháp thuộc, dành riêng cho các công ty “đồn điền “ . Mãi đến gần đầu thập niên 1970, mới giải tỏa cho tư nhân, tiểu tư sản Việt Nam , đã áp dụng thêm phương pháp tưới nước bằng mưa phùn – sprinklers, bảo đảm cho cà phê vối ra hoa vào đầu mùa nắng, khi không mưa đủ . Và một cây từ Nam Mỹ Châu ( hột điều, hay có khi gọi là đào lôn hột ), cũng trồng thử nhiều giống ở Trung Tâm đào lộn hột vùng núi Bà Rá – Phước Long ( nay thuộc tỉnh Bình Phước) và rải rác khỏang 100 ha tổng cọng , phần lớn ở tỉnh Tây Nịnh .
Nhưng hai cây hạch quả vùng thấp khác là : cây hột bàng ( Terminalia catappa ), còn có tên là hạnh nhân xứ nóng - tropical almond , tuyễn chọn nhiều ở Ấn Độ, chịu hơi gió biển mặn cao , vài giống chịu phong ba bảo táp giỏi như vài cây ở Trường Sa , chỉ được khuếch trương làm cây bóng mát thành phố, thị trấn như ở Bà Ria – Vũng Tàu và đôi khi ở Nha Trang, Hà Nội ( ? ) …. Cây vùng thấp thứ hai là hạch quả Brasil – Brasilian nut , nguồn gốc vùng Amazonia Nam Mỹ, chịu đựng mưa nhiều , cho các vùng Trường Sơn Huế- Quảng Nam mưa nhiều , chẳng hạn vùng A Sao ( Châu ), A Lưới , Giàng , Thành Mỹ …. Nhưng cũng chưa thấy thử nghiệm ở nước nhà .
Ngoài vài lòai hạch quả nguồn gốc Việt Nam, nhưng Việt Nam chưa có giống cải thiện Âu Mỹ đã và đang tuyễn chọn, như hột dẽ - chestnuts , hồ đào óc chó – walnut , mày , mày châu – pecan ( Carya sp. ) v.v… chúng tôi đã lựa chọn khuyến cáo hai lòai là dẽ bi - quả cứng Úc châu ( Úc Châu kiên quả- macadamia nut,) đã được tiến sĩ kinh tế nông nghiệp ( ? ) Nguyễn Lân Dũng thông báo là moc khá tốt ở Lạng Sơn, Cao Bằng ( ? ), nên khuếch trương ở những vùng tương đối không cao lắm, cao độ không quá 500- 700 m ở Tây Nguyên và 300- 500m ở Tây Bắc , Đông Bắc . Thử nghiệm các giống dẽ bi cao năng , phẩm gía tốt, tuyễn chọn ở Hawaii , Tân Tây Lan và nhất là Úc châu ..Chưa thấy nhúc nhích , Chưa thấy thử nghiệm, ngay cả ở trung tâm tuyển lựa cây trái vùng cao Sơn La- Lai Châu ( ? ), Điện Biên hay ở Trung tâm Ca cao và Cao su ở Ea Kmat , gần Ban Mê Thuột.. Cây thứ hai cho vùng cao , còn cao hơn yêu cầu của dẽ bi , nhưng cần khí hậu tương đối khô hạn hơn là cây hạnh nhân – almond, amande , tên khoa học là Prunus dulcis( Miller) AD Web hay tên cũ là P . amygdalis.
Hạnh nhân có thể nguồn gốc Tàu xa xưa, nhưng nay 90 % sản xuất là ở Bắc Ca Li , Hoa Kỳ .
Hạnh nhân có thể nguồn gốc Bắc Trung Quốc , theo Con đường buôn Tơ lụa - Silk Road xa xưa, đã tràn qua các nước Trung Á- Hồi Quốc , Syria , Thổ nhĩ Kỳ, A phú Hãn . Theo các nhà viên học , cây hạnh nhân hoang dại đã được thuần hóa 3000 năm nay rồi. Hạnh nhân hoang dại, theo tài liệu khảo , phát xuất cũng đã gần 8000 năm trước Công Nguyên. Các nhà Truyền gíáo Tây Ban Nha du nhập hạnh nhân vào Ca Li, khỏang năm 1700 và tuyễn chọn lai tuyễn hạnh nhân vào thế kỷ !800 , tại quân truyền giáo Santa Barbara , phía bắc thủ phủ Los Angeles . Nhưng nay vùng trồng nhiều hạnh nhân nhất là vùng Thung lũng San Joaquin và quanh Sacramento , thủ phủ bang Ca Li. Năm 1960 , Ca Li mới thật sự khuếch trương ngành trồng hạnh nhân. Nhờ cải thiện phương pháp trồng tĩa , tuyễn chọn giống cao năng , thu họach cơ giới…. năm 2002 , Ca Li đã trồng được 530 000 mẩu Anh – acre ( khỏang 230 000 ha ) hạnh nhân lấy hột , sản xuất 481 000 tấn nhân hột hạnh nhân , trí giá năm đó trên 1.1 tỉ đô la , dù giá nhân chỉ là 1.001 đô la một cân Anh . Theo tài liệu Lưong nông quốc tế , trên thế giới có 44 nước trồng hạnh nhân , năm 2002 sản xuất 1 837 566 tấn nhân , khỏang 4 tỉ cân Anh trên diện tích chừng 4. 4 triệu mẩu Anh – acres , Năng xuất trung bình chỉ là 930 cân Anh / acrẹ , Nhưng năng xuất giống cao năng có thể là 3500 – 4500 cân Anh / acre . Năng xuất vùng Thung lũng Trung tâm Ca Li hiện là 1000 – 2000 cân Anh / acre . Sản xuất nhân hột hạnh nhân Ca li tiếp tục những năm gần đây , cũng khỏang trên 1 tỉ cân Anh một năm , hầu như bao trọn sản xuất hạt nhân tòan cõi Hoa Kỳ và chiếm 80 % mức sản xuất thế giới . Sau Hoa Kỳ đứng hạng nhất là Tây Ban Nha , thứ đến là Syria, tiếp theo là Ý , Iran , Morocco , Hy Lạp , Thổ nhĩ Kỳ , Lybia và thứ 10 là Hồi Quốc. Không phải sản xuất nhiều nhất ở Trung Quốc, như chúng ta lầm tưởng , vì trước đây chúng ta hay ăn gà xào hạnh nhân, ăn tráng miệng bằng bánh hạnh chân có đệm một nữa nhân hạnh nhân ở giữa và ăn chè thạch hạnh nhân ( đắng, màu xanh) ở các tiệm Tàu Chợ Lớn .
Giá trị dinh dưỡng của nhân hột hạnh nhân
Mọi nhân hạch quả : hạnh nhân , hột điều , dẽ bi , hach quả hazel ( pha cà phê cho thơm ) đều giàu các chất béo không bảo hòa đơn – monounsaturated , không bảo hòa đa – polyunsaturated fats và kháng ôxy hóa – anti oxydants. Hồ đào ốc chó là một nguồn gốc ăn chay giàu nhất về các lọai acid béo omega- 3, có sức chống lại phì nộn , tiểu đường và bệnh tim . Còn hach quả Brasil thì lại rất nhiều chất kháng oxyhóa selenium , cần thiết cho tinh trùng mạnh khỏe , theo bác sĩ chuyên viên sinh sản Marc Goldstein, viện đại học Cornell . Nhân hột hướng dương – sunflower seed và dẽ nhân xanh – pistachios lại chứa nhiều phytosterols nhất , trong số 27 hạch quả và hột ở Hoa Kỳ , dùng làm buổi ăn qua loa – snack foods. Phytosterol là lọai hóa chất thực vật có thể giúp bạn giảm mức cholesterol tai hại trong máu . Hột mè và mầm lúa mì còn chứa nhiều phytosterol hơn nữa , nhưng ít dùng làm bửa ăn qua loa- snack ở Hoa Kỳ . Hồ đào óc chó – walnut nhiều các chất kháng oxy hóa , đứng hạng bét về phytosterol . Tuy nhiên bạn không nên lọai hồ đào và đổ đầy chén mầm lúa mì ở buổi ăn này . Vì mọi hạch quả còn chứa nhiều thành phần dinh dưỡng khác, tốt cho sức khỏe bạn . Ngòai chất béo không bảo hòa đơn , nhân hạnh nhân còn chứa nhiều protein , calcium và kẻm – zinc , nhiều sinh tố E , nhưng không có sinh tố A .Dân Ấn Độ xem nhân hạnh nhân tốt để khích lệ bộ nảo họat động. Dân Trung Quốc xem hạch quả hạnh nhân tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ .
Hạnh nhân làm hoa cảnh , nhân hạnh nhân ngọt và nhân đắng.
Trước khi học hỏi để hiểu biết thêm lúc đã nghĩ hưu FAO, về cây hạnh nhân , chúng tôi cứ tưởng cây hạnh trong bài thơ cỗ nhân :
… Ở đây hạnh thắm nên mai nhạt,
Về đấy sen tàn lỗi cỏ hương…
( Chiêu Quân cống Hồ )
là cây tắc miền Nam , cây kim quất miền Bắc . Đâu ngờ là hạnh đây đúng hơn , lại là cây hạnh nhân, vì dân Trung Hoa xem hoa hạnh nhân đẹp như mọi phu nữ diễm kiều . Thật thế , có nhiều giống hạnh nhân chỉ trồng làm hoa cảnh- flowering almonds : P glandulosa , P. triloba … như hoa đào , hoa hạnh đào Nhật, hoa mai hay mơ- apricot flower nước ta vậy đó . (… Xuân đến, hoa mơ hoa mận nở ..) . Không thế, thì sao Mã Phu nhân Phó Bang trưởng Cái Bang , núp trong vườn hạnh đại hội Cái Bang , nhan sắc quá mặn mà , ai qua cũng phải liếc nhìn trộm nàng . Chỉ trừ bang chủ Kiều Phong không thèm để ý tới . Nên Mã phu nhân cho là kiêu ngạo , nghĩ kế gian hiểm vu oan hảm hại tan nát thanh danh bang chủ Kiều Phong …ở truyện Thiên Long Bát Bộ - Lục Mach Thần Kiếm , Kim Dung, thời thập niên 1960 – 70 . Cũng như mãi đến khi nghiên cứu nhóm cây loài hạch quả pecan Carya sp.. mới biết là cây (hoa ) mày ( mày Thanh Hóa , mày châu Bắc Việt…. ) là cổ thụ to lớn , cung nữ về già núp bóng, không cho quân vương thấy mặt mình nhăn nheo, theo thơ Đòan Phú Tứ , thập niên 1930 -40 , cây to rậm rạp đầy hoa , chứ không phải “mày hoa “ riêng chỉ tả lông mày, mặt hoa phụ nữ :
… Trăm năm tình cũ lìa không hận ,
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng …
( Màu thời gian )
Hạnh nhân ngọt có lẽ phát sinh ở Tây Nam Trung Á , A Phú Hãn Hạnh nhân hoa hường ( hồng ) – pink, thường là giống nhân đắng. Cây hoa trắng thường là giống hạnh nhân ngọt. Ở trên thế giới ngày nay ,có chừng một tá giống hạnh nhân ngọt cao năng Riêng bang Ca Li đã tuyễn chọn 10 giống hạnh nhân ngọt đầu hạng cao năng : Non Pareil , Carmel , Merced , Mission ( Texas ), Price Cluster , Ne plus Ultra, Peerless , Thompson , Butte , Monterey .
Tìm lý do tại sao chưa phát triễn nổi cây hạnh nhân ở nước nhà ?
Thứ nhất có lẽ là chưa thí nghiệm đúng sinh thái yêu cầu khí hậu, đất đai hạnh nhân chăng ? Về đất đai thì hạnh nhân không đòi hỏi gì nhiều đất tốt xấu , chỉ cần không úng thủy cho cây khỏi bị bệnh thối gốc . Đất sâu dược trên 60 cm thì cây mọc tốt rồi. Yêu cầu lạnh của hạnh nhân cũng như yêu cầu các lòai đào lông , đào tiên -peach , mận tây – plum , có khi cũng ít như vài giống mơ – apricot vậy . Nhưng hạnh nhân cần khí hậu khô cằn hơn đào lông, vì vậy những vùng gió Lào thổi vùng cao Tây Bắc hay Thanh Hóa- Nghệ An … có lẽ thích hợp hơn là các vùng Đông Bắc , hay Trung Du mưa nhiều hơn . Mùa nắng, nhưng khí trời ẩm uớt hay mùa hè quá lạnh, thì trái không đậu tốt đẹp , không phát triễn đầy đủ, nhưng trường hợp này ít xảy ra ở nước ta . Hạnh nhân muốn ra nhiều trái , cần có ong hút mật làm thụ phấn chéo .Khí hậu ẩm uớt đầu mùa Xuân, khi hết miên trạng – dormancy ( hạnh nhân thuộc họ hoa hồng Rosaceae, rụng lá vào mùa Đông lạnh lẽo ) khi hoa nở ,ở Bắc Ca Li vào khỏang tháng hai dương lịch ,thường khiến cho ong ít rời tổ hơn , bay đi hút mật thụ phấn hoa hạnh nhân .
Hạnh nhân là cây thụ phấn chéo. Phải trồng ít nhất là hai giống trồng vườn hạnh nhân , hoa mới thụ phấn chéo, đậu trái . Thiếu chổ thì trồng hai, ba giống vào một lỗ. Giống Non Pareil chẳng hạn là giống tốt nhất Ca Li , dễ lột vỏ cần có Neplus Ultra , Kapareil hay giống Jordanolo trồng chung để thụ phấn . Giống Carmel , trái nhỏ , nhưng mùi vị thơm ngon cũng hay được trồng chung để thụ phấn Non Pareil và Mission ( Texas ). Giống Mission ( Texas ) là trái nhỏ ., hột không cứng lắm , sản xuất đều đặn và cao năng .Cần trồng chung với Non Pareil và Hall là hai giống làm thụ phấn Mission .
Nhiều khi thụ phấn chéo cũng khó khặn, cần ong mật làm thụ phấn .Như đã nói trên các nhà vườn Ca Li đều thuê các tổ ong mật , hầu làm tăng thụ phấn , tăng năng xuất . Năm nay các nhà vườn hạnh nhân than phiền là giá thuê tổ ong mật lên qúa cao .
Nhân giống hạnh nhân bằng tháp cành giống cao năng trên các gốc hạnh nhân kháng bệnh ở những quốc gia khác ngòai Hoa Kỳ. Hoa Kỳ tháp cành giống cao năng trên trên các giống đào lông- peach, vì hạnh nhân cùng họ hoa hồng Rosaceae và di truyền gần gủi nhất với đào lông . Trong việc tuyễn chọn các giống hạnh nhân cao năng, đã lai hạnh nhân trước đây với nhiều giống đào lông . Các giống đào lông dùng làm cây gốc tháp là Lowell, Halford, Nemaguard , Nemared … Chúng ta có lẽ cũng nên thử tháp hạnh nhân trên gốc đào Mèo , đào Mẩu Sơn – Lạng Sơn, đào tiên mũi nhọn , đào vàng thịt vàng hột rời Sapa,đào lông Tuyên Quang … xem sao . Không rỏ giống hạnh nhân Thái Lan trồng thí nghiệm ở vùng Đông Bắc Khon Khaen ,bên kia bờ sông Mêkong, tháp gốc nào , hạnh nhân hay đào lông ? Kể ra thì cũng nên thử nghiệm các giống hạnh nhân Úc Châu đã thí nghiệm ở Úc từ năm 1995.
Thu họach hạnh nhân ở Ca Li ngày nay là rung mạnh cây bằng máy rụng - shakers cho trái chín rơi xuống đất . Cây còn nhỏ 3- 4 tuổi , phải rung cành bằng tay , vì máy rung làm hư hại cây còn nhỏ .Sau độ 1- 2 tuần lễ để trái ở đất cho trái khô , rồi cào máy thành đống , chất lên xe vận tải đem về nhà máy sấy không khí nóng cho khô thêm, ẩm độ trái khô chỉ còn 5-7 % ; xông khí hơi – fumigation diệt sâu vàng trái cam rốn Navel ; đem đánh rời- dehulled vỏ trái lấy nhân ; tẩy sạch - bleach , pha muối mặn , nướng , hay thêm mùi vị nếu cần ,và vô bao bì Ca Li bán 99 % theo dạng nhân đã bóc vỏ- shelled , chỉ bán độ 1% theo dạng còn vỏ - in shell . Mới đây các phiên chợ trời nông dân đã thấy bán hột hạnh nhân non , tươi , vì hình như ăn tuơi, nhân non xanh, trị được tiểu đường, trị mất ngũ phần nào .Lưu ý là khi chín, trái nứt ra và rời cây . Thu họach bằng máy , khi thấy trái bên trong tàng cây mở ra , vì trái vùng cây này mở ra sau nhất. Còn vỏ ( vỏ lụa – seed coat) nhân sẽ trổ màu nâu, theo tiến trình chín trái, Nước ta nhân công rẽ , thừa thải sau ngày mùa , khỏi cần thu họach cơ giới. Chỉ cần lượm trái rụng hay hái trái chín khi trái nứt.
Cây hạnh nhân tháp sau 3- 4 năm là đã ra trái. Năng xuất cao nhất khi cây được 6- 7 tuổi và thu hoạch đến hơn 50 năm . Cây đào lông mau già cỗi hơn và trái không giữ lâu được như hột, trái hạnh nhân . Hạnh nhân còn vỏ , tồn trữ đươc nhiều tháng , nếu khí trời khô hạn . Nếu đông lạnh ở nhiệt độ 5 độ C ( 40 F ), thì giữ được nhiều năm , không hư hại gì .
Hạnh nhân chỉ cao chừng 3- 5m , lá dài 3- 4 lần bề ngang và phiến lá răng cưa ở bìa . Hoa hạnh nhân không khác gì hoa đào lông, đào tiên, nhưng thơm ngát hơn nhiều . Hoa đâm ra ở chồi cành ngang ngắn hay chồi ngang trên cành lớn . Năm đầu tiên , cây tháp được huấn luyện cho có tàng lá mở rộng bên trong , dễ thu họach bằng máy hơn . Tĩa cành – thinning không cần thiết . Mõi năm chỉ cần xén bỏ cành khô , cành chết v.v…Mùa nắng nên tuới một hai lần , cho nước thấm sâu vào đất vườn hạnh nhân ….
2- Xin đừng quên hạch quả hột mít , hột cây ba la mật thời cha ông đã khắc ở Cao Đỉnh , đỉnh đầu tiên chín Đỉnh Đồng, đại nội Huế
Mít có thể có luôn nguồn gốc Việt Nam
Đây là một cây nhiệt đới ( và bán nhiêt đới ) nguồn gốc Á Đông , sách vở Âu Mỹ ghi là Ấn Độ ( nay còn phải ghi thêm là Bangladesh, đã tách rời Ấn Độ và Hồi Quốc thành một nước độc lập ) và đôi khi ghi thêm Mã lai Á . Một cây Á Châu truyền sang Mexicô và Trung Nam Mỹ , trong khi rất nhiều cây kỷ nghệ ( cao su ) hay ăn trái khô , trái tươi phần lớn nguồn gốc Trung ,Nam Mỹ ( mảng cầu ta , tây , Xiêm ) , cây bơ ( avocado , avocatier ), hồng xiêm- sa pô chê , ma mây , hột điều ( đào lộn hột ) …. Vì tài liệu trước đây viết tiếng Pháp, ít phổ biến quốc tế hơn , vì chiến tranh nên cây mít không thấy ghi ở các tài liệu tiếng Anh là có trồng ở Vrệt Nam mà chỉ nhấn mạnh đến Thái Lan , Mã lai Á , Inđônexia. Thật sự ở Phủ Biên Tạp Lục , nhà văn hào bác học Lê Qúy Đôn đã ghi rỏ là cây mít trồng nhiều ở Việt Nam rồi . Sau đó cây mít đã được ghi khắc ở Cao Đỉnh , Đỉnh thế hệ vua đầu tiên của trào Nguyễn Phước, trong số 9 Đỉnh ở đại nội Kinh Thành Huế . Trái mít tên Hán Việt là Ba la Mật . Và ca dao đã đố trái mít, ca tụng là :
Da cóc mà mọc trứng gà
Bổ ra thơm phức , cả nhà muốn ăn .
15 tông chi Artocarpus ,tông Mít ở Việt Nam
Sách Cây cỏ V. N . của G S Phạm Hoàng Hộ, ghi nước nhà tìm thấy 15 lòai của tông chi Artocarpus, từ Bắc chí Nam, thuộc họ thực vật dâu tằm Moraceae . Gồm 12 lòai hoang dại và 3 lòai trồng cho trái ăn. Cây mít hoang dại cao lớn nhất là mít rừng , cao đến 50m , tên khoa học là Artocarpus chaplasha Roxb., mọc ở Côn Sơn. Mít low là lòai mít có thân to hơn 1,3m , cao đến 30m ,tên khoa học là Artocarpus lowii , mọc ở tỉnh Kontum . Mít nài ( Da xóp ) tên khoa học là Artocarpus rigida, subsp. asperulus Jarr, mọc ở núi Bà Nà ( Quảng Nam ), Hòn Vọng Phu ( Khánh Hòa ) vùng sông Đồng Nai , và quanh Sài Gòn. cũng là đại mộc cao đến 25m .Vỏ lọài Artocarpus gomezianus Wall. vùng Trảng Bom ( Đồng Nai ) , Tây Ninh , có tên là cháy hay mít cháy, dùng ăn với trầu. Nhiều loài mít hoang dại cho gỗ tốt như lòai Artocarpus melinoxyla Gagn , màu gỗ vàng lợt như mật , có tên là gỗ mật ( hay có khi cũng gọi mít nài ) , thấy nhiều ở đồi núi Trường Sơn Đông 500 – 1000m , từ Quảng Trị đến Phú Yên , Khánh Hòa .
Mít trồng để ăn trái , tên khoa học là Artocarpus heterophyllus Lamk , tiếng Anh là jack tree , tiếng Pháp là jacquier , tiếng Mã lai Á , Phi luật Tân là jack, jak , jaca, tiếng Thái Lan là nangka, tiếng Cam bốt là khanum và tiếng Lào la phakni hay mạy mít. Mít tố nữ tên khoa học là Artocarpus integer Merr. , tên Anh là champedak , vài giống tuyễn chọn du nhập vài năm nay vào miền Nam , từ Mã lai Á . Lòai xa kê Artocarpus altilis Fosb . tên Anh là breadfruit tree , tên Pháp là arbre- à -pain, do nhà thực vật học Pháp Pierre du nhập từ Inđô nê xia , nhưng ít ai trồng .
Việt Nam trồng mít ăn trái , chứ không khai thác hột làm quả hạch ( nut )
Nước ta, ở miền Bắc,theo Đường Hồng Dật ( Cây ăn quả ba miền , Hà Nội -năm 2000 ) vài vùng dùng lá mít non ăn sống vừa chua vừa chát , ăn ghém với nhiều lọai cá. Lá già có thể nấu nước uống hàng ngày . Lá mít làm thuốc lợi sửa cho nhiều trâu , bò và nguời, đặc biệt các giống mít tố nữ. Đọt mít ( Mầm lá ) có thể sắc uống, chống tiêu chảy , và rối lọan tiêu hóa. Tuy nhiên các tính chất y học vừa kể , cũng như nói rằng hột mít có các chất men ức chế men tiêu hóa trong ruột, làm đầy hơi , chưa được thử nghiệm chính xác , khoa học .
Hoa mít ăn sống có vị chát , hơi ngọt ngọt. Rau hoa mít thái mỏng ăn vừa ngon , vừa khử được mùi tanh của mắm . Đặc biệt ngon là hoa mít nấu canh với cá chạch , lươn , cá trê. Nhắc lại là cây mít hoa đơn tính , cùng gốc – monoecious. Tên bình dân là “ dái “ Hoa cái mọc ngay trên thân , trên cành , dài 5-8 cm, ngang 2-5 cm . Hoa đực hình chùy . Trái mít sử dụng rất đa dạng ở Việt Nam . Để khỏi bị sâu , nơi 2- 3 quả mít kề nhau, thường bị lép không có múi , chỉ có xơ , người Việt hái dần ở chùm trái từ trái non đến trái già , chỉ để lại ở mỗi chùm hai , ba trái đẹp , không sâu bệnh ,cho đến khi trái chín . Cây mít càng ít trái thì trái càng to và ngon . Trái mít non ăn sống bằng cách thái nhỏ thả vào nước để hòa tan nhựa mít , rất trắng , ăn có vị ngọt , không chát , hay luộc chín mít non hay mít già để ăn . Luộc ăn mềm và ngon , làm mất vị chát , làm mất hết nhựa . Luộc cả miếng, sau khi chín, mới thái nhỏ. Trái mít già hay non đều có thể muối chua. Thái Lan đã đóng hộp xuất khẩu mít chua xắc lát .
Thịt múi mít -pulp hiện nay là phần giá trị nhất của trái mít . Múi mít chín phơi khô làm mứt ép nước ủ men làm rượu mít . Xơ mít, hay là múi lép luộc ăn như rau , ép nước làm rựơu , muối dưa chua. Theo đại học Florida , giá trị dinh dưỡng múi mít như sau , cho !00 grams thịt múi tươi : nước 73 %; calo ri 94 kcal ; protein 1,5 g ; chất béo 0.3 g , cholesterol 0g , carbohydrate -tinh bột 24 g; tổng số sợi ăn kiêng củ 1.6 gr ; sắt 0.6 mg; magnêsium 37 mg,;Phosphorus 36 mg ; Potassium 303 mg ; sinh tố C 6.7 mg , sinh tố A 207 IU .
Mấy năm gần đây, trái mít tươi đà bày bán ở thị trường một số nước Châu Á và Châu Âu, 2 năm gần đây bán ở các siêu thị Á Châu , bang Ca li. Đôi khi thấy ghi là nguồn gốc Việt Nam ( ? ) . Múi mít sấy khô , bao gói trong túi ni lông đã xuất khẩu sang Canada , :Pháp , Mỹ … và được ưa chuộng.
Nhưng hột mít mà nhiều dân Âu Mỹ cho là ăn cũng ngon tương tự hột dẽ ( marron , chestnust ) lại không thấy bán . Như hột dẽ của Trung Quốc , hay các hột dẽ tẩm đường, làm láng bóng nhiều ít – marrons glacés, bao bì đẹp dẽ, đắt tiền của Ý , Pháp , làm tráng miệng sang trọng những buổi ăn tối, đặc biệt vào mùa Giáng Sinh. . Hột mít đã được dân Việt ăn luộc , nấu nướng , phơi khô , đập nhỏ ăn dần , pha trộn với đậu phung ( lạc ) , vừng ( mè )…, rắc lên nhiều món ăn cho phong phú mùi vị hơn. Nhiều nhà chùa miền Bắc thường làm giò hột mít ( cọng thêm đậu phụng , lạc ), để ăn chay . Hột mít trung bình chứa 70 % tinh bột , 5.2% protêin , 0.62 % chất béo, 1.4% muối khoáng . Hiện nay trong số các hạch quả làm món ăn qua loa -snack food ở Mỹ, có thể thay thế hột to nhất là hột hạch quả Brasil , bằng hột mít nhỏ hay chẻ đôi , chẻ ba lọai lớn, nướng đúng cách, nhưng phải tuyễn lọai giòn hơn
Tuyễn chọn các lòai giống mít cho nhiều hột thích nghi.
Việt Nam chưa định giống mít . Chỉ phân biệt các giống trồng trọt theo hai lọai múi là mít ướt và mít ráo , hay qui lọai theo màu múi như mít vàng , mít nghệ ( đỏ cam đậm ) . Không định vùng sinh thái cho các lòai , các giống một cách đích xác . Chỉ mới nói đến mít năng xuất cao ( 20 – 30 tấn trái / ha ? ) ở quận Bố Trạch ,tỉnh Qủang Bình. Theo Đường Hồng Dật, những vùng mít trồng thành vườn lớn , dạng vườn rừng , vườn đồi ….như Đông Triều ( Quảng Ninh ) , Quỳnh Lưu ( Nghệ An ), Hà Bắc , Vĩnh Phú , nhiều cây mít không cho trái hay trái chỉ lác đác . Chúng ta cũng không lai tuyễn chọn với mít tố nữ như ở Thái Lan, Mã Lai Á , In đônexia, Ấn độ , Úc ; không tìm cách tháp thành công nhiều ( dù có cản trở là nhựa mít làm tháp khó khăn hơn ) với cành gỗ , mắt tháp , các giống cao năng hay dùng các gốc tháp mít địa phương đã hợp sinh thái hay của các cây con loài mít hoang dại mọc mau , kháng bệnh .
Lựa chọn các giống vừa cho thịt múi ngon , vừa nhiều hột , năng xuất cao
Sau đây là đặc điểm một số giống mít thí nghiệm ở bang Florida Hoa Kỳ , đáng cho chúng ta du nhập thử nghiệp trồng lại rừng mít , cao năng, vừa cho trái non hái dần , thịt múi màu nghệ hấp dẫn , tỉ lệ thịt cao 41 % làm rau dưa , vừa cho múi chín ăn tuơi hay sấy khô xuất khẩu, vừa cho hột mít làm hạch quả , vừa làm gỗ qúi , chống xói mòn , phủ xanh đồi trọc .
* J- 31 tuyễn chọn ở Mãlai Á , cây dễ xén tĩa cho thấp , kjhỏang 2.5m , dễ hái, trái sớm mùa nghich, mọc mau , trái lớn 13 kg , hình dạng không đều đặn, năng xuất 45 – 65 kg một cây , trái gai dẹp khi chín ,thịt múi màu vàng đậm , ráo , mùi vị ngọt ngào , thơm ngon, tỉ lệ ăn được 36% múi và một trái 180 hột, tỉ lệ hột 18% múi .
* Black Gold tuyễn chọn ở Úc , cây cũng dễ xén tỉa cho thấp , mọc mau lẹ. Trái chín chậm , trung bình 10kg một trái , dài nhọn đầu, cao năng một cây năng xuất 60- 100 kgr. Múi màu nghệ -cam đỏ đậm, ráo giòn đến mềm , thịt mùi vị ngot thơm , dễ bóc , thịt tỉ lệ 35 % múi ăn được , 192 hột một trái , tỉ lệ hột 17%
* Lemon Gold , tuyễn chọn ở Úc . Cây vạm vở , cần xén tĩa nhiều cho cây thấp, trái nhỏ 6-7 kg, , năng xuất một cây 30 p- 50 kg , chín giữa mùa, múi vàng lợt , ráo giòn , ngọt và thơm, gai dẹp khi trái chín , tỉ lệ thịt 37% , tỉ lệ hột 14%.
* Golden Nugget, cũng tuyễn chọn ở Úc . Mọc mau , dễ xén tĩa , trái chín sớm , trái nhiều cần tĩa dần trái non, trái nhỏ 3- 6 kg, tròn trịa.Gai dẹp, năng xuất cao 65- 85 kg một cây. Trái hay nứt khi mưa to . Thịt múi màu nghệ mềm , mùi vị ngon , một trái 79 hột , tỉ lệ hột 13 %
* Dang Rasimi , tuyễn chọn ở Thái Lan mọc mạnh , cần xén tĩa cho cây thấp , mọc mau , trái khá lớn 9- 10 kg , bầu dục, , năng xuất cao 65- 75 kg một cây, chín sớm . Thịt màu nghệ , ráo giòn hay mềm , mùi vị khá thơm ngon , tỉ lệ thịt 32 % , trái nhiều hột 187 hột một trái , tỉ lệ hột 12 %
* Tabouey , tuyễn chọn ở Inđô nêxia . cần xén tĩa cho cây mọc thấp hơn , cần tỉa trái non nhiều khi cây vẫn còn nhỏ . Trái khá lớn 10-12 kg, dài nhọn đầu, chín chậm , năng xuất khá cao 50- 70 kg. . Trái cũng hay nứt . Thịt màu vàng lợt , ráo giòn , mùi vị ít thơm tỉ lệ thịt 40 % , tỉ lệ hột 12 % và trái nhiều hột, 250 hột một trái .
* Kung wi Chan , tuyễn chọn ở Thái Lan . Cây mọc mau , mọc mạnh , cần xén tĩa cho cây khá thấp( 3m ) , trái to 15- 20 kg một trái , rất tròn trịa , năng xuất rất cao 120 kg một cây . Thịt màu vàng , hơi ráo giòn mùi vị khá ngon, nhưng Thái Lan cho là mít dỡ. Tỉ lệ thịt 29% , tỉ lệ hột 11 % , 210 hột một trái
* Cheena , tuyễn chọn khi lai mít với mít tố nữ ở Úc . . rất dễ xén tĩa cho cây thấp. .Trái nhỏ 2- 5kg một trái ,dài đều đặn và hẹp, chín giữa mùa , năng xuất khá cao 50- 65 kg một cây . Gai dẹp khi trái chín.Thịt màu màu nghệ ,mềm và khá xơ , mùi vị rất ngon thơm . .Tỉ lệ thịt là 33 % . Ít hột, 38 hột một trái , nhưng tỉ lệ hột đến 11 %.
Ước mong nông nghiệp nước nhà ,sau hạch quả nhân hột điều ( đào lộn hột ) chiếm hàng đầu xuất khẩu thế giới , một cây trồng trên đất nghèo nàn, nhiều chùa miền Đông Nam Phần ( Bộ) đã cho hột điều là nguồn thu lợi tức chánh gìn giữ, tu bổ chùa, làm công tác xã hội như thiết lập cô nhi viện, nhà chăm sóc người già cao niên…. : hột mít , hạch quả Ba la Mật, cải thiện năng xuất cũng như chế biến trên mọi vùng đất đồi núi từ Bắc chí Nam , cũng sẽ là nguồn thu họach chánh cho moi tộc dân Nam Bắc kể cả tộc dân Việt , như phát triễn hột điều miền Đông Nam Phần vậy đó . Cũng như xuất khẩu thịt múi mít tươi hay sấy khô , khai thác cây mít loại mọc mau chóng bao phủ xanh đồi trọc phá rừng mau cung cấp gỗ tốt cho công nghệ đồ mộc nước nhà, năm 2007 , đã đứng hàng nhì xuất khẩu nông nghiệp Việt Nam, trị gía , 2.4 tỉ đô la , chỉ sau xuất khẩu hải sản ( 3, 8 tỉ ), trên cà phê ( 1.85 tỉ) , gạo ( 1.45 tỉ ) . Nhưng còn nhập khẩu 80 % gỗ cho ngành công nghê này .
( Irvine , Ca Li tháng 5- 2008 )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét